
Annie Jacobsen
rần Quang Nghĩa dịch
Phần V
24 THÁNG TỚI VÀ SAU NỮA (HOẶC, CHÚNG TA ĐANG ĐẾN ĐÂU SAU CUỘC TRAO ĐỔI HẠT NHÂN)
■
NGÀY 0: SAU KHI BOM DỪNG NỔ
Hoa Kỳ

Mùa đông hạt nhân lạnh và tối. (Hình ảnh của Achilleas Ambatzidis)
Trời rất lạnh và rất tối. Những quả bom hạt nhân được thả từ mọi phía cuối cùng ngừng hẳn cuộc tấn công các mục tiêu. Các vụ nổ trên mặt đất và trên không cuối cùng dừng hẳn
Trên khắp nước Mỹ, mọi thứ tiếp tục bốc cháy. Thành phố, ngoại ô, thị trấn, rừng rậm. Khói sinh ra từ những tòa nhà chọc trời và nhà cao tầng tạo ra sương khói độc hại chứa pyrotoxin. Vật liệu xây dựng bốc cháy, trong đó có kính sợi, chất cách nhiệt phun ra cyanide, vinyl chloride, dioxin, và furan vào không khí. Khói mù chất độc và hơi chết người này giết chết những ai còn sống sót và đầu độc hơn nữa đất đai đã cháy xém.
Các vành đai lửa quy mô lớn có bán kính từ 100 đến 200 dặm lan ra từ mỗi tâm điểm số 0 trên khắp nước Mỹ. Lúc đầu, sức tàn phá của những đám cháy hàng loạt này dường như không có hồi kết. Không có nước bơm để dập tắt bất cứ thứ gì, những đám cháy này sẽ châm mồi lửa cho những đám cháy mới, bao vây và giết chết những ai cố gắng sống sót sau cuộc hủy diệt hàng loạt ban đầu tiếp theo là cuộc trao đổi hạt nhân toàn diện.
Trên khắp các khu vực có mật độ dân số thấp hơn ở Mỹ, đặc biệt là ở các bang phía Tây, nạn cháy rừng hoành hành. Cây lá kim nói riêng không thể chịu được bụi phóng xạ phát tán, chết khô và ngã đổ, tạo thành những đống củi khổng lồ rồi sẽ cháy sau đó. Những cơn bão lửa dữ dội tạo ra tình trạng tận thế tồi tệ hơn nữa với những hậu quả nặng nề. Nguồn cung cấp dầu và khí đốt tự nhiên, vỉa than và mỏ than bùn cháy hàng tháng trời. Là sản phẩm phụ của việc tất cả các thành phố và khu rừng này bị đốt cháy kéo dài và dữ dội trên khắp nước Mỹ – cũng như trên khắp Châu Âu, Nga và một số khu vực của Châu Á – đưa khoảng 150 Tg (khoảng 330,6 tỷ cân) bồ hóng lên tầng trên, tầng đối lưu và tầng bình lưu. Màu đen bột bồ hóng che khuất ánh nắng mặt trời. Những tia nắng ấm không còn nữa.
“Mật độ bồ hóng sẽ làm giảm nhiệt độ toàn cầu khoảng 27 độ F”, nhà khí hậu học Alan Robock giải thích. “Ở Mỹ, nhiệt độ sẽ giảm 40 độ F, thấp hơn một chút ở gần các đại dương.”
Trái đất lao vào một nỗi kinh hoàng mới mang tên mùa đông hạt nhân.
Khái niệm mùa đông hạt nhân lần đầu tiên thu hút sự chú ý của thế giới vào tháng 10 năm 1983 khi tạp chí Parade (lúc đó có hơn 10 triệu độc giả người Mỹ) đăng trên trang bìa một hình ảnh ma quái về Trái đất tối tăm và tin tức về một “báo cáo đặc biệt” bên trong, được viết bởi một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới, Carl Sagan. “Chiến tranh hạt nhân sẽ là ngày tận thế?” Sagan hỏi và trả lời: “Trong một cuộc ‘trao đổi’ hạt nhân, hơn một tỷ người sẽ bị giết ngay lập tức. Nhưng hậu quả lâu dài có thể tồi tệ hơn nhiều.” Những hậu quả mà Sagan, các học trò cũ của ông là James B. Pollack và O. Brian Toon, cùng các nhà khí tượng học Thomas P. Ackerman và Richard P.Turco trình bày chi tiết đáng sợ trong một bài báo xuất bản hai tháng sau đó, trên Tạp chí Khoa học.
Bài báo đã bị các nhà khoa học khác và Bộ Quốc phòng tấn công. “Họ nói rằng mùa đông hạt nhân là không thích đáng,” Giáo sư Brian Toon, một trong những tác giả ban đầu, nhớ lại. “Họ cho rằng đó là thông tin sai lệch của Liên Xô.” Nhưng đằng sau những cánh cửa đóng kín và trong những bài viết chỉ mới được đưa ra ánh sáng gần đây, những người ở trung tâm tổ hợp vũ khí hạt nhân đều biết mối đe dọa về mùa đông hạt nhân là có thật. Hậu quả của một cuộc trao đổi hạt nhân quy mô lớn, các nhà khoa học của Cơ quan Hạt nhân Quốc phòng viết, “sẽ là “chấn thương của bầu khí quyển” – và có “tiềm năng gây hậu quả nghiêm trọng” đối với “thời tiết và khí hậu” của Trái đất.
“Tất nhiên là có những điều không chắc chắn trong các kịch bản mùa đông hạt nhân,” nhà vật lý Frank von Hippel nói với chúng ta hôm nay. “Nhưng không có gì là không chắc chắn nếu bạn thải lượng lớn bồ hóng đó vào bầu khí quyển sau một cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện.” Trong bài báo mùa đông hạt nhân ban đầu, các tác giả đã thừa nhận mô hình có những hạn chế. Đó là năm 1983. Máy tính vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Và bây giờ, nhiều thập kỷ sau, các hệ thống mô hình tiên tiến cho thấy tổn thương khí quyển do mùa đông hạt nhân trên thực tế sẽ còn nghiêm trọng hơn nhiều. Toon giải thích: “Các mô hình đầu tiên của chúng tôi [vào năm 1983] cho biết mùa đông hạt nhân sẽ chỉ kéo dài khoảng một năm. Dữ liệu mới cho thấy thời gian phục hồi của Trái đất sẽ kéo dài khoảng 10 năm”. Rằng các tia nắng ấm sẽ giảm khoảng 70%.
Toàn bộ sự sống đều phụ thuộc vào mặt trời. Mặt trời chính là sự sống. Cây cần ánh sáng mặt trời để phát triển. Động vật cần thực vật để làm thức ăn. Điều này bao gồm cả loài Homo sapiens trên trái đất, chim trên không, giun trong đất, cá dưới biển. Hệ sinh thái năng lượng của Mặt trời, sự tương tác sinh học thúc đẩy hệ thống sinh vật phức tạp của Trái đất mà tất cả chúng ta đang sống. Với hàng tỷ tấn bồ hóng bay vào bầu khí quyển sau chiến tranh hạt nhân, cấu trúc tầng đối lưu của Trái đất thay đổi.
Tầng đối lưu là lớp đầu tiên (và thấp nhất) của bầu khí quyển Trái đất, có chiều cao trung bình lên tới 7,5 dặm. Hầu hết thời tiết của Trái đất xảy ra ở đây. Tầng đối lưu chứa toàn bộ không khí mà thực vật cần để quang hợp và động vật cần để thở. Nó chứa 99% hơi nước của Trái đất. Sau chiến tranh hạt nhân, do sự biến đổi của tầng đối lưu, những thay đổi thời tiết chỉ xảy ra sau một đêm.

Sau cuộc trao đổi hạt nhân toàn diện, bầu khí quyển Trái đất sẽ thay đổi. (Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia)
Đây là cách thế giới trở nên lạnh lẽo và tối tăm.
Nhiệt độ giảm mạnh. Nhiệt độ thấp nghiêm trọng và kéo dài bao trùm Trái đất. Khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là vĩ độ trung bình, một phần của Bắc bán cầu có vĩ độ từ 30 đến 60 độ. Điều này bao gồm Hoa Kỳ và Canada, Châu Âu, Đông Á và Trung Á. Với những đợt giảm nhiệt độ khắc nghiệt này, thời tiết mùa hè trở nên giống như mùa đông. Toon nói: “Dữ liệu mới cho thấy ở những nơi như Iowa và Ukraine, nhiệt độ sẽ không vượt quá mức đóng băng trong sáu năm.”
Khi Chiến tranh thế giới thứ ba hạt nhân bắt đầu theo kịch bản này, đó là ngày 30 tháng 3, đầu mùa xuân. Ở Los Angeles, nhiệt độ giảm xuống dưới mức đóng băng. Các đợt sương giá tàn phá đời sống thực vật nhiệt đới và phá hủy mùa màng trên khắp khu vực. Ở những nơi như Bắc Dakota, Michigan và Vermont, nơi nhiệt độ trung bình dao động ở mười mấy độ F (âm mười mấy độ C ), nhiệt độ giảm mạnh đồng nghĩa với thời tiết dưới 0 F (- 17 C) trong thời gian dài. Những vùng nước ngọt bị bao phủ trong những lớp băng dày. Ở cực bắc, băng ở biển Bắc Cực mở rộng thêm 4 triệu dặm vuông, lớn hơn 50% so với các tảng băng ngày nay. Thông thường, các khu vực ven biển không có băng sẽ đóng băng, dẫn đến hiện tượng mà các nhà địa vật lý hiện đại gọi là “Kỷ băng hà nhỏ hạt nhân”.
Các yếu tố đó không phải là các bản án tử hình duy nhất lù lù hiện ra. Khi nhiều tuần và tháng sau khi chiến tranh trôi qua, những người sống sót chống chọi với cái lạnh buốt giá bị bệnh vì nhiễm độc phóng xạ. Strontium-90, iốt-131, tritium, Caesium-137, plutonium-239 và các sản phẩm phóng xạ khác cuốn vào các đám mây hình nấm và gieo rắc khắp trái đất khi bụi phát tán phóng xạ tiếp tục làm ô uế môi trường. Cái chết bởi bức xạ là một cái chết cực kì đau đớn. Khi nôn cấp tính và bệnh tiêu chảy khởi phát, tủy xương và ruột bắt đầu bị hủy hoại. Niêm mạc các bộ phận trong cơ thể nạn nhân vỡ rách và xuất huyết. Nội tạng bên trong cụ thể hóa lỏng khi mạch máu bong tróc niêm mạc. Trong bệnh viện những căn bệnh này đã là nghiệt ngã, còn giờ đây trong cái lạnh giá và tăm tối thật không thể nào chống chọi được và tưởng tượng được, nhất là trên đường chạy trốn bão lửa và khói độc.
Những ai tiếp tục sống được thì bị tổn thương nhiễm sắc thể và bị mù. Nhiều loài sẽ trở nên vô sinh hoặc bán vô sinh với khả năng sinh sản giảm dần theo thời gian. Không có đủ thức ăn và nước uống sạch để cung cấp cho mọi người. Con người sẽ đấu tranh vì những nguồn tài nguyên này. Chỉ có những kẻ tàn nhẫn mới sống sót được.
■
Trong 10.000 hoặc 12.000 năm qua, con người hiện đại đã phụ thuộc vào nông nghiệp để tồn tại. Nông nghiệp phụ thuộc vào hệ sinh thái của Trái đất để sản xuất lương thực và cung cấp nước ngọt nuôi sống con người, động vật và thực vật. Những tháng lạnh giá và hầu như không có ánh sáng mặt trời sau Thế chiến thứ ba hạt nhân gây ra một loạt các cuộc tấn công chết người khác vào hệ sinh thái Trái đất. Lượng mưa giảm 50%. Điều này có nghĩa là cái chết của nông nghiệp. Cái chết của trồng trọt. Cái chết của cây trồng. Sau 10.000 năm trồng trọt và thu hoạch, con người trở lại trạng thái săn bắt hái lượm.
Trước chiến tranh, thịt và nông sản được sản xuất tại các trang trại, vận chuyển qua chuỗi cung ứng đến các trung tâm phân phối, siêu thị, cửa hàng và chợ nông sản. Các loại đậu và ngũ cốc là một trong những mặt hàng chủ lực được lưu trữ tại địa phương ở các thành phố và thị trấn. Khi lưu thông dừng lại, khi không có nhiên liệu để bơm và không có phương tiện để vận chuyển, việc phân phối thực phẩm cũng chấm dứt. Những gì được lưu trữ cục bộ bị đốt cháy, bị nhiễm xạ, đóng băng hoặc mục hư
Những người sống sót sau hiệu ứng vụ nổ, bão gió và bão lửa của cuộc chiến tranh hạt nhân ban đầu – những người sống sót sau vụ nhiễm độc phóng xạ và cái lạnh buốt giá – giờ đây bắt đầu chết đói.
Trên khắp Bắc bán cầu, sương giá và nhiệt độ dưới mức đóng băng phá hủy mùa màng. Gia súc trong trang trại chết cóng hoặc chết khát hoặc đói.
Con người không thể thành lập các cộng đồng nông nghiệp ở các vùng nông thôn cách xa vùng tâm điểm số 0 vì còn rất ít vốn đất để phát triển. Những cơn bão lửa kéo dài nhiều tháng đã nung nóng đất đến mức đất trở nên cằn cỗi. Hạt mầm nằm ngủ trong lòng đất bị hư hỏng hoặc chết. Những người sống sót suy dinh dưỡng nghiêm trọng phải sục sạo tìm kiếm rễ cây và côn trùng để ăn, không khác gì những người dân chết đói Bắc Triều Tiên trước chiến tranh.
Việc tìm kiếm nguồn nước không bị ô nhiễm cạnh tranh với việc tìm kiếm thức ăn. Nhiệt độ giảm mạnh có nghĩa là các vùng nước ngọt ở vùng ôn đới phía bắc bị đóng băng, ở một số nơi dưới lớp băng dày vài tấc. Lấy nước ở bề mặt trở thành một việc gần như không thể đối với hầu hết con người. Đối với nhiều loài động vật, điều đó còn có nghĩa là cái chết.
Các hồ không bị đóng băng dày đã bị ô nhiễm bởi các chất thải hóa học. Cuối cùng, khi thời tiết rã đông, ao sông hồ sẽ bị đầu độc thêm bởi hàng triệu xác chết đang tan băng. Hệ thống nước ở khắp mọi nơi đang bị hủy hoại. Giữa các vụ nổ hạt nhân và các vụ cháy lớn sau đó, các cơ sở lưu trữ dầu khí của Mỹ bị vỡ và nổ tung; hàng trăm triệu gallon hóa chất độc hại đã tràn ra sông suối, làm nhiễm độc nguồn nước và giết chết cuộc sống thủy sinh.
Chất độc thấm vào đất và chảy xuống mạch nước ngầm. Các khu vực ven biển, ngập trong bụi phóng xạ cực độ, tràn ngập sinh vật biển chết.
Các cơn bão cấp độ cuồng phong hoành hành dọc theo đại dương, là hậu quả của sự thay đổi nhiệt độ cực độ giữa các khối không khí trên đất liền và trên biển. Những người sống sót đến được mép nước để tìm kiếm thức ăn không có cách nào ra biển để câu cá. Động vật có vỏ ăn lọc ở vùng nước nông – trai, ốc và hến – hầu hết đã bị tiêu diệt do ngộ độc phóng xạ. Những con vẫn còn sống rất nguy hiểm để tiêu thụ.
Ở các dòng suối, hồ, sông và ao, một cuộc tuyệt chủng hàng loạt đang diễn ra. Giảm ánh sáng tàn phá đời sống thực vật thủy sinh cực nhỏ. Khi thực vật phù du chết đi, lượng oxy cạn kiệt và chuỗi thức ăn ở biển bị gián đoạn, khiến hệ sinh thái càng bị phá hủy. Sau chiến tranh hạt nhân và mùa đông hạt nhân, quá trình quang hợp không còn có thể theo kịp quá trình trao đổi chất. Cây trồng bắt đầu chết.
Điều này xảy ra cách đây 66 triệu năm, sau khi một tiểu hành tinh tấn công Trái đất và che kín mặt trời. “Bảy mươi phần trăm các loài trên hành tinh (mà chúng ta biết) đã chết, bao gồm tất cả các loài khủng long,” Toon nói. “Chúng chết đói hoặc chết cóng” và rằng “một cuộc chiến tranh hạt nhân sẽ có nhiều hiện tượng giống như những gì loài khủng long đã trải qua.” Cây cần ánh sáng mặt trời để lấy năng lượng phát triển chồi và quả. Động vật ăn cỏ ăn thực vật. Động vật ăn thịt ăn động vật ăn cỏ và ăn thịt lẫn nhau. Mọi thứ trên Trái đất đều sống và chết, tan rã và phân hủy, tất cả đều tạo ra đất mới để các sinh vật mới phát triển. Đây là chuỗi thức ăn. Không còn nữa.
Sau mùa đông hạt nhân, chuỗi thức ăn bị phá vỡ.
Không có gì mới mọc lên trong giá lạnh và bóng tối.
Trong kịch bản này, ở tất cả ngoại trừ một khu vực nhỏ ở Nam bán cầu (bao gồm Úc, New Zealand, Argentina và một phần của Paraguay), nạn đói lan rộng sẽ bao trùm Trái đất.
Kết luận được đưa ra vào năm 2022 – bởi mười nhà khoa học làm việc trên bốn lục địa, trong một bài báo dành cho Nature Food (Thực phẩm Tự nhiên) – rất ngắn gọn: “Hơn 5 tỷ người có thể chết vì cuộc chiến hạt nhân giữa Hoa Kỳ và Nga.”
■
Sau nhiều tháng, cái lạnh và bóng tối trở nên bớt khắc nghiệt hơn. Tác động mạnh mẽ của sương mù và khói mù phóng xạ giảm dần. Khói độc tan biến. Ánh sáng từ mặt trời chiếu xuống trái đất một lần nữa. Và cùng với ánh sáng mặt trời là một loạt hậu quả chết người khác của chiến tranh hạt nhân.
Những tia nắng nóng lên của mặt trời giờ đây là tia cực tím giết người.
Trong hàng triệu năm, tầng ozone đã bảo vệ mọi sinh vật khỏi tia cực tím có hại của mặt trời, tác động như một lá chắn dịu dàng. Nhưng sau chiến tranh hạt nhân thì không. Các vụ nổ hạt nhân và các cơn bão lửa tiếp theo sẽ bơm một lượng lớn oxit nitơ vào tầng bình lưu. Kết quả là hơn một nửa tầng ozone bị hủy hoại. Một nghiên cứu năm 2021 về “Hiện tượng mất tầng ôzôn cực độ sau chiến tranh hạt nhân” được thực hiện với sự hỗ trợ tính toán của Quỹ Khoa học Quốc gia, đã phát hiện ra rằng sau khoảng thời gian 15 năm, tầng ôzôn sẽ mất tới 75% khả năng che chắn trên toàn thế giới. Những người sống sót phải di chuyển xuống lòng đất. Đi vào nơi ẩm ướt và bóng tối.
Vào giang sơn của nhện và côn trùng, như rận, bọ chét.
Trên mặt đất, khi ánh nắng ló dạng, mọi thứ cũng tệ hại như ở bên dưới. Trong ánh nắng mùa xuân mới này, một đợt tan băng lớn bắt đầu. Điều này bao gồm việc làm rã đông hàng triệu xác chết đang thối rữa dưới ánh nắng mặt trời không được thanh lọc. Đầu tiên là cái lạnh và nạn đói, bây giờ là ánh nắng gay gắt, bệnh dịch. mầm bệnh và côn trùng tràn lan. Thời tiết ấm áp sau mùa đông hạt nhân trở thành nơi sinh sản của dịch bệnh. Một nghiên cứu của Ủy quan Khoa học Liên hiệp quốc về tác động của bức xạ nguyên tử phát hiện ra rằng côn trùng ít nhạy cảm với bức xạ hơn nhiều so với động vật có xương sống do đặc điểm sinh lý và vòng đời ngắn ngủi của chúng. Lũ bọ có cánh và nhiều chân đầy dẫy khắp mọi nơi và đang sinh sôi nảy nở. Nhiều kẻ săn mồi tự nhiên loài côn trùng này, như chim, đều đã bị chết hết bởi cái lạnh và bóng tối. Sự trở lại của những tia nắng ấm lên của mặt trời mang theo những đợt bùng phát dịch bệnh lớn do côn trùng truyền nhiễm như viêm não, bệnh dại và sốt phát ban.
Một sự thay đổi tiến hóa lớn đang được tiến hành. Giống như sau khủng long.
Trong thế giới hậu hạt nhân này, các loài có thân hình nhỏ bé, sinh sản nhanh, phát triển mạnh, trong khi các loài động vật có thân hình lớn – bao gồm cả con người – đang phải vật lộn trước bờ vực tuyệt chủng.
Câu hỏi vẫn là: Liệu vũ khí hạt nhân có dẫn đến sự kết thúc của loài đã tạo ra những vũ khí hạt nhân này ngay từ đầu không?
Chỉ có thời gian mới biết được liệu con người chúng ta có sống sót được hay không.
■
24.000 năm sau Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Nhiều năm trôi qua. Hàng trăm năm. Hàng ngàn năm.
Khả năng duy trì sự sống của môi trường trái đất, ban đầu suy giảm nghiêm trọng, sau đó trở nên hồi sinh và trẻ hóa. Nhiệt độ trở lại điều kiện như trước chiến tranh. Các loài mới phát triển và sinh sôi.
Rất nhiều thứ đã bị hủy hại, nhưng hành tinh Trái đất luôn có cách tự phục hồi và sửa chữa, ít nhất là cho đến nay. Đất phục hồi, chất lượng nguồn nước cung cấp cũng vậy. Tia cực tím đã đuổi con người sống sót xuống dưới lòng đất đã dịu đi và có khả năng nuôi dưỡng trở lại.
Nếu con người sống sót, họ sẽ bắt đầu lại như thế nào? Và liệu những con người mới này trong tương lai có trở thành nhà khảo cổ học không? Liệu họ có biết chúng ta đã từng ở đây hay không?
Mười nghìn… hai mươi nghìn. . . Hai mươi bốn nghìn năm trôi qua.
Gần gấp đôi khoảng thời gian xấp xỉ để con người tiến hóa từ săn bắn-hái lượm cho đến ngày nay. Vụ nhiễm độc phóng xạ từ Thế chiến thứ ba hạt nhân đã bị phân hủy một cách tự nhiên.
Liệu con người trong tương lai có tìm thấy dấu vết nào của chúng ta không? Của những xã hội mà chúng ta đã từng xây dựng, phát triển và hưng thịnh mạnh mẽ? Nếu vậy thì có lẽ khám phá đó sẽ giống như câu chuyện khám phá của nhà khảo cổ học người Đức tên Klaus Schmidt và chàng sinh viên trẻ mới tốt nghiệp có tên Michael Morsch.
Một ngày vào tháng 10 năm 1994, Schmidt đã thực hiện một phát hiện ở Thổ Nhĩ Kỳ xa xôi, viết lại dòng thời gian của nền văn minh, đẩy nó lùi lại hàng nghìn năm. Khám phá này vẫn còn ẩn chứa nhiều câu đố và bí ẩn. Nhưng nơi đó tồn tại như một phép ẩn dụ cho tất cả chúng ta, những người văn minh. Đối với tất cả những gì chúng ta biết, đồng thời đối với tất cả những gì chúng ta không biết, về tương lai và quá khứ chung của chúng ta.

Göbekli Tepe, địa điểm thời kỳ đồ đá mới ở Thổ Nhĩ Kỳ, được các nhà khảo cổ học khám phá lại sau khi bị chôn vùi gần 12.000 năm. (Ảnh của Tiến sĩ Oliver Dietrich)
Klaus Schmidt quen thuộc với khu vực này nhờ một cuộc khai quật khảo cổ mà ông đang thực hiện vào thời điểm đó, và ông tò mò về một câu chuyện đã nghe được ở những ngôi làng xung quanh thành phố Sanliurfa gần đó. Người ta kể rằng có một ngọn đồi ở một thung lũng cách đó không xa, nơi có rất nhiều đá lửa nhô ra khỏi lòng đất.
Đá lửa, một loại đá trầm tích, được con người sơ khai sử dụng để chế tạo các công cụ bằng đá và tạo ra lửa từ thời kỳ đồ đá.
Schmidt hỏi quanh các ngôi làng để xem có ai quen thuộc với nơi này, nơi mà hàng thập kỷ trước rõ ràng một nhà khảo cổ học tên là Peter Benedict xác định nhầm là một loại nghĩa trang thời Trung cổ. Xác định nhầm rồi bị lãng quên.
Cho đến khi một người đàn ông lớn tuổi ở Örencik Koy, Şavak Yildiz, nói với Schmidt rằng, vâng, mình biết về nơi này. Người dân địa phương gọi nó là Göbekli Tepe Ziyaret, hay Địa điểm hành hương Đồi Bụng phệ. Yildiz cho biết, cách để tìm ra địa điểm này là tìm một cái cây lẻ loi trên đỉnh đồi. Và bởi vì cái cây này là thứ duy nhất mọc ở một địa hình hoang vắng rộng lớn nên nó được cho là có quyền năng pháp thuật. Yildiz nói với Schmidt rằng mọi người gọi nó là cây ước nguyện và sẽ hành trình tới đó “để trình bày những nguyện ước quan trọng với cành lá thiêng và do đó là với gió.” Trong cuốn sách Göbekli Tepe: Ngôi đền thời đồ đá ở Đông Nam Anatolia, Schmidt nhớ lại cách Yildiz giúp sắp xếp một tài xế taxi đưa ông đến địa điểm bí ẩn này và nhờ một cậu thiếu niên địa phương làm hướng dẫn viên. Đồng hành cùng Schmidt trong chuyến hành trình ngày hôm đó có sinh viên tốt nghiệp ngành khảo cổ học Michael Morsch.
Morsch cho chúng ta biết làm thế nào khu vực bên ngoài thành phố nhộn nhịp Sanliurfa lại là một vùng đất hoang sơ rộng lớn và cằn cỗi. Morsch nhớ lại: “Hàng trăm dặm vuông đất màu nâu đỏ rải đầy đá và những vạt cỏ khô”. Có rất ít thứ có thể mọc được ở đó, hoặc có vẻ như vậy. Cứ như thể chưa từng có ai sống ở đó vậy.
Họ lái xe suốt tám dặm cho đến khi con đường kết thúc. Cả nhóm ra khỏi taxi và bắt đầu đi dọc theo con đường dành cho dê đi hướng tới nơi được đồn đại có thể là địa điểm được đề cập.
“Chúng tôi di chuyển qua một khung cảnh kỳ lạ của những khối đá màu xám đen hết lần này đến lần khác tạo ra những rào cản nhỏ,” Schmidt viết, “buộc chúng tôi phải thay đổi hướng đi sang trái và sang phải,” ngoằn ngoèo, như thể đang đi qua một mê cung bằng đá tự nhiên cao đến ống chân. Cuối cùng, cả nhóm đã đi đến điểm cuối của địa hình kỳ lạ này, nơi mở ra một vùng đất rộng lớn mà người ta có thể nhìn thấy hàng dặm – đến tận chân trời.
Nhìn quanh quất, Schmidt thất vọng, cảm thấy “Không ở đâu có dấu vết khảo cổ dù nhỏ nhất, chỉ có những đàn cừu và dê được đưa đến đây hàng ngày trên những đồng cỏ cằn cỗi của chúng,” ông than thở.
Rồi ông nhìn thấy cái cây.
“Nó gần như là một bức ảnh bưu thiếp,” Schmidt viết. Riêng cây ước nguyện “trên đỉnh cao nhất của gò đất, rõ ràng là đánh dấu một Ziyaret.”

Cây ước nguyện ở Göbekli Tepe, năm 2007. Ngày nay nó là Di sản Thế giới được UNESCO công nhận.
Tất nhiên rồi, Morsch nghĩ. Một địa điểm hành hương.
“Chúng tôi đã tìm thấy Göbekli Tepe,” Morsch nhớ lại khoảnh khắc đó.
Nhưng đây là gì thế? Với con mắt khoa học của mình, Schmidt băn khoăn. “Sức mạnh nào của thiên nhiên được cho là đã tạo ra gò đất trên phần cao nhất của sườn núi đá vôi này?”
Nói cách khác, cái gì hoặc ai đã tạo ra ngọn đồi này?
Một nhà địa chất có thể nói rằng ngọn đồi được tạo ra bởi sự chuyển động của địa tầng Trái đất. Một tín đồ tôn giáo có thể nghĩ đến Chúa. Schmidt, một nhà khảo cổ học, nhận ra ngay rằng thứ mình đang nhìn là một tel.
Tel là một đặc điểm địa hình của một ít mô gò nhân tạo vùi lấp các vật thể do các thế hệ con người từng sống ở đó để lại. Sự phấn khích dâng lên trong lòng ông. Hóa ra, ông đã phát hiện ra một nền văn minh đã mất. Mất tích gần 12.000 năm Nhưng không chỉ vậy, Klaus Schmidt đã tìm ra thứ có thể thay đổi định nghĩa của con người hiện đại về chính nền văn minh. Về cách thức mà lần đầu tiên con người hình thành nên khái niệm về hệ thống khoa học và công nghệ.
Schmidt và một nhóm các nhà khảo cổ học bắt đầu khai quật ngọn đồi. Họ phát hiện những mảnh vỡ nồi và những bức tường đá. Họ phát hiện ra những miếng đá khổng lồ chạm khắc hình động vật hoang dã như cáo, kền kền và sếu. Họ phát hiện ra các trụ cột hình chữ T gần như đứng thẳng cao hai mươi bộ. Nhưng quan trọng nhất là họ đã phát hiện ra một hệ thống rộng lớn các phòng, hành lang và khán phòng ngoài trời. Không gian với những chiếc ghế dài và bệ thờ được chạm khắc cẩn thận bằng loại đá này, được mang đến đây một cách bí ẩn từ một mỏ đá nằm cách đó nhiều dặm.
Trước khi có phát hiện này, quan điểm chung của các nhà khoa học về nền văn minh là khoa học và công nghệ được sinh ra từ cuộc sống nông nghiệp. Từ nền văn minh nuôi trồng. Rằng chỉ sau khi con người đã học được cách thuần hóa thực vật và động vật, họ mới từ lối sống du mục săn bắn hái lượm mà họ từng sống trước đây để trở nên văn minh. Để xây dựng cộng đồng và xã hội. Để thiết kế và tạo ra các hệ thống phức tạp của sự vật.
Göbekli Tepe đã phá vỡ ý tưởng nền tảng lâu đời này.
Di chỉ này được xây dựng bởi các kiến trúc sư, nhà xây dựng và kỹ sư thời tiền sử, những người tồn tại trước khi nông nghiệp và chăn nuôi ra đời. Những con người săn bắn-hái lượm đã nghĩ ra dự án dựa trên cơ sở khoa học này mà ngày nay chúng ta biết đến với cái tên Göbekli Tepe. Họ tổ chức các nhóm làm việc để thực hiện những gì họ vạch ra hoặc tưởng tượng một cách cẩn thận và có hệ thống trong đầu. Đây là những người săn bắn-hái lượm với một hệ thống phức tạp các bộ phận đang hoạt động.
Với sự hiểu biết sâu sắc về kiến trúc hệ thống. Về sự chỉ huy và kiểm soát có thứ bậc.
Tính đến đầu năm 2024, vẫn chưa có khu nhà ở nào được tìm thấy tại Göbekli Tepe. Không có nghĩa trang, không có xương cốt. Nói cách khác, có vẻ như con người không sống ở đó, nhưng họ đã tập hợp hàng thế kỷ, ở đó – có lẽ thậm chí là hàng nghìn năm.
Tại sao? Chúng ta không biết. Để làm gì? Chúng ta không biết.
Và sau đó, thậm chí một cách bí ẩn, nhiều ghi chép khảo cổ học cho thấy rằng trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, hàng ngàn năm trước tại Göbekli Тере, không rõ một thảm họa nào đó đã xảy ra. Không phải thảm họa tự nhiên như động đất, thiên thạch rơi hay lũ lụt. Thay vào đó, khá đột ngột, toàn bộ nơi này đã kết thúc. Xong. Không sử dụng. Lấp lại bằng đất và đá.
Đây là do cố ý hay do thảm họa, các nhà khoa học vẫn chưa phân biệt được. Các cuộc khai quật vẫn tiếp tục và bí ẩn vẫn còn. Từ khoảnh khắc bí ẩn đó trở đi, Göbekli Tepe đã trở thành một chiếc hộp thời gian bị chôn vùi. Nó nằm ẩn dưới lòng đất hàng ngàn năm.
Chuyện gì đã xảy ra ở Göbekli Tepe? Điều gì đã khiến những con người này đột nhiên gặp phải kết cục của mình? Michael Morsch không có câu trả lời cho câu đố này.
“Chúng tôi có thể cho bạn biết họ đã ăn gì,” Morsch nói, đề cập đến khả năng đáng kinh ngạc của con người hiện đại trong việc thu thập DNA thực vật từ các lò sưởi và hố được sử dụng cách đây 12.000 năm. “Chúng tôi có thể cho bạn biết họ đã săn những con thú nào, nhưng chúng tôi không thể cho bạn biết họ đã nghĩ gì. Hoặc điều gì đã xảy ra với họ.”
Đối với chúng ta, hàng thiên niên kỷ sau cuộc trao đổi hạt nhân toàn diện, mọi chuyện có thể giống như vậy. Con người trong tương lai có thể tìm thấy tàn tích nền văn minh ngày nay của chúng ta – và tự hỏi – Làm thế nào mà nó lại rơi vào tình cảnh hoang phế? Chuyện gì đã xảy ra với họ?
Vào buổi bình minh của thời đại hạt nhân, Albert Einstein được hỏi mình nghĩ gì về chiến tranh hạt nhân, ông được cho là đã trả lời: “Tôi không biết Thế chiến thứ ba sẽ diễn ra bằng loại vũ khí nào, nhưng tôi biết Thế chiến thứ tư sẽ đánh nhau bằng gậy và đá.”
Những viên đá gắn vào gậy (hoặc giáo) là cách người dân thời kỳ đồ đá chiến đấu trong chiến tranh. Thời kỳ đồ đá – thời kỳ tiền sử rộng lớn kéo dài hàng triệu năm, trong thời gian đó con người đã sử dụng đá để chế tạo công cụ – kết thúc vào khoảng 12.000 năm trước, đúng vào khoảng thời điểm những người săn bắn-hái lượm được cho là đã xây dựng nên Göbekli Tepe.
Albert Einstein lo ngại vũ khí hạt nhân có nguy cơ chấm dứt nền văn minh tiên tiến mà nhân loại đã dày công xây dựng trong suốt 12.000 năm qua. Einstein lo sợ rằng con người có thể trở thành thợ săn-hái lượm một lần nữa, tất cả chỉ vì một loại vũ khí khủng khiếp mà con người cho rằng mình văn minh đã tạo ra để sử dụng trong các cuộc chiến tranh chống lại đồng loại cũng cho là mình văn minh.
Câu chuyện bạn vừa đọc tưởng tượng ra chính xác điều này. Một câu chuyện trong đó 12.000 năm văn minh đang hình thành bị biến thành đống đổ nát chỉ trong vài phút và vài giờ. Đây là thực tế của chiến tranh hạt nhân. Chừng nào chiến tranh hạt nhân còn tồn tại, nó sẽ đe dọa loài người bằng Ngày tận thế. Sự sống còn của loài người đang ở thế cân bằng.
Sau một cuộc trao đổi hạt nhân toàn diện, những người sống sót sau chiến tranh hạt nhân và mùa đông hạt nhân sẽ thấy mình ở trong một thế giới man rợ mà bất kỳ ai còn sống ngày nay đều không thể nhận ra, Carl Sagan đã cảnh báo trước. Rằng, trừ một vài bộ lạc ở Amazon hoặc những quân nhân được dày dạn, hầu như không ai sống ngày nay có kỹ năng sinh tồn săn bắn-hái lượm thực sự. Rằng sau một cuộc chiến tranh hạt nhân, ngay cả những người sống sót tráng kiện nhất cũng sẽ gặp khó khăn lớn trong việc đi lại trong một thế giới bị nhiễm phóng xạ, suy dinh dưỡng và bệnh tật, trong khi hầu hết sống dưới lòng đất, cố tránh khỏi cái lạnh và bóng tối. Sagan viết: “Có thể hình dung quy mô dân số của loài Homo sapiens có thể giảm xuống mức thời tiền sử hoặc thấp hơn”.
Những nhóm nhỏ người sẽ giao phối với nhau để tồn tại, sinh ra con cái bị tổn hại về mặt di truyền, một số bị mù bẩm sinh. Mọi thứ mà tất cả chúng ta đều học được và tất cả những gì được tổ tiên mình truyền lại sẽ trở thành huyền thoại.
Theo thời gian, sau một cuộc chiến tranh hạt nhân, tất cả kiến thức ngày nay sẽ không còn nữa. Bao gồm cả sự hiểu biết rằng kẻ thù không phải là Bắc Triều Tiên, Nga, Mỹ, Trung Quốc, Iran hay bất kỳ ai khác bị phỉ báng như một quốc gia hay một phe nhóm.
Chính vũ khí hạt nhân là kẻ thù của tất cả chúng ta. Ngay từ đầu.
Dịch xong ngày 25 tháng 8 năm 2024.