
Tác giả : KANG CHOL-HWAN
với Pierre Rigoulot
Trần Quang Nghĩa dịch
11 LOẠN TRÍ RÌNH RẬP CÁC TÙ NHÂN
Vào mùa hè năm 1982, tình hình của tôi được cải thiện hơn nữa. Cuối cùng tôi đã có được một người bạn. Trại đã tiếp nhận hai tù nhân mới, gần như là người ngoài hành tinh, quần áo và vẻ ngoài đặc biệt của họ gợi cho chúng tôi nhớ về thế giới đã mất của mình. Họ là một phụ nữ thanh lịch đeo kính đen và cậu con trai ăn mặc đẹp đẽ, làn da trắng thanh tú tương phản một cách gay gắt với làn da của chúng tôi, thứ mà nắng, gió và tuyết đã biến thành da thuộc. Chúng tôi há hốc nhìn ngắm họ.
Trong vòng vài tháng, những bộ quần áo cắt may tinh xảo của họ sẽ mất hết vẻ quyến rũ. Người phụ nữ ngừng đeo kính; bà ấy và con trai mình trông giống như mọi người khác trong trại. Chưa đầy một năm sau khi bị giam giữ, cậu bé tên là Yi Sae-bong lâm bệnh nặng và không thể cử động được đôi chân. May mắn thay tình trạng tê liệt của cậu không kéo dài lâu. Lúc đầu chúng tôi gặp khó khăn khi giao tiếp, vì lớn lên ở Nhật Bản nên cậu chỉ biết được vài từ tiếng Hàn; nhưng cậu học ngôn ngữ này rất nhanh và chẳng bao lâu sau có thể cho tôi biết.minh đã đến Yodok bằng cách nào. Cậu lớn hơn tôi một chút và gia đình sống ở Kyoto, thành phố có chi bộ Chosen Soren hùng mạnh nhất bên ngoài xứ sở. Khi ban lãnh đạo Đảng ở Bình Nhưỡng chọn Han Duk-su đứng đầu cánh Nhật Bản, chi bộ Kyoto đã phản đối. Họ nói rằng Han Duk-su, chỉ được thả dù xuống; y chưa bao giờ làm bất cứ điều gì cho cuộc đấu tranh ở Nhật Bản. Các đối thủ đã lùi bước khi biết chính Kim Il-sung đã ủng hộ việc đề cử gây tranh cãi này, nhưng đến lúc này, ứng cử viên cay đắng của Lãnh tụ vĩ đại đã quyết tâm trả thù những đồng chí đã phản đối mình. Nhiều thành viên của chi bộ Kyoto bị đưa vào trại. Họ đã chống lại ý muốn của Han Duk-su và rộng hơn là của Kim Il-sung, và đây là một tội ác không thể dễ dàng tha thứ.
Giống như nhiều người mù quáng trước mối nguy hiểm, cha của Yi Sae-bong quyết định chuyển gia đình trở về Triều Tiên. Ông dự định đến trước, sau đó sẽ gọi vợ, ba con trai và con gái theo sau Tuy nhiên, không lâu sau khi đến nơi, ông đã bị bắt vì tội làm gián điệp và bị đưa vào trại lao động khổ sai. Khi nhiều tuần trôi qua mà không nhận được tin tức gì, Yi Sae-bong và mẹ anh đến Bắc Triều Tiên để cố gắng tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với ông. Thay vì nhận được thông tin, họ lại bị bắt và đưa đến Yodok.
Tôi thích nghe những câu chuyện của Yi Sae-bong về Nhật Bản. Tôi ngạc nhiên trước tất cả các nhãn hiệu bia của họ—được xuất khẩu đến khắp nơi trên thế giới—và trước những lính Mỹ da đen to xác khệnh khạng đi trên đường phố. Trí tưởng tượng của tôi bay bổng khi nhắc đến Pháp, Anh, Đức và Tiệp Khắc – nước sau này đặc biệt khiến tôi kinh ngạc. Điều khiến tôi thích thú nhất là những miếng bít tết dày, mọng nước mà người ta ăn bằng dao và nĩa. Tôi muốn biết chúng được nấu như thế nào, chúng được trang trí bằng gì, các món ăn đi kèm với chúng là gì. Tôi buồn vì không thể tưởng tượng được mùi vị của món xốt cà và cảm thấy khó chịu vì sự lãng phí tràn lan, trong đó có việc vứt đi những bữa ăn dở. Điều sốc hơn nữa là bạn tôi cho rằng các cửa hàng tạp hóa bán trái cây quanh năm. Tôi gần như sẵn sàng nghi ngờ cậu ta nói dối. Hoặc là như vậy hoặc tin rằng Nhật Bản thực sự là một thiên đường – một khả năng là, bất chấp những hồi ức nồng ấm của cha và chú tôi, tôi vẫn cảm thấy khó chấp nhận.
Yi Sae-bong là người đã giới thiệu tôi đến đất nước Nhật Bản. Tôi liên tục hỏi thăm chi tiết về trường học, giao thông, phim ảnh, cửa hàng bách hóa của cậu. Tôi rất ngạc nhiên trước mô tả của cậu ta về dây chuyền lắp ráp ô tô, nơi robot lắp ráp toàn bộ ô tô lại với nhau chỉ trong vài phút. Tuy nhiên, điều đáng kinh ngạc nhất là nhà vệ sinh: họ có ghế để bạn có thể ngồi đọc báo hoặc uống một tách cà phê. Đối với tôi điều đó thật khó tin. Lần đầu tiên Yi Sae-bong đi vệ sinh ở Yodok, cậu ta đã nôn mửa.
Mùa đông năm 1982–83 tương đối ôn hòa. Tuy nhiên, than ôi, băng và tuyết không phải là nguyên nhân duy nhất gây ra cái chết ở Yodok. Cũng có những tai nạn—những tai nạn khủng khiếp—như vụ tôi chứng kiến khi làm nhiệm vụ đặc biệt ở mỏ đất sét. Một nhóm trẻ được lệnh đào một tấn đất mịn chỉ trong một buổi chiều, một chỉ tiêu vô lý. Làm việc mà không có sự giám sát của người lớn hay giàn giáo, chúng đào những đường hầm kích cỡ trẻ em vào chân vách đá, nơi xung quanh nhanh chóng trở nên u ám với bóng tối và bụi bặm. Công việc của tôi ngày hôm đó là khuân đất đào được lên xe tải chở đi. Tôi vừa kết thúc một chuyến thì nghe thấy một tiếng ầm ầm tắt nghẹn, sau đó là tiếng la hét. Tôi chạy về phía đường hầm. Đường hầm đã sụp xuống. Một số trẻ em đã bị mắc kẹt. Khi tôi đang làm việc cật lực để giúp đào đống đổ nát, tôi tình cờ nghe thấy hiệu trưởng của tôi đang nói đùa với một người lính gác.
“Thật là một thành quả tuyệt vời, bọn trẻ này đã làm được!” y trầm ngâm. “Đã đào và làm sụp đổ vách đá một lần nữa. Lũ ngu ngốc! Rồi ra sẽ không còn phải nuôi đứa nhỏ nào đâu!”
Chúng tôi cố gắng kéo được năm hoặc sáu đứa còn sống ra ngoài, nhưng tất cả những đứa còn lại đều đã chết. Tôi nhớ thi thể của chúng, xanh xao nhưng chưa cứng lại. Tôi cảm thấy một nỗi đau khổ khủng khiếp. Những đứa trẻ này bằng tuổi tôi; số phận đơn giản là đã không tử tế với chúng hơn. Đáng lẽ không bao giờ nên giao công việc đó cho chúng. Thật không may, câu chuyện không kết thúc ở đó. Sau khi giận dữ quở trách cả nhóm phải rút kinh nghiệm, giáo viên ra lệnh cho chúng tôi quay lại làm việc – tôi cho là vì mục đích kỷ luật. Vẫn còn run rẩy, bọn trẻ xin hoãn công việc sang ngày hôm sau nhưng giáo viên không đồng ý. Hắn ta đá và tát chúng cho đến khi chúng trở lại vị trí của mình – ngay tại nơi chúng vừa đưa những người bạn của mình ra, thi thể của chúng vẫn còn nằm trong tầm mắt, chờ được chuyển đến bệnh viện của trại.
Mỗi làng đều có một bệnh viện – giả sử thuật ngữ đó có thể được áp dụng chính đáng cho một văn phòng có hai phòng nồng nặc chất khử trùng. Đây là nơi quyết định liệu một tù nhân có phù hợp để làm việc hay không. Đồ đạc trong bệnh viện chỉ có một cái bàn, vài cái ghế và một chiếc giường cũ nát. Bác sĩ, một tù nhân, thậm chí còn không có áo blu. Dụng cụ y tế duy nhất của ông là một chiếc ống nghe. Có y tá hỗ trợ nhưng y không có thuốc gì ngoài vài viên thuốc chống viêm. Nhiệm vụ chính của bác sĩ là điền vào mẫu đơn miễn trừ cho các tù nhân bị bệnh không phải tham gia lao động. Trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, bác sĩ đôi khi cho dùng thuốc kháng sinh hoặc một số loại thuốc tiêm khác, nhưng trường hợp này rất hiếm.
Những bệnh nhân cần phẫu thuật ngay lập tức – chẳng hạn như trường hợp viêm ruột thừa và cắt cụt chi – được điều trị tại một bệnh viện thực sự của trại, dành riêng cho lính canh và gia đình họ. Đó là nơi các tù nhân cố gắng tránh, vì sau khi phẫu thuật họ sẽ bị bỏ lại một mình, thường bị nhiễm trùng thứ cấp gây chết người. Nếu một bệnh nhân cần nhiều hơn một cuộc phẫu thuật thô sơ, anh ta sẽ không được điều trị và để cho chết.
Các tù nhân mắc các bệnh về phổi và gan — trong đó có rất nhiều bệnh — bị cách ly vĩnh viễn trong một cơ sở. Các dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh lây truyền qua bọ chét như ghẻ và sốt phát ban, rất phổ biến. Tôi có một giáo viên sợ mắc bệnh đến mức có lần y ra lệnh cho chúng tôi rời khỏi lớp học và không được quay lại cho đến khi chúng tôi cởi trần hoàn toàn, bắt hết bọ chét trên người và dùng móng tay dí bẹp chúng. Bất cứ khi nào phát hiện trường hợp mắc bệnh thương hàn, người bệnh ngay lập tức được chuyển đến khu cách ly và toàn bộ ngôi làng của anh ta bị cách ly nghiêm ngặt. Người dân trong làng sau đó được đưa lên núi cho đến khi hết thời gian ủ bệnh. Sau đó, ngôi làng bị thiêu rụi và được những người sống sót xây dựng lại.
Khu cách ly được chia thành hai khu, một khu dành cho bệnh nhân lây nhiễm, khu còn lại dành cho các bệnh nhân tâm thần. Cả hai khu đều không có sẵn thuốc. Các bệnh nhân chỉ đơn giản là chờ đợi bệnh tật của họ qua đi. Nếu họ chết thì thật là tệ. Nếu sống được, họ sẽ được đưa trở lại làm việc.
Trại có nhiều trường hợp điên loạn, khiến cả bệnh nhân và gia đình họ gặp nguy hiểm lớn. Một người điên có thể nói bất cứ điều gì. Nếu nói tốt cho Kim Il-sung thì không có chuyện gì tồi tệ xảy ra với người nhà bệnh nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp ngược lại, bệnh nhân và gia đình có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình. Bệnh tâm thần tấn công cả người già lẫn người trẻ, những người mới đến và những tù nhân kỳ cựu, khi bầu không khí kinh hoàng, thức ăn khan hiếm và giấc ngủ không đủ khiến tất cả chúng tôi thường xuyên rơi vào tình trạng mê sảng. Những tù nhân mất cân bằng phải làm việc như mọi người khác, chỉ có điều khẩu phần ăn của họ được chia tỷ lệ thuận với khối lượng công việc họ thực hiện. Nếu họ làm việc ít, họ sẽ có rất ít thức ăn. Nếu họ không làm việc gì cả, họ sẽ chết đói.
Tôi đã chứng kiến nhiều cơn điên loạn ở trại. Một học sinh đã phải nghỉ học một tháng sau khi bị giáo viên đánh đập dã man khiến em bị mê sảng. Một trường hợp hóa điên khác đã xảy ra với một người bạn tốt của tôi, người có cha từng là giáo viên lịch sử của Kim Il-sung đồng thời là bộ trưởng bộ giáo dục quốc gia. Gia đình cậu bé đến trại cùng lúc với chúng tôi, cậu ấy và tôi học cùng lớp. Một ngày nọ, giữa giờ học, cậu bỗng bắt đầu nói huyên thuyên, rồi dừng lại và phá lên cười không nhịn được. Khi tôi hỏi cậu có chuyện gì mà buồn cười thế, cậu nói với tôi hôm trước anh trai cậu đã cho cậu ấy ăn một món gì đó rất ngon. Cậu liếc nhìn xung quanh với ánh mắt kỳ lạ và đưa ra những câu trả lời vô nghĩa cho tất cả các câu hỏi của chúng tôi. Cuối cùng, giáo viên đã gửi cậu ta về nhà. Chúng tôi đã không gặp lại cậu ấy trong sáu tháng. Sau đó cậu ấy trở lại, có vẻ tỉnh táo, chỉ dè dặt và ít nói hơn trước đây.
12
PHÊ VÀ TƯ PHÊ HAI LẦN MỘT TUẦN
Năm 1984, tôi tròn mười lăm tuổi. Tôi là một đứa trẻ gầy gò, thậm chí theo tiêu chuẩn của trại, nhưng tôi có sức chịu đựng tốt hơn hầu hết tù nhân cùng tuổi. Tôi có thể đi bộ nhanh nhẹn trong nhiều giờ với một gánh nặng, đã đi được một chặng đường dài kể từ lần tôi bất tỉnh vì phải vác một khúc gỗ. Cho dù những đứa trẻ mới đến có trông khỏe mạnh hơn thế nào đi chăng nữa thì không đứa nào có thể theo kịp tôi. Tại Yodok, thói quen, sự rèn luyện và mánh khóe được coi trọng hơn sức mạnh. Đến trại ở độ tuổi đã cho tôi nhiều thời gian để phát triển những phẩm chất này.
Sức chịu đựng của tôi dần dần khiến tôi được các bạn tù tôn trọng. Ngay cả lực lượng bảo vệ— không hẳn là loại người dễ dãi—cũng chưa bao giờ ra sức quá nhiều để đối xử với tôi như một “kẻ gây rối” hoặc khiến cuộc sống của tôi trở nên khốn khổ.
Vậy tôi có dám chấp nhận nó không? Một mối ràng buộc bí ẩn nào đó đã gắn kết tôi với nơi đó. Tôi từng nghe nói rằng kẻ nô lệ khốn khổ nhất là người bằng lòng với số phận của mình. Đó không phải là trường hợp của tôi; Tôi không hài lòng. Nhưng Yodok là chiếc lồng lớn nơi tôi trưởng thành và nhận ra những thực tế khắc nghiệt của cuộc sống. Đó là cái lồng của tôi – và mặc dù tôi là một tù nhân đói khát, khoác trên mình bộ đồ rách rưới, tôi đã học được cách yêu những mùi hương lan tỏa trong làn gió mùa xuân, màu xanh dịu dàng của những chiếc lá đầu mùa, ánh hồng cuối cùng trên bầu trời buổi tối khi mặt trời đã lặn sau dãy núi. Tôi không bao giờ có thể nhìn những ngọn núi đó, nơi tôi được cử đi hái nhân sâm rừng và các loại thuốc khác với bạn bè của mình mà không xúc động: Tôi nhớ lại lần chúng tôi vô tình chạm mặt một con gấu và phải đuổi nó xuống núi; bữa ăn chúng tôi được chế biến từ một con rắn giết được; vị ngọt của trái rừng chúng tôi hái. Đó là những kỷ niệm quý giá, về tình bạn và sự đoàn kết. Những thứ này rất hiếm ở Yodok và tôi đã ghì chúng thật chặt. Chúng cho tôi sức mạnh, không giống như những ký ức cũ quay trở lại làm tôi buồn và hao mòn sức lực. Tôi đã không từ bỏ ký ức về những bể cá của mình, nhưng bây giờ tôi nghĩ chúng thuộc về một thế giới khác, thế giới bị bỏ hoang của Bình Nhưỡng; về ông nội tôi, người bị kết án là “tội phạm”; về mẹ tôi, người mà họ đã giữ lại và buộc phải ly dị cha tôi; về Nhật Bản, như nó đã trở nên sống động trong những hồi ức của chú và cha tôi. Quá khứ này không có chỗ trong cuộc sống mới của tôi, cuộc sống không thể dung chứa sự mềm lòng, của tôi hay của bất kỳ ai khác.
Đó là cách tôi dần dần trưởng thành, mặc dù đối với trại, quá trình chuyển đổi diễn ra cùng một lúc, với “Lớp học cuối cùng”. Giáo viên của chúng tôi đã có một cách minh họa súc tích ý nghĩa thực sự của quá trình chuyển đổi đó: “Cho đến nay,” thầy ấy nói với chúng tôi vào ngày cuối cùng ở trường, “khi các em mắc lỗi, dù là lỗi nghiêm trọng, không ai bắn các em vì điều đó. Nhưng từ đây trở đi, các em là người lớn có trách nhiệm và các em có thể bị bắn. Hãy coi như mình đã được cảnh báo.” Trong khi chờ đợi bản án tử hình để kiểm tra toàn bộ trách nhiệm mới của tôi, ngay ngày hôm sau tôi đã được phép nếm trải những niềm vui giản dị của cuộc sống trưởng thành ở Yodok: lao động chân tay từ sáng đến tối, chỉ tiêu căng thẳng, thỉnh thoảng được phân phát thuốc lá chất lượng hạng ba, các buổi phê bình và tự phê bình công khai, v.v.
Những buổi phê bình và tự phê bình không có gì mới mẻ đối với tôi. Những cuộc họp như vậy diễn ra ở mọi trường học ở Triều Tiên, bao gồm cả Yodok. Nhưng bên ngoài trại, những hoạt động tư tưởng này có xu hướng mang tính chất hòa bình và khá trang trọng. Sẽ không có gì lớn xảy ra nếu bạn không phê bình đủ tốt hoặc vô tình phê bình quá gay gắt. Tại Yodok, số tiền đặt cược cao hơn nhiều. Các hình phạt bao gồm chặt gỗ hàng giờ vào ban đêm, ngay cả đối với trẻ em mười và mười ba tuổi.
Bầu không khí căng thẳng. Bạn có thể cảm nhận được sự sợ hãi và căm ghét đang lan rộng khắp căn phòng. Những đứa trẻ không thành thạo trong việc kiểm soát cảm xúc của mình như người lớn, những người biết rằng điều khôn ngoan nhất nên làm là chấp nhận bất kỳ lời chỉ trích nào họ nhận được. Người lớn hiểu rằng đó chỉ là một tập tục không liên quan gì đến những gì các bạn tù thực sự nghĩ về mình. Rồi chẳng bao lâu sau, người bị chỉ trích sẽ phải chỉ trích người đã chỉ trích mình. Đó là những quy tắc; không có gì cá nhân về điều đó. Tuy nhiên, việc bạn bè chỉ trích lỗi lầm lẫn nhau là điều khó chấp nhận đối với trẻ em, đặc biệt nếu điều đó chúng cảm thấy không công bằng. Chúng sẽ tức giận, tranh cãi, ngắt lời nhau. Trong khi các phiên họp ngắn ngày thứ tư, chỉ kéo dài hai mươi phút, hầu như không đủ lâu để gây ra thiệt hại lớn, thì các phiên họp chiều thứ bảy, kéo dài gần hai giờ, lại sôi động và căng thẳng hơn đáng kể. Một phiên họp đặc biệt cũng có thể được triệu tập nếu có điều gì đó bất thường xảy ra ở trường. Nội dung những lời chỉ trích của người lớn về cơ bản cũng giống như của trẻ em: “Tôi không cẩn thận trong giờ làm việc. . . Hôm qua tôi đến muộn vì bất cẩn, v.v. . .” Sự khác biệt chính là các buổi phê bình dành cho trẻ em được tiến hành giữa các bạn cùng lớp.
Đối với người lớn, mỗi đội làm việc có địa điểm riêng cho các phiên họp thứ tư, trong khi vào thứ bảy, các đội khác nhau họp cùng nhau trong một tòa nhà lớn duy nhất, trên tường treo các bức chân dung của Kim Il-sung và Kim Jong-il. Ở cuối phòng là một cái bục có một chiếc bàn để người tù ngồi trình bày bản tự phê của mình. Cạnh bàn có hai lính canh cùng với một đại diện của các tù nhân. Không có chiếc ghế nào khác trong phòng. Các tù nhân khác ngồi trên sàn theo đội năm người, tụ tập với các thành viên trong đội của họ. Hội trường luôn đông đúc. Một số tù nhân ngủ gật, những người khác trở nên buồn nôn vì mùi cơ thể nồng nặc trong không khí – ở Yodok không có xà phòng.
Đôi khi chúng tôi họp thành từng nhóm nhỏ hơn để chuẩn bị trước cho bài thuyết trình ngày thứ bảy. Bốn người chúng tôi sẽ thảo luận về những hành vi sai trái của mình trong tuần, trong khi thành viên thứ năm ghi chép. Sau đó, báo cáo được trình lên người quản lý trại, người này chọn ra mười trường hợp “thú vị” nhất trong tuần để trình bày trước toàn thể làng. Phần mở đầu của buổi lễ có phần khác nhau, nhưng hành động chính luôn giống nhau. Người làm sai sẽ bước lên bục, cúi đầu và bắt đầu tự phê bình bằng một công thức rõ ràng chẳng hạn như “Lãnh đạo vĩ đại của chúng ta đã chỉ huy chúng ta” hoặc “Lãnh đạo kính yêu của chúng ta đã dạy chúng ta”. Sau đó, người phạm tội trích dẫn một trong những “Suy nghĩ” vĩ đại của nguyên thủ quốc gia, liên quan đến văn hóa, tuổi trẻ, công việc hoặc học tập, tùy thuộc vào hành vi phạm tội đã thực hiện. Một lời chỉ trích điển hình đã diễn ra như thế này:
“Tại hội nghị nổi tiếng ngày 28/3/1949, Lãnh tụ vĩ đại của chúng ta đã tuyên bố rằng tuổi trẻ của chúng ta phải luôn năng động nhất thế giới, cả trong công việc lẫn học tập. Nhưng thay vì chú ý đến những suy nghĩ sáng suốt của người đồng chí đáng kính Kim Nhật Thành, tôi đã hai lần đến muộn khi nhận nhiệm vụ. Chỉ riêng tôi phải chịu trách nhiệm về sự chậm trễ này, chứng tỏ sự coi thường hình ảnh phản chiếu sáng ngời của Lãnh tụ vĩ đại của chúng ta. Từ giờ trở đi, tôi sẽ thức dậy sớm hơn nửa tiếng và tự mình gánh vác nhiệm vụ hoàn thành mệnh lệnh của ngài. Tôi sẽ làm mới bản thân và trở thành một chiến binh trung thành trong cuộc cách mạng của Kim Il-sung và Kim Jong-il.”
Sau đó, người chủ trì an ninh sẽ quyết định xem việc tự phê bình có thỏa đáng hay không. Nếu đúng như vậy, tù nhân có thể tiến hành bước tiếp theo: chỉ trích người khác. Nếu những lời chỉ trích của anh ta được cho là không phù hợp, người đại diện sẽ yêu cầu một thành viên trong khán giả mở rộng những lời chỉ trích được đưa ra. Nếu bị cáo cố gắng tự bào chữa, một tù nhân thứ ba, và nếu cần thiết, người thứ tư sẽ được chọn để thực hiện vụ tấn công. Việc tự vệ không bao giờ là khôn ngoan, bởi vì việc xem xét không thể kết thúc cho đến khi tù nhân thừa nhận lỗi lầm của mình. Khi một tù nhân đã hài lòng, chúng tôi chuyển sang trường hợp được chọn trước tiếp theo. Buổi học kéo dài từ một tiếng rưỡi đến hai tiếng, kéo dài từ 9 giờ tối cho đến khoảng 11 giờ đêm, không phải lúc nào cũng có đủ thời gian để xử lý hết mười vụ án. Nếu thời gian không còn nhiều, các đặc vụ sẽ hợp nhất hành vi sai trái của toàn đội hoặc một số thành viên của đội vào một bài thuyết trình duy nhất. Sau đó, một thành viên của đội có tội sẽ trình bày bản tự kiểm điểm thay mặt cho tất cả những người có liên quan.
Các phiên họp diễn ra theo quy ước và hình thức đến mức khó có thể coi chúng là nghiêm túc – bất chấp sự im lặng hoàn hảo dưới ánh mắt gay gắt của lính canh theo dõi. Chúng tôi giống như những đứa trẻ buồn chán trong một lớp học mà chúng thấy vô nghĩa. Sự phân tâm nhỏ nhất cũng có thể khiến chúng tôi vỡ òa. Đã nhiều lần dưới khán giả có tiếng đánh rắm rõ to khi việc tự phê bình đang diễn ra. Một sự cố nhỏ như vậy là đủ để phá vỡ sự trang trọng giả tạo của buổi lễ và khiến những người bảo vệ nổi cơn thịnh nộ. Đôi khi họ giả vờ như không nghe thấy, nhưng có lúc họ lại yêu cầu muốn 7biết thủ phạm là ai. “Ai xì hơi?” họ hét lên. “Người đánh rắm đứng lên!” Nếu không có ai thú nhận, lính canh sẽ giữ chúng tôi ngồi đó cho đến khi xác định được tên tội phạm, điều mà cuối cùng hắn luôn luôn phải tự thú. Sau đó, thủ phạm sẽ bị đẩy tới bàn tự phê bình để đền tội cho cái rắm của mình, cuối cùng hắn thường phải nhận hình phạt làm thêm phần công việc bổ sung trong suốt một tuần.
Chúng tôi rất sợ những cuộc họp kéo dài này sẽ rút ngắn buổi tối nghỉ ngơi quý giá của chúng tôi. Sao mà họ quá coi trọng những điều giả tạo ấy, nhưng đó không phải là cách mà ban quản lý trại nhìn nhận. Họ luôn nhắc nhở chúng tôi rằng “chỉ làm việc không thôi không thể nhổ tận gốc hệ tư tưởng thối nát của bạn. Bạn cần phải kiểm ssoát bản thân.” Ý của họ là kiểm soát ý thức hệ và việc duy trì nó là một phần trách nhiệm của chúng tôi. Do đó, khi đến tuổi trưởng thành, chúng tôi được tặng ba cuốn sổ để theo dõi quá trình cải tạo đầu óc của mình: “Sổ ghi chép chính trị của Đảng”, “Sổ ghi chép lịch sử cách mạng của Kim Il-sung và Kim Jong-il,” và “Sổ tay đánh giá cuộc sống”. Cả ba đều đi cùng chúng tôi đến những buổi phê bình để chúng tôi có thể ghi lại tất cả những bài học đã học được.
Để giúp nâng cao trình độ giáo dục và cải tạo của chúng tôi, chúng tôi cũng tham gia hai lớp học mỗi tuần để học các bài hát cách mạng và hiểu sâu hơn về cuộc đời và tư tưởng của Kim Il-sung. Chương trình giảng dạy (được gọi là “các bài giảng”) chủ yếu bao gồm việc nghe các bài báo được đọc to từ tờ Rodong Sinmun, trong đó ba bản hàng tuần được gửi đến văn phòng tiếp tế. Chúng tôi không được phép tự mình đọc báo vì lời nói trực tiếp của Đảng chỉ dành cho các nhân viên an ninh. Bọn thối nát như chúng tôi, sẽ rất nguy hiểm nếu để chúng tôi xem nhiều hơn một số bài báo được chọn trước, và thậm chí những bài báo này cần được các đặc vụ giải thích cho chúng tôi. Với hệ tư tưởng thối nát của chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn có khả năng hiểu sai mục đích thực sự của chúng. Nói “giải thích” thực sự là quá tôn trọng các đặc vụ. Thật ra tất cả những gì họ làm là tọng vào đầu chúng tôi những lời nói vô vị nhất của Lãnh tụ Vĩ đại. “Tôi đọc cho các người bài viết này vì Mỹ và bọn bù nhìn của họ ở Seoul một lần nữa đang đe dọa chiến tranh. Tham vọng chinh phục của bọn đế quốc đe dọa hòa bình, và để chống lại nó, chúng ta phải trang bị vũ khí về mặt tư tưởng.”
Tôi không biết liệu lính canh có tin những gì họ nói hay không, nhưng khi họ nêu ra khả năng xảy ra một cuộc chiến mới, một số người trong chúng tôi đã lo lắng. Chúng tôi luôn được thông báo rằng nếu “đế quốc và tay sai” xâm chiếm Triều Tiên, nhân viên trại sẽ giết sạch chúng tôi trước khi kẻ thù đến. Tôi vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó có thể rời Yodok. Tôi không muốn bị lính canh bắn mà không có được niềm vui khi thấy họ chạy trốn. Những lời đe dọa kiểu này khiến tôi ớn lạnh sống lưng, nhưng chúng lại không gây ấn tượng mấy với các cựu tù lớn tuổi. Chuyện gì sẽ xảy ra cứ xảy ra là phương châm của họ, và bất cứ điều gì xảy ra bên ngoài trại đều không được họ quan tâm.
Vẫn nằm trong khuôn khổ cải tạo tư tưởng của chúng tôi, các đặc vụ đôi khi kiểm tra lòng trung thành của chúng tôi với Kim Il-sung bằng cách bắt chúng ta hát hò vô tận “Bài ca của tướng Kim Il-sung”. Một phần của bài hát có nội dung: “Ở Triều Tiên, một mùa xuân mới đang đến khắp mọi nơi”. “Pang-bang kok-kok” có nghĩa là “khắp mọi nơi, không có ngoại lệ.” Tôi nhớ một tù nhân già trong trại đã di cư từ Nhật Bản, giống như bố mẹ tôi, và nói tiếng Hàn với giọng nặng nề. Thay vì hát “pang-bang kok-kok”, ông ấy vô tình sử dụng một dạng ngữ nghĩa hơi khác— “yogi chogi”, bốn âm tiết có nghĩa là “bừa bãi vô thứ tự” có mối liên hệ khá tiêu cực với các đồ rác rưởi. Những người nghe thấy lời nói lỡ của ông ta bắt đầu cười đến chảy nước mắt. Kết quả là ông bị chỉ trích và gán cho cái mác “kẻ lệch lạc về tư tưởng” và gần như bị đưa vào thùng xông hơi.
Vào đầu mỗi năm, chúng tôi có vinh dự được nghe bài diễn văn năm mới dài dòng của Kim Il-sung. Bài phát biểu là tâm điểm của một sự kiện kéo dài hai ngày với một cuộc thi vô duyên là đọc thuộc lòng. Tuy nhiên, nó có thể còn tệ hơn. Lúc đó là tháng giêng—thời điểm mà nhiệt kế thường xuống dưới — 17° C – và thay vì ra ngoài, chúng tôi được tập họp trong một căn phòng có hệ thống sưởi ấm tốt. Vào ngày đầu tiên, chúng tôi ghi lại bài phát biểu vào trong cuốn sổ của mình, trong khi lính canh đi vòng quanh để đảm bảo rằng chúng tôi đã nỗ lực. Ngày hôm sau, chúng tôi học thuộc lòng bài phát biểu. Thử thách lớn nhất là tìm cách ngủ gật mà không bị phát hiện. Các lính canh thực sự chỉ mong chúng tôi nghiên cứu thông điệp của Lãnh tụ vĩ đại và thuộc lòng một vài câu trích dẫn. Để giữ cho chúng tôi thành khẩn, họ chọn một số tù nhân để đọc lại những gì họ đã học được. Ba thí sinh đứng đầu đã giành được giải thưởng—những giải thưởng đáng kể, xét theo điều kiện của chúng tôi. Người chiến thắng nhận được một chiếc áo khoác, á quân 1 một đôi tất và á quân 2 một đôi găng tay. Các cuộc thi đọc thuộc lòng dành cho trẻ em được tổ chức trong lớp, người chiến thắng sẽ được miễn lịch làm việc thông thường trong một thời gian ngắn.
Ký ức của tôi về những bài phát biểu này đã phần nào mờ đi, nhưng tôi nhớ rằng chúng luôn bắt đầu bằng bản tường thuật về những thành tựu của năm trước trong nông nghiệp, công nghiệp, lực lượng vũ trang, v.v. và kết thúc bằng danh sách “các mục tiêu cho tương lai”. Đâu đó ở giữa đã có sự đồng tình với những người Hàn Quốc cư trú tại Nhật Bản, những người dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Han Duk-su đang tiếp tục dẫn đầu một trận chiến dũng cảm ngay trong lòng đất địch. Ngoài ra còn không thể tránh khỏi nhắc đến người dân Hàn Quốc đang phải chịu sự chia cắt tàn khốc khỏi quê hương Triều Tiên và lao động cực nhọc dưới ách thống trị của tay sai Mỹ.
Ngày sinh nhật của nhiều nhà lãnh đạo khác đủ quan trọng để làm cái cớ cho các lễ kỷ niệm sư phạm hoặc phá vỡ thói quen thông thường. Vào những ngày như vậy, kẹo được phát cho tất cả trẻ em trong nước, thậm chí đôi khi cho cả những đứa trẻ trong trại. Tôi nhớ sinh nhật lần thứ 70 của Kim Il-sung vào năm 1982. Ngay khi nhận được chiếc kẹo, tôi chạy về nhà khoe với bà tôi. Vào thời điểm này, niềm tin của bà vào Đảng Lao động đã không còn nữa. “À, ra thế,” bà nói. “Chúng ta đã cho họ tất cả những gì chúng ta có, và đổi lại chúng ta nhận được nhiều năm ở trại và một ít kẹo rẻ tiền. Có điều gì đó đáng để ăn mừng, con ạ. Và xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Kim Il-sung!” Dù sao thì tôi cũng đã ăn quà rồi. Chúng là món ngon đầu tiên tôi được nếm sau một thời gian rất dài.
Những ngày sinh nhật khác là những sự kiện ít trang trọng hơn, thỉnh thoảng có những phần thưởng khiêm tốn hơn, nhưng chúng được đánh giá rất cao. Vào các ngày 1 tháng 1 (Ngày đầu năm mới), 16 tháng 2 (sinh nhật Kim Jong-il), 9 tháng 9 (kỷ niệm ngày Triều Tiên tuyên bố thành lập nhà nước) và 10 tháng 10 (kỷ niệm thành lập Đảng), chúng tôi tụ tập xem một chương trình truyền hình bổ ích hay một bộ phim cách mạng. Chúng tôi được tan làm sớm để đi xem phim nhưng có lúc mệt quá, chúng tôi ngủ ngay.
Tôi nhớ một bộ phim về cuộc đời của Kim Il-sung trong đó diễn viên chính trông giống hệt Lãnh tụ vĩ đại. Ông đang đưa quân của mình băng qua vùng đồng bằng Mãn Châu rộng lớn, bị đóng băng bởi giá lạnh và tuyết. Cuộc đấu tranh khốc liệt của những người theo phe Kim Il-sung và sự đối xử tàn nhẫn của người Nhật đối với họ đáng lẽ phải khơi dậy sự thông cảm của chúng tôi, nhưng cuối cùng nó lại làm điều ngược lại. Chúng tôi đang vật lộn vất vả ở Yodok như những người theo phe Kim Il-sung ở vùng đồng bằng băng giá; những gì chúng tôi nhìn thấy trên màn hình trùng khớp với tình trạng của chúng tôi. Những ngục tối, sự tàn bạo, lính canh vô nhân đạo và nguồn cung cấp thực phẩm ít ỏi được mô tả trên màn hình không khiến chúng tôi cảm động; chúng tôi đã sống với những điều này hàng ngày. Ngoại trừ nỗi đau khổ của chúng tôi không phải do kẻ thù xâm lược Nhật gây ra mà do chính đồng bào của chúng tôi gây ra!
Tôi nhớ một bộ phim khác kể về một người đàn ông tên Kapyong đăng ký làm phụ tá trong quân đội Nhật Bản. Không có một đứa trẻ nào ở đất nước này, bao gồm cả Yodok, chưa xem bộ phim này ít nhất cả chục lần và thuộc lòng từng chữ. Trong phim, Kapyong hợp tác với người Nhật vì cuộc sống và thiếu ý thức chính trị. Sau đó, anh gặp Kim Nhật Thành, nhìn thấy ánh sáng cách mạng và hóa thân thành một người yêu nước thực sự. Sau đó, anh hát than thở về những tủi nhục mà anh phải chịu đựng dưới bàn tay của “những tên phát xít”. Trong các rạp hát ở Bình Nhưỡng, tất cả trẻ em đều hát theo bài hát trong phim. Ở Yodok, chúng tôi cũng làm điều tương tự, ngoại trừ việc trong đoạn điệp khúc, thay vì than khóc cho số phận của “Kapyong tội nghiệp”, mọi người đều thay thế tên của mình.
Tuyên truyền quá lố bịch, phương pháp giảng dạy quá thô thiển, chúng tôi nhất định phải bác bỏ nó. Giống như mọi cơ sở giáo dục ở Triều Tiên, trường trong trại có một phòng truyền thống dành riêng cho việc nghiên cứu cuộc cách mạng của Kim Il-sung. Trên tường treo một bức chân dung khổng lồ của Lãnh tụ vĩ đại, và nhìn đâu cũng thấy những bức ảnh minh họa các giai đoạn khác nhau trong cuộc đời anh hùng của ông. Cấm bất cứ ai vào phòng bằng chân trần hoặc lấm bẩn. Chúng tôi phải đi tất—và không phải bất cứ chiếc tất nào cũng được. Nhân dịp này, chúng tôi phải mang đôi tất đặc biệt được tặng nhân dịp sinh nhật của Kim Il-sung, đôi tất dành riêng cho việc viếng thăm các thánh địa. Có ăn nhằm gì khi chúng tôi phải chịu cái lạnh vào mùa đông và lội nước trong mùa mưa mà chỉ quấn mảnh vải vụn quanh chân? Mang tất của Kim Il-sung vào những công việc thường lệ như vậy sẽ là một sự phạm thánh. Quy tắc ứng xử của Đảng yêu cầu chúng tôi phải dành đôi tất cho khu vực thiêng liêng của Kim Il-sung, bất kể chúng tôi cần chúng đến mức nào trong cuộc sống lao động hàng ngày.
Một ngày nọ, tôi đến trường mà quên mất Lợn Rừng đã lên lịch đến thăm phòng Kim Il-sung. Tôi đang đi đôi tất bình thường, đầy lỗ thủng và gần như không thể lành lặn sau nửa tá lần vá víu của bà nội Tôi rất hoảng sợ, nhất là khi Lợn Rừng yêu cầu những ai “vô tình” quên tất giơ tay. May mắn thay, tôi không đơn độc. Hai phần ba lớp đã giơ tay. Thầy tỏ ra phẫn nộ. Hắn ra lệnh cho bọn thủng não ra ngoài và xếp hàng. Sau đó, hắn bước ra và đá mạnh vào bọn trẻ đứng dọc theo hàng. Hắn đang mang đôi bốt quân đội bằng vải bạt và đạp vào các học sinh bằng toàn bộ sức lực của mình. Trong lúc bị đánh đập, chúng tôi thường phóng đại nỗi đau của mình để gây thiện cảm, nhưng lần này quả tình không còn cần phải phóng đại. Những tiếng kêu đau đớn là có thật. Cú đạp vào bụng tôi quá mạnh khiến tôi ngã gục tại chỗ và bất tỉnh trong nửa giờ.
Chỉ mất vài năm để trại có thể thay đổi hoàn toàn một đứa trẻ. Thay vì biến chúng tôi thành những người hết lòng ngưỡng mộ chế độ của Người lãnh đạo vĩ đại như dự định, trại đã dạy chúng tôi cách nổi loạn, chế giễu và nhạo báng bất cứ điều gì mơ hồ mang hơi hướng quyền lực. Trong vòng một hoặc hai năm sau khi đến đây, một tù nhân đã mất đi mọi sự tôn trọng mà lẽ ra y có thể dành cho Đảng. Sự khinh thường của chúng tôi lan rộng như bệnh hoại tử, bắt đầu từ bọn lính bảo vệ, sau đó dần dần, không thể tránh khỏi, lan đến các nhà lãnh đạo vĩ đại.
Tôi nghĩ trại cũng đã thay đổi tôi về mặt tâm lý. Khi còn nhỏ, tôi là người hướng ngoại và hiếu động. Khi mọi người gặp tôi hôm nay, họ thấy tôi dè dặt và có phần xa cách. Lớn lên trong trại khiến tôi khép mình lại với thế giới. Tôi đã học về đau khổ và đói khát, bạo lực và giết người. Tôi đã giận ông nội một thời gian dài. Chỉ đến khoảng năm 1983, tôi mới bắt đầu nhận ra rằng không phải ông mà chính Kim Il-sung và chế độ của ông ta là nguyên nhân thực sự khiến gia đình tôi đau khổ và tan tác. Chính Kim và người của ông ta chịu trách nhiệm về trại và nhốt đầy nó với những con người vô tội. Trong suốt thời thơ ấu của tôi, Kim Nhật Thành đối với tôi như một vị thần. Một vài năm trong trại đã chữa lành đức tin của tôi. Tôi và các bạn tù của mình là những con cừu ương ngạnh của cách mạng, và cách của Đảng để đưa chúng tôi trở về đàn là bóc lột chúng tôi cho đến chết. Tuyên truyền tôn vinh Bắc Triều Tiên như góc thiên đường của người dân, giờ đây khiến tôi thấy ghê tởm.