Chiến tranh hạt nhân Một kịch bản (Bài 1)

Annie Jacobsen

Trần Quang Nghĩa dịch

“Câu chuyện của loài người là Chiến tranh. Ngoại trừ những đoạn xen giữa ngắn ngủi và bấp bênh, chưa bao giờ có hòa bình trên thế giới; và trước khi lịch sử bắt đầu, xung đột giết người là phổ biến và không hồi kết.” – -Winston Churchill

NỘI DUNG

Ghi chú của tác giả

Phỏng vấn

Lời mở đầu: Địa ngục trần gian

PHẦN I Sự tích lũy (Hoặc, Làm thế nào chúng ta đến được đây)

PHẦN II 24 phút đầu tiên

PHẦN III 24 phút tiếp theo

PHẦN IV 24 phút tiếp theo (và cuối cùng)

PHẦN V 24 tháng tiếp theo và Xa hơn (Hoặc, Chúng ta sẽ hướng tới đâu sau một cuộc trao đổi hạt nhân)

GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ

Kể từ đầu những năm 1950, chính phủ Hoa Kỳ đã chi hàng nghìn tỷ đô la để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân, đồng thời hoàn thiện các giao thức nhằm duy trì hoạt động của chính phủ Hoa Kỳ sau khi hàng trăm triệu người Mỹ trở thành nạn nhân của một vụ thảm sát hạt nhân quy mô ngày tận thế.

Kịch bản này – về những khoảnh khắc sau khi hứng chịu một tên lửa hạt nhân được phóng tới có thể trông như thế nào dựa trên dữ kiện có nguồn gốc từ độc quyền phỏng vấn các cố vấn của tổng thống, các thành viên nội các, kỹ sư vũ khí hạt nhân, nhà khoa học, binh lính, phi công, đặc nhiệm, Sở Mật vụ, chuyên gia quản lý tình trạng khẩn cấp, nhà phân tích tình báo, công chức và những người khác đã làm việc với những tình huống rùng rợn này trong nhiều thập kỷ. Bởi vì các kế hoạch cho Chiến tranh hạt nhân tổng quát là một trong những bí mật được bảo mật nhất do chính phủ Hoa Kỳ nắm giữ, cuốn sách này và kịch bản mà nó đặt ra sẽ đưa người đọc đến tận cùng của những gì có thể được biết một cách hợp pháp.

Các tài liệu được giải mật – vốn bị che giấu trong nhiều thập kỷ – chứa đầy các chi tiết với độ rõ ràng đáng kinh ngạc.

Bởi vì Lầu Năm Góc là một mục tiêu hàng đầu cho một cuộc tấn công vũ trang hạt nhân của kẻ thù, trong kịch bản theo sau đó, Washington, D.C., bị đánh đầu tiên bởi một quả bom nhiệt hạch 1-megaton. “Một sấm sét bất ngờ tấn công vào  D.C. là điều mọi người ở D.C. sợ nhất,” cựu trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về chương trình phòng thủ hạt nhân, hóa học và sinh học Andrew Weber nói. “Sấm sét giữa trời’ là cách mà Bộ Chỉ huy và Kiểm soát Hạt nhân Hoa Kỳ mô tả “cuộc tấn công lớn (hạt nhân) không được báo trước”.

Cuộc tấn công vào D.C. này là tập khởi đầu của trận Armageddon (trận chiến cuối cùng đưa đến ngày tận thế của nhân loại theo sách Khải huyền) của cuộc Chiến tranh hạt nhân toàn diện gần như chắc chắn sẽ xảy ra sau đó. “Không có thứ gọi là chiến tranh hạt nhân hạn chế ” là cụm từ thường được lặp đi lặp lại ở Washington.

Một cuộc tấn công hạt nhân vào Lầu Năm Góc chỉ là khởi đầu của một kịch bản mà kết cục của nó sẽ là sự cáo chung của nền văn minh nhân loại như chúng ta biết. Đây là thực tế của thế giới mà tất cả chúng ta đang sống. Kịch bản Chiến tranh Hạt nhân  được đề xuất trong cuốn sách này có thể xảy ra vào ngày mai. Hoặc cuối  ngày hôm nay.

Tướng Robert Kehler, cựu chỉ huy Bộ Tư lệnh Chiến lược Hoa Kỳ, cảnh báo: “Thế giới có thể kết thúc trong vài giờ tới”.

PHỎNG VẤN

(Các vị trí nắm giứ trước đây trong Bộ Chỉ huy và Kiểm soát Hạt nhân Hoa Kỳ)

Tiến sĩ Richard L. Garwin: nhà thiết kế vũ khí hạt nhân, bom nhiệt hạch Ivy Mike

Tiến sĩ William J. Perry: Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ

Leon E. Panetta: Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương, Chánh văn phòng Nhà Trắng

Tướng C. Robert Kehler: chỉ huy, Bộ Tư lệnh Chiến lược Hoa Kỳ

Phó Đô đốc Michael J. Connor: chỉ huy lực lượng tàu ngầm [hạt nhân] Hoa Kỳ

Chuẩn tướng Gregory J. Touhill: giám đốc an ninh thông tin liên bang đầu tiên của Hoa Kỳ (CISO); giám đốc, Hệ thống Chỉ huy, Kiểm soát, Truyền thông và Mạng (C4), Bộ Tư lệnh Vận tải Hoa Kỳ

William Craig Fugate: quản trị viên, Cục Quản lý Khẩn cấp Liên bang (FEMA)

Andrew C. Weber: trợ lý bộ trưởng quốc phòng về các chương trình phòng thủ hạt nhân, hóa học và sinh học

Jon B. Wolfsthal: trợ lý đặc biệt của tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia, Hội đồng An ninh Quốc gia

Tiến sĩ Peter Vincent Pry: Sĩ quan tình báo CIA, chuyên trách về vũ khí hủy diệt hàng loạt, Nga; giám đốc điều hành, Lực lượng đặc nhiệm xung điện từ của An ninh quốc gia và Nội địa

Thẩm phán Robert C. Bonner: ủy viên, Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới, Bộ An ninh Nội địa

Lewis C. Merletti: giám đốc, Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ

Tiến sĩ Đại tá Julian Chesnutt: Cơ quan Quốc phòng Bí mật, Cơ quan Tình báo Quốc phòng; tùy viên quốc phòng Hoa Kỳ; tùy viên hàng không Hoa Kỳ; Chỉ huy phi đội F-16

Tiến sĩ Charles F. McMillan: giám đốc, Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos

Tiến sĩ Glen McDuff: kỹ sư vũ khí hạt nhân, Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos; nhà sử học phòng thí nghiệm

Tiến sĩ Theodore Postol: trợ lý giám đốc tác chiến hải quân; giáo sư danh dự, MIT

Tiến sĩ J. Douglas Beason: trương ban khoa học, Bộ chỉ huy Không gian Không lực Hoa Kỳ

Tiến sĩ Frank N. von Hippel: nhà vật lý và giáo sư danh dự, Đại học Princeton (đồng sáng lập Chương trình Khoa học và An ninh Toàn cầu)

Tiến sĩ Brian Toon: giáo sư; lý thuyết mùa đông hạt nhân (đồng tác giả với Carl Sagan)

Tiến sĩ Alan Robock: giáo sư nổi tiếng, nhà khí hậu học, khoa mùa đông hạt nhân

Hans M. Kristensen: giám đốc, Dự án thông tin hạt nhân, Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ

Michael Madden: giám đốc, Cơ quan Theo dõi Lãnh đạo Bắc Triều Tiên, Trung tâm Stimson

Don D. Mann: quản lý nhóm, Đội SEAL 6, Chương trình Hạt nhân, Sinh học và Hóa học

Jeffrey R. Yago: kỹ sư; cố vấn cho Lực lượng đặc nhiệm xung điện từ của An ninh Quốc gia và Nội địa.

  1. H. I. Sutton: nhà phân tích và nhà văn, Viện Hải quân Hoa Kỳ

Reid Kirby: nhà sử học quân sự về phòng thủ hóa học, sinh học, phóng xạ và hạt nhân

David Cenciotti: nhà báo hàng không; Trung úy (nghỉ hưu), Aeronautica Militare (Không lực Ý, ITAF)

Michael Morsch: nhà khảo cổ học thời kỳ đồ đá mới, Đại học Heidelberg; thành viên nhóm tìm kiếm Göbekli Tepe

Tiến sĩ Albert D. Wheelon: Giám đốc CIA, Tổng cục Khoa học và Công nghệ

Tiến sĩ Charles H. Townes: người phát minh ra tia laser; Giải Nobel Vật lý, 1964.

Tiến sĩ Marvin L. Goldberger:   cựu thành viên  Dự án Manhattan, người sáng lập và chủ tịch Hội các nhà khoa học Jason, cố vấn khoa học cho Tổng thống Johnson

Paul S. Kozemchak: trợ lý đặc biệt của giám đốc, DARPA (và là thành viên phục vụ lâu năm nhất)

Tiến sĩ Jay W. Forrester: nhà tiên phong về máy tính, người sáng lập động lực học hệ thống

Tướng Paul F. Gorman: cựu tổng tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam Hoa Kỳ (U.S. SOUTHCOM); Trợ lý đặc biệt của Tham mưu trưởng liên quân

Alfred O’Donnell: Thành viên Dự án Manhattan, kỹ sư vũ khí hạt nhân EG&G, Ủy ban Năng lượng Nguyên tử

Ralph James Freedman: Kỹ sư vũ khí hạt nhân EG&G, Ủy ban Năng lượng Nguyên tử

Edward Lovick Jr.: nhà vật lý, cựu kỹ sư công nghệ tàng hình của Lockheed Skunk Works

Tiến sĩ Walter Munk: nhà hải dương học, thành viên viện Jason

Đại tá Hervey S. Stockman: phi công, người đầu tiên bay qua Liên Xô trên chiếc U-2, phi công lấy mẫu nguyên tử

Richard “Rip” Jacobs: kỹ sư, phi đội Hải quân VO-67, tại Việt Nam

Tiến sĩ Pavel Podvig: nghiên cứu viên, Viện Nghiên cứu Giải trừ Quân bị của Liên Hợp Quốc; thành viên nghiên cứu, Viện Vật lý và Công nghệ Moscow

Tiến sĩ Lynn Eden: học giả nghiên cứu danh dự, Đại học Stanford, chính sách đối ngoại và quân sự của Hoa Kỳ, chính sách hạt nhân, đại hỏa hoạn

Tiến sĩ Thomas Withington: nhà nghiên cứu, tác chiến điện tử, radar và liên lạc quân sự, Viện Dịch vụ Thống nhất Hoàng gia, Anh

Joseph S. Bermudez Jr.: nhà phân tích, các vấn đề quốc phòng, tình báo và phát triển tên lửa đạn đạo của Triều Tiên, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế

Tiến sĩ Patrick Biltgen: kỹ sư hàng không vũ trụ, cựu thành viên Ban Giám đốc  Tích hợp Tình báo Hệ thống BAE

Tiến sĩ Alex Wellerstein: giáo sư, tác giả, nhà sử học về khoa học và công nghệ hạt nhân

Fred Kaplan: nhà báo, tác giả, nhà sử học vũ khí hạt nhân

LỜI MỞ ĐẦU

Địa Ngục Trần Gian

Washington, D.C., Có thể trong tương lai gần

Một vụ nổ vũ khí nhiệt hạch 1-megaton bắt đầu bằng một tia chớp sáng và sức nóng khủng khiếp đến mức tâm trí con người không thể hiểu được. Một trăm tám mươi triệu độ F nóng hơn bốn hoặc năm lần nhiệt độ ở trung tâm mặt trời của Trái đất.

Trong phần nghìn giây đầu tiên sau khi quả bom nhiệt hạch này tấn công Lầu Năm Góc bên ngoài Washington, D.C., ánh sáng đã xuất hiện. Ánh sáng tia X mềm có bước sóng rất ngắn. Ánh sáng làm nóng không khí xung quanh lên hàng triệu độ, tạo ra quả cầu lửa khổng lồ lan rộng với tốc độ hàng triệu dặm một giờ. Trong vòng vài giây, quả cầu lửa này tăng lên với đường kính hơn một dặm (5.700 bộ) một chút, ánh sáng và sức nóng của nó cực mạnh  khiến các bề mặt  bê tông phát nổ, các vật bằng kim loạih tan chảy hoặc bốc hơi, đá vỡ vụn, con người ngay lập tức biến thành khí bốc cháy.

Cấu trúc năm tầng, năm mặt của Lầu Năm Góc và mọi thứ bên trong không gian văn phòng rộng 6,5 triệu bộ vuông của nó nổ tung thành bụi siêu nóng từ tia sáng và nhiệt ban đầu, tất cả các bức tường vỡ tan khi sóng xung kích xuất hiện gần như đồng thời, tất cả 27.000 nhân viên đang làm việc ở đó thiệt mạng ngay lập tức.

Không còn thứ gì trong tàn tích của quả cầu lửa nữa.

Không còn gì.

Vùng tâm chấn (tâm điểm số 0) của quả cầu lửa bị triệt tiêu.

Di chuyển với tốc độ ánh sáng, bức xạ nhiệt tỏa ra từ quả cầu lửa đốt cháy mọi thứ dễ cháy trong tầm nhìn của nó cách xa vài dặm theo mọi hướng. Rèm cửa, giấy, sách, hàng rào gỗ, quần áo con người, lá khô bốc cháy và trở thành mồi lửa cho một cơn bão lửa lớn bắt đầu thiêu rụi một khu vực rộng hơn 100 dặm vuông mà trước khi tia sáng này bùng phát, là trái tim của chính quyền Mỹ và là nơi cư ngụ của khoảng 6 triệu người.

Cách Lầu Năm Góc vài trăm bộ về phía tây bắc, toàn bộ diện tích 639 mẫu Anh của Nghĩa trang Quốc gia Arlington – bao gồm 400.000 bộ xương và bia mộ tưởng nhớ những người đã hy sinh trong chiến tranh, 3.800 người Mỹ gốc Phi được giải phóng kiếp nô lệ được chôn cất ở khu 27, những du khách còn sống tỏ lòng thành kính vào buổi chiều đầu xuân này, những công nhân chăm sóc bãi cỏ, những nhân viên trồng cây và chăm sóc cây cảnh, các hướng dẫn viên du lịch dẫn khách tham quan, các thành viên đeo găng tay trắng của Đội Cận vệ Củ canh gác Lăng mộ Chiến sĩ Vô danh – ngay lập tức biến thành những bức tượng nhỏ hình người đang bốc cháy  thành than. Thành chất bột  hữu cơ màu đen gọi là bồ hóng. Những người đã bị thiêu hủy sẽ tránh được nỗi kinh hoàng chưa từng có bắt đầu gây ra cho hơn 1 đến 2 triệu người bị thương nặng chưa chết ngay trong cuộc tấn công hạt nhân sấm sét Giữa Trời đầu tiên này.

Bên kia sông Potomac cách đó một dặm về phía đông bắc, những bức tường và cột bằng đá cẩm thạch của đài tưởng niệm Lincoln và Jefferson trở nên siêu nóng, nứt nẻ, vỡ vụn và tan rã. Những cây cầu và đường cao tốc bằng thép và đá nối các di tích lịch sử này với khu vực xung quanh rung chuyển rồi sụp đổ. Phía Nam, đối diện với Xa lộ Liên tiểu bang 395, Trung tâm Thời trang có vách kính sáng sủa và rộng rãi tại Thành phố Lầu Năm Góc, với vô số cửa hàng chứa đầy các nhãn hiệu quần áo và đồ gia dụng cao cấp cũng như các nhà hàng và văn phòng xung quanh, cùng với Ritz-Carlton liền kề, khách sạn thành phố Lầu Năm Góc – tất cả đều bị xóa sổ. Dầm trần, thang cuốn, đèn chùm, thảm, đồ nội thất, ma-nơ-canh, chó, sóc, người, tất cả đều phát thành ngọn lửa và bốc cháy. Bây giờ là cuối tháng ba, 3:36 chiều. giờ địa phương.

Đã ba giây rồi kể từ vụ nổ đầu tiên. Có một trận đấu bóng chày đang diễn ra cách đó hai dặm rưỡi về phía đông tại Công viên Quốc gia. Quần áo của phần lớn trong số 35.000 khán giả xem trận đấu bốc cháy. Những ai không nhanh chóng bị thiêu chết sẽ bị bỏng nặng cấp độ ba. Cơ thể của họ bị lột lớp da bên ngoài, để lộ lớp hạ bì đẫm máu bên dưới.

Bỏng độ ba cần được chăm sóc đặc biệt ngay lập tức và thường phải cắt cụt chi để tránh tử vong. Ở đây trong Công viên Quốc gia có thể có vài nghìn người bằng cách nào đó thoạt đầu được sống sót. Họ đang ở bên trong mua thực phẩm hoặc sử dụng phòng tắm trong nhà – những người hiện đang rất cần nằm trên giường tại trung tâm điều trị bỏng. Nhưng chỉ có mười giường trị bỏng chuyên dụng trên toàn bộ khu vực đô thị Washington, tại Trung tâm bỏng của bệnh viện MedStar Washington ở trung tâm D.C. Và vì cơ sở này cách khoảng năm dặm phía đông bắc của Lầu Năm Góc, nó không còn hoạt động nữa, nếu không muốn nói là thậm chí nó không còn tồn tại. Tại Trung tâm bỏng Johns Hopkins, 46 dặm về phía đông bắc, ở Baltimore, có ít hơn 20 giường chuyên dụng cho bỏng, nhưng tất cả đều sắp đầy. Tổng cộng chỉ có khoảng 2.000 giường bệnh bỏng chuyên dụng ở tất cả 50 tiểu bang tại bất kỳ thời điểm nào.

Trong vòng vài giây, bức xạ nhiệt từ vụ tấn công bằng bom hạt nhân 1-megaton vào Lầu Năm Góc sẽ làm bỏng sâu da của khoảng 1 triệu người nữa, 90% trong số đó sẽ chết. Các nhà khoa học quốc phòng cũng như các học giả đã dành nhiều thập kỷ để thực hiện phép tính này. Hầu hết sẽ không đi quá vài bước từ nơi họ đứng khi quả bom rơi xuống phát nổ. Họ trở thành thứ mà các chuyên gia phòng vệ dân sự nhắc đến vào những năm 1950, khi những phép tính khủng khiếp này lần đầu tiên được đưa ra, với tên gọi “Chết khi được tìm thấy”.

 

“Chết khi được tìm thấy.” (Cơ quan Phòng vệ Dân sự Liên bang Hoa Kỳ)

Tại Căn cứ Liên quân Anacostia-Bolling, một cơ sở quân sự rộng 1.000 mẫu Anh bên kia sông Potomac về phía đông nam, có 17.000 nạn nhân khác, bao gồm hầu hết mọi người làm việc tại trụ sở Cơ quan Tình báo Quốc phòng, trụ sở Cơ quan Truyền thông Nhà Trắng, Trạm Cảnh sát Bờ biển Washington Hoa Kỳ, nhà chứa máy bay trực thăng Marine One và nhiều cơ sở liên bang được bảo vệ nghiêm ngặt khác nhằm phục vụ cho an ninh quốc gia. Tại Đại học Quốc phòng, phần lớn trong số 4.000 sinh viên đang theo học đều đã chết hoặc đang hấp hối. Không thiếu sự trớ trêu bi thảm, trường đại học này (do Lầu Năm Góc tài trợ và thành lập vào ngày sinh nhật lần thứ hai trăm của nước Mỹ) là nơi các sĩ quan quân đội đến học cách sử dụng các chiến thuật quân sự của Hoa Kỳ nhằm đạt được sự thống trị về an ninh quốc gia của Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Trường đại học này không phải là cơ sở giáo dục đại học theo chủ đề quân sự duy nhất bị xóa sổ trong cuộc tấn công hạt nhân đầu tiên. Trường Chiến lược Tài nguyên và An ninh Quốc gia Eisenhower, Trường Cao đẳng Chiến tranh Quốc gia, Trường Cao đẳng Quốc phòng Liên Mỹ, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Châu Phi, tất cả đều ngay lập tức không còn tồn tại. Toàn bộ khu vực bờ sông này, từ Công viên Buzzard Point đến Nhà thờ Tân giáo St. Augustine, từ Xưởng hải quân đến Cầu tưởng niệm Frederick Douglass, bị phá hủy hoàn toàn.

Con người đã tạo ra vũ khí hạt nhân vào thế kỷ XX để cứu thế giới khỏi cái ác, và bây giờ, ở thế kỷ XXI, vũ khí hạt nhân sắp hủy diệt thế giới. Để đốt rụi tất cả.

Nền tảng khoa học của quả bom rất sâu sắc. Nhúng trong chớp lóe sáng nhiệt hạch là hai xung bức xạ nhiệt. Xung đầu tiên kéo dài chưa đến một giây, sau đó là xung thứ hai, kéo dài vài giây và khiến da người bốc cháy và bỏng rát. Các xung ánh sáng im lặng; ánh sáng không có âm thanh. Tiếp theo là một tiếng gầm như sấm sét. Nhiệt độ cực cao do vụ nổ hạt nhân tạo ra phát sinh một làn sóng áp suất cao di chuyển ra khỏi tâm điểm  của nó giống như một cơn sóng thần, một bức tường khí nén khổng lồ di chuyển nhanh hơn tốc độ âm thanh. Nó hạ gục con người, ném người khác lên không trung, làm thủng phổi và màng nhĩ, hút cơ thể lên và phun họ ra ngoài. “Nói chung, các tòa nhà lớn bị phá hủy do sự thay đổi áp suất không khí, trong khi con người và đồ vật như cây cối và cột điện bị trận đại cuồng phong phá hủy”, một nhà lưu trữ biên soạn những số liệu thống kê kinh hoàng này cho Cơ quan Lưu trữ Nguyên tử cho biết.

Khi quả cầu lửa hạt nhân phát triển, mặt trận xung kích này mang đến sự hủy diệt thảm khốc, lao ra như một chiếc xe ủi và di chuyển xa hơn ba dặm về phía trước. Không khí đằng sau sóng nổ tăng tốc, tạo ra những cơn gió có vận tốc vài trăm dặm/giờ, tốc độ phi thường khó có thể nắm bắt được. Năm 2012, cơn bão Sandy gây thiệt hại 70 tỷ USD và giết chết khoảng 147 người, có sức gió tối đa khoảng 80 dặm một giờ. Tốc độ gió cao nhất từng được ghi nhận trên Trái đất là 253 dặm một giờ, tại một trạm thời tiết xa xôi ở Australia.

Sóng nổ hạt nhân này ở Washington, D.C., phá hủy tất cả các công trình trên đường đi của nó, ngay lập tức thay đổi hình dạng vật lý của các công trình được thiết kế bao gồm các tòa nhà văn phòng, di tích, chung cư, khu phức hợp, bảo tàng, cấu trúc bãi đỗ xe – chúng tan rã và trở thành bụi. Cái gì không bị vụ nổ nghiền nát sẽ bị gió giật xé nát. Nhà sập, cầu sập, cần cẩu đổ. Những vật thể nhỏ như máy tính và khối xi măng, và lớn như xe tải 18 bánh và xe buýt du lịch hai tầng, sẽ bay trong không khí giống như những quả bóng tennis.

Quả cầu lửa hạt nhân vốn tiêu thụ mọi thứ trong bán kính 1,1 dặm ban đầu giờ bay lên như một khinh khí cầu. Lên khỏi mặt đất, nó lơ lửng với tốc độ 250 bộ (76m) đến 350 bộ (106m) mỗi giây. Ba mươi lăm giây trôi qua. Các đám mây hình nấm mang tính biểu tượng bắt đầu hình thành, phần mũ và thân khổng lồ của nó, được tạo thành từ những thân người bị thiêu hủy và các mảnh vụn của nền văn minh, chuyển từ màu đỏ, sang màu nâu, sang màu cam. Tiếp theo là hiệu ứng hút ngược chết người, với các vật thể – ô tô, con người, cột đèn, biển báo, đồng hồ đỗ xe, dầm thép – bị hút trở lại trung tâm của địa ngục đang cháy và bị ngọn lửa thiêu rụi.

Sáu mươi giây trôi qua mũ và thân nấm bây giờ có màu trắng xám, nhô lên cách mặt đất năm, mười dặm. Cái mũ lưỡi trai cũng lớn dần, trải dài mười, hai mươi, ba mươi dặm, cuồn cuộn thổi ngày càng xa. Cuối cùng, nó vượt ra ngoài tầng đối lưu, cao hơn các chuyến bay thương mại và là khu vực xảy ra hầu hết các hiện tượng thời tiết trên Trái đất. Các hạt phóng xạ phun ra khắp mọi thứ bên dưới khi bụi phóng xạ trút xuống Trái đất và con người trên đó. Nhà vật lý thiên văn Carl Sagan đã cảnh báo từ nhiều thập kỷ trước rằng một quả bom hạt nhân tạo ra “một loại sản phẩm phóng xạ phù thủy và cũng bị cuốn vào đám mây”.

Hơn một triệu người đã chết hoặc sắp chết và ít hơn hơn hai phút đã trôi qua kể từ vụ nổ.

Bây giờ địa ngục bắt đầu. Địa ngục này khác với quả cầu lửa ban đầu; đó là một đám cháy lớn không thể đo lường. Đường dẫn khí nổ tung hết cái này đến cái khác, tác động như đèn hàn hoặc súng phun lửa, phun không ngừng những luồng lửa nóng như những lò nướng khổng lồ. Mọi người, ở khắp mọi nơi, bị thiêu sống. Những bể chứa vật liệu dễ cháy nổ tung. Các nhà máy hóa học nổ tung. Đèn đánh lửa trong lò sưởi và lò lửa tác động như cái mồi lửa đèn hàn, khiến những vật chưa cháy bốc lửa. Những tòa nhà đổ sập như những lò nướng khổng lồ. Dân chúng, mọi nơi, đều bị thiêu sống.

Khoảng trống mở trên sàn và mái nhà hoạt động giống như ống khói. Thán khí từ các cơn bão lửa chìm xuống và nằm lại trong các đường hầm tàu ​​điện ngầm , khiến những hành khách đang đi tàu  bị ngạt thở. Những ai tìm nơi trú ẩn trong tầng hầm và các không gian khác dưới mặt đất sẽ nôn mửa, co giật, hôn mê và chết. Bất cứ ai trên mặt đất nhìn thẳng vào vụ nổ – trong một số trường hợp ở xa đến mười ba dặm – sẽ bị mù lòa.

Cách tâm điểm số 0 của quả cầu bảy dặm rưỡi, trên vành đai đường kính 15 dặm quanh Lầu Năm Góc  (vùng 5 psi), ô tô và xe buýt đâm sầm vào nhau. Đường nhựa biến thành chất lỏng do sức nóng dữ dội, khiến những người sống sót mắc kẹt như thể bị mắc kẹt trong dung nham nóng chảy hoặc cát lún. Gió bão tạo ra hàng trăm đám cháy thành hàng nghìn đám cháy, thành hàng triệu đám cháy. Ngoài mười dặm, tro nóng và những mảnh vụn cháy do gió tạo ra những đám cháy mới, và hết đám này đến đám khác tiếp tục tích tụ lại. Toàn bộ Washington, D.C. trở thành một cơn bão lửa phức tạp. Một vô ván địa ngục lớn. Chẳng mấy chốc sẽ trở thành một siêu lốc xoáy lửa. Tám, có lẽ chín phút trôi qua.

Mười và mười hai dặm cách tâm điểm vụ nổ (trong vùng 1 psi), những người sống sót chạy nhốn nháo, bị sốc gần như chết. Không biết những gì vừa mới xảy ra, chạy trốn một cách tuyệt vọng. Hàng chục ngàn người ở đây đã vỡ phổi. Quạ, chim sẻ và chim bồ câu bay trên không bắt lửa và rơi từ bầu trời như một trận mưa chim. Không có điện. Không có dịch vụ điện thoại. Không 911.

Xung điện từ cục bộ của quả bom sẽ xóa sạch toàn bộ sóng vô tuyến, internet và truyền hình. Những chiếc ô tô có hệ thống đánh lửa điện nằm trong phạm vi vài dặm bên ngoài khu vực vụ nổ không thể khởi động lại. Trạm nước không thể bơm nước. Bão hòa với mức độ phóng xạ gây chết người, toàn bộ khu vực là khu vực cấm đi lại đối với lực lượng ứng ứng phó đầu tiên. Phải mất nhiều ngày, những người sống sót hiếm hoi mới nhận ra sự trợ giúp không bao giờ xuất hiện.

Những ai bằng cách nào đó thoát khỏi cái chết ban đầu trong cơn bão hơi nổ, sóng xung kích và bão lửa đột nhiên nhận ra một sự thật xảo quyệt về chiến tranh hạt nhân. Rằng họ phải hoàn toàn tự lực. Cựu giám đốc FEMA (Cục Quản lý Khẩn cấp Liên bang) Craig Fugate nói với chúng tôi rằng hy vọng sống sót của họ là tìm ra cách “tự sinh tồn”. Từ đây bắt đầu một “cuộc chiến giành thức ăn, nước uống, dung dịch điện giải Pedialyte…”

Làm thế nào và tại sao các nhà khoa học quốc phòng Hoa Kỳ lại biết những điều ghê tởm như vậy với độ chính xác cực kỳ? Làm thế nào mà chính phủ Hoa Kỳ biết rất nhiều sự thật liên quan đến hiệu ứng hạt nhân, trong khi công chúng vẫn mù tịt? Câu trả lời cũng kỳ cục như chính những câu hỏi đó bởi vì suốt ngần ấy năm, kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc, chính phủ Hoa Kỳ đã chuẩn bị và luyện tập các kế hoạch cho một Chiến tranh hạt nhân toàn diện Một Thế chiến thứ ba hạt nhân chắc chắn sẽ khiến ít nhất 2 tỷ người chết.

Để biết câu trả lời này cụ thể hơn, chúng ta quay ngược thời gian, hơn sáu mươi năm trước. Đến tháng 12 năm 1960. Đến Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược Hoa Kỳ, và một cuộc họp bí mật diễn ra ở đó.

Trụ sở SAC,  sở chỉ huy ngầm. “Bảng lớn”. Hình ảnh vào đầu năm 1957. (Cơ quan Nghiên cứu Lịch sử Không quân Hoa Kỳ)

Phần  I

SỰ TÍCH LŨY  (HOẶC, CHÚNG TA ĐÃ ĐẾN ĐÂY NHƯ THẾ NÀO)

CHƯƠNG MỘT

Kế hoạch tối mật cho chiến tranh hạt nhân toàn diện

Tháng 12 năm 1960, Sở chỉ huy Không quân Chiến lược, Căn cứ Không quân.Offutt, Nebraska

Một ngày cách đây không lâu, một nhóm quan chức quân đội Mỹ đã cùng nhau chia sẻ một kế hoạch bí mật có thể giết chết 600 triệu người, 1/5 dân số thế giới – 3 tỷ người lúc bấy giờ. Những người tham dự ngày hôm đó bao gồm:

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Thomas S. Gates Jr.

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ James H. Douglas Jr.

Phó Giám đốc Nghiên cứu và Kỹ thuật Quốc phòng Hoa Kỳ John H. Rubel

Tham mưu trưởng liên quân, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược Hoa Kỳ, Tướng Thomas S. Power

Tổng tư lệnh Lục quân George H. Decker

Tham mưu trưởng Hải quân Đô đốc Arleigh A. Burke

Tư lệnh Không quân Tướng Thomas D. White

Tư lệnh Thủy quân lục chiến David M. Shoup

Thêm nhiều quan chức quân sự cấp cao nhất của Hoa Kỳ

Căn phòng nằm dưới lòng đất. Những bức tường dài hơn 150 bộ (45 mét), cao vài tầng, có ban công vách kính trên cao ở tầng hai. Có những dãy bàn làm việc, điện thoại và bản đồ. Các tấm bản đồ. Toàn bộ bức tường treo kín bản đồ. Trụ sở Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược ở Omaha, Nebraska, là nơi các tướng lĩnh và đô đốc sẽ tiến hành chiến tranh hạt nhân khi nó xảy ra. Đúng là lúc này, bây giờ vào năm 2024 – với trung tâm chỉ huy ngầm được cập nhật cho chiến tranh hạt nhân thế kỷ XXI.

Mọi điều bạn sắp biết về cuộc họp này đều đến từ một nhân chứng trực tiếp – một người thực sự có mặt trong phòng ngày hôm đó – một giám đốc kinh doanh chuyển sang làm quan chức quốc phòng tên là John H. Rubel. Năm 2008, ở tuổi cuối thập niên 80, một vài năm trước khi qua đời, Rubel đã tiết lộ thông tin này trong một cuốn hồi ký ngắn. Khi Rubel chuẩn bị cho cái chết của chính mình, ông đã lấy hết can đảm để bày tỏ một sự thật đã bị kìm nén từ lâu. Rằng ông cảm thấy hối hận vì đã tham gia vào kế hoạch “trái tim đen tối” như vậy. Vì đã không nói gì trong nhiều thập kỷ sau sự việc đó. Rubel viết, những gì ông ta tham gia là một kế hoạch “tiêu diệt hàng loạt”. Lời của ông ấy

Bên trong hầm ngầm lớn ở Nebraska ngày hôm đó, Rubel ngồi cạnh các nhà hoạch định chiến tranh hạt nhân đồng nghiệp của minh trên những hàng ghế xếp gọn gàng, kiểu cổ điển với những thanh gỗ. Tướng bốn sao ngồi hàng đầu, tướng một sao ngồi hàng sau. Rubel, phó giám đốc Cơ quan Nghiên cứu và Kỹ thuật Quốc phòng Hoa Kỳ vào thời điểm đó, ngồi ở hàng thứ hai.

Theo tín hiệu từ Tư lệnh Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược, Tướng Thomas S. Power, một người phục vụ bước lên sân khấu. Sau đó, một phụ tá xuất hiện mang theo một giá vẽ và một phụ tá thứ hai cầm một cây gậy chỉ điểm. Người đầu tiên ở đó để lật biểu đồ, người thứ hai chỉ ra mọi thứ.

Tướng Power (tên thật của ông) giải thích với cử tọa rằng những gì đang được chứng kiến ​​là kế hoạch cho một cuộc tấn công hạt nhân toàn diện chống lại Liên Xô. Hai nhân viên phi hành bước về phía trước và đứng ở mỗi đầu của bức tường bản đồ dài 150 bộ (45 mét), mỗi người mang một chiếc thang cao. Bản đồ thể hiện Liên Xô và Trung Quốc (lúc đó gọi là khối Trung-Xô) và các nước xung quanh.

Rubel nhớ lại: “Mỗi người leo lên chiếc thang cao của mình với tốc độ nhanh như nhau, đạt đến đỉnh cùng lúc với đối tác của mình”.  Mỗi người đưa tay về phía một dải ruy băng màu đỏ mà bây giờ chúng tôi nhận thấy quấn quanh một cuộn nhựa lớn trong suốt. Chỉ bằng một chuyển động duy nhất, mỗi người đã tháo chiếc nơ buộc dải ruy băng ở đầu cuộn của mình, sau đó tấm nhựa được buông lăn xuống với một tiếng vút!, phấp phới một chút rồi treo lủng lẳng trước mặt bản đồ.” Bản đồ lúc này hiển thị hàng trăm đốm đen nhỏ các dấu hiệu, “hầu hết trong số chúng ở Moscow,” mỗi đốm đen tượng trưng cho một vụ nổ hạt nhân.

Người thuyết trình đầu tiên của Tướng Power bắt đầu mô tả kế hoạch tấn công hạt nhân của Mỹ chống lại Liên Xô. Làn sóng tấn công đầu tiên sẽ đến từ các máy bay chiến đấu của Mỹ cất cánh từ các tàu sân bay đóng quân gần Okinawa, Nhật Bản. Các “đợt sóng tấn công nối tiếp nhau” sẽ xảy ra sau đó. Các đợt ném bom liên tiếp của máy bay oanh tạc chiến lược tầm xa Boeing B-52, mỗi chiếc mang trong khoang bom nhiều loại vũ khí nhiệt hạch – mỗi loại có khả năng hủy diệt gấp hàng nghìn lần so với những quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản. Mỗi lần thuyết trình viên mô tả một làn sóng tấn công mới, Rubel viết, hai người phụ tá ngồi trên thang của họ “sẽ tháo một cặp ruy băng đỏ khác, một cuộn nhựa khác sẽ bay vút xuống và Moscow thậm chí sẽ bị xóa sổ hơn nữa bên dưới những dấu vết nhỏ trên những tấm nhựa đó. “

Ông viết, điều khiến Rubel sốc nhất là chỉ xét riêng Moscow, “kế hoạch yêu cầu tổng cộng 40 megaton – megaton – xuống Moscow, gấp khoảng 4 nghìn lần so với quả bom ném xuống Hiroshima và có lẽ là 20 đến 30 lần tổng số bom phi hạt nhân do quân Đồng minh thả xuống cả hai chiến trường trong hơn bốn năm của Thế chiến thứ hai.”

Chưa hết, trong suốt cuộc họp năm 1960, Rubel chỉ ngồi trên ghế và không nói gì.

Không nói một điều gì. Không trong bốn mươi tám năm. Nhưng sự thừa nhận này thật đáng chú ý – trường hợp đầu tiên được biết đến mà một người tham dự cuộc họp này dám tiết lộ những chi tiết cá nhân như vậy về những gì đã diễn ra. Những chi tiết truyền tải sự thật đơn giản cho bất kỳ ai bên ngoài căn phòng đó: rằng kế hoạch chiến tranh hạt nhân này là hành động diệt chủng.

Các nhân viên phi hành  bước xuống thang, gấp chúng lại, kẹp dưới cánh tay và bước ra khỏi tầm nhìn.

Sức nổ gấp bốn nghìn lần quả bom ném xuống Hiroshima.

Điều này thậm chí có nghĩa là gì – và liệu bộ não của một người có thể hiểu hết được điều đó không?

Cấp thiết hơn, liệu có ai có thể ngăn chặn kế hoạch tiêu diệt hàng loạt trước khi nó xảy ra không?

CHƯƠNG HAI

Cô bé trong đống đổ nát

Ngày 6 tháng 8 năm 1945, Hiroshima, Nhật Bản

Quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima vào tháng 8 năm 1945 đã giết chết hơn 80.000 người chỉ trong một cuộc tấn công. Tổng số thương vong vẫn đang được tranh luận. Trong những ngày và tuần sau vụ đánh bom, không thể đếm chính xác số nạn nhân. Sự hủy diệt hàng loạt các cơ sở vật chất của chính quyền Hiroshima, bệnh viện, sở cảnh sát và sở cứu hỏa đã tạo ra một tình trạng hỗn loạn và bối rối hoàn toàn ngay sau đó.

Bản đồ Khảo sát Ném Bom Chiến lược của Hoa Kỳ về thiệt hại do cháy và hơi nổ ở Hiroshima. (Cục Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ)

Setsuko Thurlow, 13 tuổi, cách tâm điểm 0,8 km khi quả bom nguyên tử có tên mã Little Boy (Cậu Nhỏ) này phát nổ trên bầu trời Hiroshima ở độ cao 1.900 bộ (khoảng 580m) – một vụ nổ trên không, như người ta vẫn gọi. Đây là loại vũ khí hạt nhân đầu tiên được sử dụng trong chiến đấu. Độ cao phát nổ của nó dựa trên con số đã được tính toán chính xác bởi nhà khoa học quốc phòng người Mỹ John von Neumann, người được giao nhiệm vụ tìm ra cách tiêu diệt nhiều người nhất có thể trên mặt đất bằng quả bom nguyên tử duy nhất này. Cho nổ bom hạt nhân trực tiếp trên mặt đất “lãng phí” rất nhiều năng lượng, do di dời khối lượng khổng lồ đất cát, như các nhà hoạch định quân sự đã tìm hiểu và đồng ý. Setsuko Thurlow đã bị đánh bất tỉnh bởi vụ nổ này.

Khi tỉnh lại lần đầu tiên, Setsuko không thể nhìn thấy hay cử động. “Sau đó, tôi bắt đầu nghe thấy giọng nói thì thầm của các cô gái xung quanh mình”, cô nhớ lại nhiều năm sau đó và cô có thể nghe thấy họ nói: “Chúa ơi, giúp con với, mẹ giúp con. Con ở đây.”

Được che chở bởi một tòa nhà bị sập, phần nào Setsuko đã sống sót một cách kỳ diệu sau luồng sóng hơi khởi đầu đi cùng với vụ nổ của quả bom nguyên tử. Mọi thứ xung quanh cô đều rất tối, cô đã nhớ ra. Cảm giác đầu tiên của cô là mình đã biến thành khói. Có lẽ sau vài giây, hoặc vài phút – trong đầu cô ghi nhận giọng nói của một người đàn ông đang hướng dẫn cô làm điều gì đó.

“Đừng bỏ cuộc,” người đàn ông nói. “Chú đang cố gắng giải thoát cho cháu.”

Người đàn ông này, một người lạ, đang lắc vai trái của Setsuko và đẩy cô từ phía sau. “Hãy bò ra ngoài càng nhanh càng tốt,” cô tự nghĩ.

Vào thời điểm xảy ra vụ đánh bom nguyên tử ở Hiroshima, Setsuko Thurlow đang theo học tại một trường nữ sinh. Cô là một trong hơn ba mươi cô gái tuổi teen được tuyển dụng và đào tạo để thực hiện công việc ghi chép tuyệt mật tại trụ sở quân đội Nhật Bản ở Hiroshima, nơi cô ở khi quả bom phát nổ.

“Bạn có thể tưởng tượng,” Setsuko sau này suy ngẫm, “một cô bé 13 tuổi đang làm công việc quan trọng như vậy không? Điều đó cho thấy Nhật Bản đã tuyệt vọng đến mức nào.”

Trong những khoảnh khắc đầu tiên sau khi quả bom nguyên tử phát nổ, Setsuko nhận ra người đàn ông này đang cố gắng giải thoát cô khỏi đống đổ nát và điều quan trọng là cô phải nỗ lực hành động nếu không cô  có thể sẽ chết. Cô đẩy và đẩy. Bắt đầu đá. Bằng cách nào đó, cô đã bò được ra khỏi đống đổ nát và qua một khung cửa. Cô nhớ lại: “Khi tôi ra khỏi tòa nhà thì nó đã bốc cháy. “Điều đó có nghĩa là khoảng 30 cô gái khác ở cùng chỗ với tôi đã bị thiêu chết.”

Quả bom nguyên tử đã được thả từ máy bay của Không Lực Hoa Kỳ, vào thời điểm đó bỏ bom là cách duy nhất để đưa một quả bom như vậy tới mục tiêu. Quả bom dài 3m và nặng 4.300 kí, tương đương với một con voi cỡ trung bình. Chiếc máy bay thứ hai bay ngay sau máy bay ném bom, chiếc này chở ba nhà vật lý Los Alamos, cùng với rất nhiều dụng cụ khoa học để thu thập dữ liệu.

Hiệu suất thực tế của quả bom (lực cần thiết để tạo ra một vụ nổ tương đương) đã được tranh luận trong nhiều năm giữa các nhà khoa học quốc phòng và quan chức quân sự. Cuối cùng, vào năm 1985, chính phủ Hoa Kỳ đã quyết định con số đó tương đương với 15 kiloton thuốc nổ TNT (1 kiloton là 1.000 tấn). Một cuộc Khảo sát Ném bom Chiến lược được tiến hành sau chiến tranh ước tính rằng 2.100 tấn bom thông thường phải được thả xuống Hiroshima cùng một lúc để đạt được hiệu ứng tương tự.

Setsuko Thurlow đã ra được bên ngoài. Mới sáng sớm mà trông như đêm tối. Không khí dày đặc khói đen. Setsuko nhìn thấy một vật thể màu đen đang lê bước về phía cô, theo sau là những vật thể màu đen khác mà lúc đầu cô nhầm là ma.

“Các bộ phận của cơ thể đã bị mất,” cô nhận ra. “Da và thịt dính lủng lẳng vào xương. Một số đang mang theo nhãn cầu của chính mình.”

Ở cuối con đường, bác sĩ Michihiko Hachiya, giám đốc Bệnh viện Truyền thông Hiroshima, đang nằm trên sàn phòng khách, nghỉ lấy sức sau ca đêm ở nơi làm việc thì một tia sáng chớp lóe  báo hiệu quả bom nguyên tử đã phát nổ. – làm anh giật mình. Sau đó, tia sáng thứ hai xuất hiện. Anh bị đánh bất tỉnh,  có phải hay không? Qua làn bụi xoáy, bác sĩ Hachiya bắt đầu nhận ra chuyện gì đang xảy ra. Các bộ phận trên cơ thể anh, đùi và cổ, bị rách nát và chảy máu. Anh hoàn toàn trần truồng. Quần áo của anh đã bị thổi bay hoàn toàn. Bác sĩ Hachiya sau này nhớ lại: “Một mảnh kính khá lớn đâm vào cổ tôi và tôi đã bất giác rứt ra,” và anh tự hỏi: “Vợ mình đâu rồi?” Anh nhìn lại cơ thể  mình. “Máu bắt đầu phun ra. Liệu động mạch cảnh của tôi bị cắt? Liệu tôi có chảy máu đến chết không?”

Sau một thời gian, bác sĩ Hachiya đã tìm được vợ mình, Yaeko-san. Ngôi nhà nhỏ của họ đã sụp đổ xung quanh hai người và họ chạy ra ngoài, “chạy, vấp ngã, ngã”, anh nhớ lại. “Tôi đứng dậy và phát hiện ra mình đã vấp phải đầu một người đàn ông.” Trải nghiệm sống sót của Setsuko Thurlow, trải nghiệm sống sót của Bác sĩ Hachiya cùng vô số những trải nghiệm tương tự của họ đã bị Quân đội Hoa Kỳ và lực lượng chiếm đóng giấu nhẹm trong nhiều thập kỷ. Hiệu quả mà các quả bom được sử dụng trong chiến đấu đối với con người và các tòa nhà được giữ bí mật và độc quyền vì các quan chức quốc phòng Hoa Kỳ muốn dành thông tin đó cho chính họ. Đối với một cuộc chiến tranh hạt nhân khác, Lầu Năm Góc muốn đảm bảo rằng mình biết  những tác động của vụ nổ hạt nhân nhiều hơn bất kỳ kẻ thù tương lai nào có thể biết được.

Trong những chớp lóe  năng lượng và ánh sáng, hai quả bom nguyên tử – một quả rơi xuống Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm 1945, và quả thứ hai rơi xuống Nagasaki ba ngày sau đó – đã kết thúc cuộc chiến tranh thế giới khiến 50 đến 75 triệu người đã thiệt mạng. Giờ đây, bắt đầu từ năm 1945, một nhóm nhỏ các nhà khoa học hạt nhân và quan chức quốc phòng Mỹ bắt đầu thực hiện những kế hoạch mới và lớn hơn nhằm sử dụng nhiều loại vũ khí nguyên tử trong cuộc chiến tranh thế giới tiếp theo. Một cuộc chiến có thể giết chết ít nhất 600 triệu người, một phần năm dân số toàn thế giới.

Điều này đưa chúng ta trở lại với những người đàn ông ngồi trong hầm ngầm vào tháng 12 năm 1960, lắng nghe kế hoạch về Chiến tranh hạt nhân toàn diện.

CHƯƠNG BA

Sự tích lũy

1945-1990:

Los Alamos, Lawrence Livermore và Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia

Kế hoạch chiến tranh hạt nhân được bí mật trình chiếu tại trụ sở Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược vào năm 1960 đã được thực hiện khoảng một năm. Nó được Bộ trưởng Quốc phòng đặt hàng cho tổng thống Mỹ. Mười lăm năm đã trôi qua kể từ khi hai quả bom nguyên tử được thả xuống Nhật Bản, mỗi quả đều giết chết hàng vạn người ngay lập tức và thêm hàng vạn người nữa bị thiêu chết trong những trận bão lửa sau đó.

Trở lại tháng 8 năm 1945, Hoa Kỳ đã chuẩn bị xuất xưởng quả bom thứ ba, với đủ vật liệu hạt nhân trong kho vũ khí để sản xuất quả bom thứ tư vào cuối tháng, đó là kế hoạch hành động nếu Nhật Bản không đầu hàng. Tiến sĩ Glen McDuff, một kỹ sư vũ khí hạt nhân lâu năm ở Los Alamos và từng là nhà sử học – người giám tuyển của bảo tàng mật của phòng thí nghiệm, cho biết: “Những quả bom nguyên tử ban đầu giống như những dự án khoa học ở trường học”. McDuff giải thích: “19 trong số 20 thiết bị khoa học họ có, họ tự thiết kế và chế tạo chỉ với khoảng 80 đèn điện tử  chân không thông thường.”

Khi chiến tranh thế giới cuối cùng cũng kết thúc, số phận của phòng thí nghiệm hạt nhân Los Alamos là điều không ai có thể đoán trước được. McDuff phản ánh: “Sau chiến tranh, chỉ với một quả bom nguyên tử trong kho, phòng thí nghiệm Los Alamos và cơ sở hạ tầng của thị trấn đã sụp đổ”. “Đó là một cuộc đấu tranh hàng ngày chỉ để giữ cho văn phòng sáng đèn. Một nửa số nhân viên Los Alamos rời đi. Mọi thứ trông thật ảm đạm. Cho đến khi hải quân vào cuộc.”

Hải quân Hoa Kỳ cho đến nay đã là lực lượng chiến đấu hàng hải hùng mạnh nhất trên thế giới và lực lượng này tỏ ra vô cùng lo lắng về tình trạng lỗi thời lù lù hiện ra của nó trong thời đại mới này của chiến tranh hạt nhân. Do đó, Hải quân đã lên kế hoạch cho một loạt thử nghiệm  ba quả bom nguyên tử – cho mọi người xem.

Vụ thử nguyên tử Baker đã làm nổ tung bề mặt đầm phá, thổi bay 2 triệu mét khối nước biển và trầm tích có tính phóng xạ vào không khí vào năm 1946. (Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ)

Chiến dịch Crossroads (Giao lộ) là một sự kiện hoành tráng và đáng ăn mừng. Một cuộc thử nghiệm quân sự quy mô lớn dựa trên quan hệ công chúng được thiết kế để chứng minh làm thế nào 88 tàu hải quân có thể sống sót – thậm chí phát triển mạnh trong một môi trường trận chiến hạt nhân trong tương lai diễn ra trên biển. Hơn 42.000 người tập trung tại đảo san hô Bikini ở quần đảo Marshall. Các nhà lãnh đạo thế giới, nhà báo, quan chức, nguyên thủ quốc gia – họ đã đi đến nơi xa xôi này ở Thái Bình Dương để chứng kiến trực tiếp ​​​​các vụ nổ nguyên tử . Đây là lần đầu tiên Mỹ sử dụng vũ khí nguyên tử kể từ sau chiến tranh. Một minh họa về những gì đang ở phía trước.

McDuff nói: “Đối với một Los Alamos đang sụp đổ vào năm 1946, hải quân là vị cứu tinh của họ”.

Chiến dịch Crossroads nạp sức sống mới cho chương trình nguyên tử. Đến giữa năm 1946, kho dự trữ hạt nhân của Mỹ đã lên tới 9 quả bom nguyên tử. Sau cuộc thử nghiệm, Tham mưu trưởng liên quân yêu cầu xếp “bom nguyên tử vào loại vũ khí quân sự” để xác định bước đi tiếp theo của nó. Báo cáo – được phân loại cho đến năm 1975 – đã bật đèn sáng cho khu phức hợp công nghiệp-quân sự đang nảy mầm. Các chi tiết thật đáng báo động.

Bom nguyên tử là “mối đe dọa đối với nhân loại và nền văn minh”, nhóm đô đốc, tướng lĩnh và nhà khoa học là tác giả của báo cáo cảnh báo, “vũ khí hủy diệt hàng loạt” có khả năng “làm suy giảm dân số ở những khu vực rộng lớn trên bề mặt Trái đất.” Nhưng chúng cũng có thể rất hữu ích, nhóm báo cáo với Tham mưu trưởng liên quân. “Nếu được sử dụng với số lượng lớn,” họ viết, “bom nguyên tử không chỉ có thể vô hiệu hóa nỗ lực quân sự của bất kỳ quốc gia nào, mà con có thể  phá hủy các cấu trúc xã hội và kinh tế và ngăn cản sự tái lập của chúng trong thời gian dài.”

Nhóm khuyến nghị nên dự trữ nhiều bom hơn.

Báo cáo nêu rõ rằng Nga sẽ sớm có kho vũ khí nguyên tử của riêng mình, khiến nước Mỹ dễ bị tấn công bất ngờ – sau này được mệnh danh là cuộc tấn công Sấm sét từ Bầu trời. Hội đồng cảnh báo: “Với sự xuất hiện của bom nguyên tử, sự bất ngờ đã đạt được giá trị tối cao để kẻ xâm lược tấn công bất ngờ và không được biết trước bằng một số quả bom nguyên tử [có thể] đảm bảo sự thất bại cuối cùng của kẻ thù ban đầu mạnh hơn”- nghĩa là Hoa Kỳ.

Những gì nước Mỹ tạo ra đã báo trước sự sụp đổ tiềm tàng của chính nó.

“Mỹ không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục sản xuất và dự trữ vũ khí,” các Tham mưu trưởng liên quân đã được khuyên như vậy. Họ đã chú ý và chấp thuận.

Đến năm 1947, kho dự trữ của Mỹ tăng lên 13 quả bom nguyên tử.

Đến năm 1948, đã có 50.

Đến năm 1949, 170.

Từ những hồ sơ được giải mật, giờ đây chúng ta biết rằng các nhà hoạch định quân sự đã đồng ý với nhau rằng 200 quả bom hạt nhân sẽ cung cấp đủ hỏa lực để tiêu diệt toàn bộ đế chế Liên Xô. Nhưng đến mùa hè năm đó, thế độc quyền về vũ khí hạt nhân của Mỹ đã chấm dứt. Ngày 29/8/1949, quân Nga cho nổ tung quả bom nguyên tử đầu tiên của họ, một bản sao gần như chính xác của quả bom Mỹ thả xuống Nagasaki bốn năm trước. Bản thiết kế của quả bom đã bị đánh cắp khỏi phòng thí nghiệm Los Alamos bởi một điệp viên cộng sản gốc Đức, học ở Anh. Một nhà khoa học của Dự án Manhattan tên là Klaus Fuchs.

Cuộc đua chế tạo thêm nhiều quả bom nguyên tử giờ đây đã tăng tốc đáng kể. Đến năm 1950, Mỹ bổ sung thêm 129 vũ khí nguyên tử vào kho dự trữ của mình, nâng tổng số từ 170 lên 299. Vào thời điểm đó, Liên Xô có 5 vũ khí.

Năm sau, 1951, con số lại tăng lên – lần này lên tới con số đáng kinh ngạc là 438 vũ khí nguyên tử trong kho vũ khí của Hoa Kỳ. Hơn gấp đôi con số mà Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đã được thông báo có thể “làm suy giảm dân số trên các khu vực rộng lớn trên bề mặt Trái đất, chỉ để lại tàn tích các công trình vật chất của con người.”

Năm tiếp theo, con số gần gấp đôi lại tăng gần gấp đôi.

Đến năm 1952, có 841 vũ khí nguyên tử trong kho dự trữ của Mỹ.

Tám trăm bốn mươi mốt.

Khi sự độc quyền về vũ khí hạt nhân của Mỹ đã chấm dứt, cuộc chạy đua về quyền lực tối cao hạt nhân đã trở nên cấp bách mới. Cách đó nửa vòng trái đất, Liên Xô bắt đầu chế tạo vũ khí nguyên tử với tốc độ chóng mặt.

Chỉ trong vòng ba năm, Liên Xô đã phát triển kho vũ khí từ một quả bom lên 50 quả.

Nhưng bom nguyên tử – với sức mạnh phi thường và khả năng giết người hàng loạt của nó – sẽ sớm trở nên mờ nhạt so với những gì sắp xảy ra tiếp theo. Các nhà thiết kế vũ khí của Mỹ và Nga đều có những kế hoạch hoàn toàn mới trên bảng vẽ của riêng mình. Những gì tiếp theo là việc phát minh ra “loại vũ khí hủy diệt nhất, vô nhân đạo nhất và bừa bãi nhất từng được con người tạo ra,” theo lời của một nhóm người đoạt giải Nobel. Một loại vũ khí hạt nhân làm thay đổi khí hậu, gây ra nạn đói, hủy diệt nền văn minh, thay đổi bộ gen, càng ngày càng mới hơn, lớn hơn, thậm chí còn quái dị hơn – thứ mà các nhà khoa học liên quan gọi là “Siêu bom.”

Thật vậy, “Siêu bom hoạt động tốt hơn ở kích thước lớn so với kích thước nhỏ”, nhà thiết kế của nó, Richard Garwin, nói với chúng tôi. Xác nhận với độc giả của cuốn sách này rằng “[vâng] tôi là kiến ​​trúc sư của Siêu bom nhiệt hạch đầu tiên này.” Edward Teller đã nghĩ ra nó, Richard Garwin đã phác họa nó vào thời điểm không có ai khác biết được.

Năm 1952 chứng kiến ​​sự phát minh ra bom nhiệt hạch, còn gọi là bom hydro (bom khinh khí). Siêu vũ khí hai giai đoạn: bom hạt nhân bên trong bom hạt nhân. Vũ khí nhiệt hạch sử dụng quả bom nguyên tử bên trong nó làm cơ chế kích hoạt. Như một ngòi nổ bên trong. Sức mạnh bùng nổ khủng khiếp của Siêu bom là kết quả của một phản ứng dây chuyền tự duy trì, không kiểm soát được, trong đó các đồng vị hydro hợp nhất dưới tác dụng của nhiệt độ cực cao trong một quá trình gọi là phản ứng tổng hợp hạt nhân.

Một quả bom nguyên tử sẽ giết chết hàng chục ngàn người, như những quả bom được thả xuống Hiroshima và Nagasaki. Nhưng một quả bom nhiệt hạch nếu được kích nổ ở một thành phố như New York hay Seoul sẽ giết chết hàng triệu người trong một chớp lóe cực nóng.

Vũ khí nguyên mẫu do Richard Garwin thiết kế năm 1952 có sức nổ 10,4 megaton. Gần tương đương với 1.000 quả bom ở Hiroshima phát nổ cùng một lúc. Đó là một vũ khí tàn khốc. Là người cố vấn riêng của Garwin, Enrico Fermi của Dự án Manhattan, đã trải qua một cuộc khủng hoảng lương tâm khi nghĩ đến việc chế tạo một loại vũ khí kinh hoàng như vậy. Fermi và đồng nghiệp I. I. Rabi tạm thời phá vỡ quan hệ với các đồng nghiệp chế tạo vũ khí của họ và viết thư cho Tổng thống Truman, tuyên bố Siêu bom là “một thứ xấu xa”.

Lời của họ trong văn bản: “Thực tế là không có giới hạn nào đối với sức tàn phá của loại vũ khí này khiến cho sự tồn tại của nó và kiến ​​thức về cấu tạo của nó trở thành mối nguy hiểm đối với toàn thể nhân loại. Đó nhất thiết phải là một điều xấu xa được xem xét dưới bất kỳ hình thức nào.”

Nhưng tổng thống đã phớt lờ lời yêu cầu ngừng chế tạo Siêu bom và Richard Garwin được phép vạch ra kế hoạch. Garwin nói: “Nếu bom khinh khí vốn đã xấu xa thì nó vẫn còn xấu xa”.

Siêu bom đã được chế tạo. Tên mã của nó là Mike. Loạt bom là Ivy. “Vậy đó là việc thử nghiệm của Ivy Mike.”

Vào ngày 1 tháng 11 năm 1952, nó được cho nổ  thử trên đảo Elugelab thuộc Quần đảo Marshall. Bom nguyên mẫu Ivy Mike nặng khoảng 80 tấn, một   công cụ hủy diệt có kích thước khổng lồ đến mức nó phải được xây dựng bên trong một tòa nhà bằng nhôm dợn sóng dài 26.8m và rộng 14m.

Ivy Mike phát nổ với sức công phá chưa từng có. Hố bom để lại được mô tả trong một báo cáo là “đủ lớn để chứa 14 tòa nhà có kích thước bằng Lầu Năm Góc”. Và mặc dù có nhiều điều để nói về sức hủy diệt vô nhân đạo của vũ khí nhiệt hạch nói chung, hai bức ảnh chụp từ máy bay  trước và sau vụ nổ bom Ivy Mike đã kể lại câu chuyện.

Trong ảnh trên bên dưới, đảo Elugelab vốn có kể từ nguồn gốc địa chất của nó.

Đảo Elugelab trước và sau vụ thử bom nhiệt hạch Ivy Mike năm 1952. (Cục Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ)

Trong ảnh dưới, toàn bộ hòn đảo đã biến mất. Thay vào đó là một miệng núi lửa có đường kính 2 dặm và sâu khoảng 55m. Thiêu đốt trái đất bằng vũ khí hủy diệt hàng loạt vừa được nâng lên một cấp độ lớn. Việc phát minh ra Siêu bom kéo theo sự tồn tại của một loại vũ khí có thể làm biến mất đất liền.

Điều gì đã xảy ra sau khi các nhà hoạch định chiến tranh của Hoa Kỳ nhìn thấy thứ mà 10,4 megaton có thể phá hủy ngay lập tức chỉ khiến tâm trí họ bối rối. Điều xảy ra tiếp theo là một cuộc chạy đua điên cuồng nhằm dự trữ vũ khí nhiệt hạch, đầu tiên là hàng trăm và sau đó là hàng nghìn.

Năm 1952 có 841 quả bom hạt nhân. Năm tiếp theo có 1.169.

“Quá trình này đã trở nên công nghiệp hóa,” nhà sử học Glen McDuff của Los Alamos giải thích: “Đây không còn là dự án khoa học nữa.”

Đến năm 1954, có 1.703 vũ khí hạt nhân trong kho dự trữ. Tổ hợp công nghiệp-quân sự của Hoa Kỳ hiện đang sản xuất (trung bình) 1,5 vũ khí hạt nhân mỗi ngày.

1955: 2.422. Gần hai quả bom mỗi ngày và với mười hệ thống mới được giới thiệu, bao gồm ba kiểu bom nhiệt hạch mới.

1956: 3.692 quả bom. Những con số tiếp tục leo thang đến mức chóng mặt. Với mức độ sản xuất tăng vọt, những vũ khí hủy diệt hàng loạt này hiện đang được sản xuất từ ​​dây chuyền lắp ráp theo đúng nghĩa đen với tốc độ trung bình là 3,5 quả bom hạt nhân mỗi ngày.

Tích lũy điên cuồng kho dự trữ vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ, 1945-2020

Đến năm 1957, kho dự trữ của Mỹ có 5.543 quả bom. Tức là có 1.851 vũ khí hạt nhân mới trong một năm. Hơn năm quả bom mỗi ngày. Và con số tiếp tục tăng lên.

1958: 7.345.

Và tăng vọt:

1959: 12.298.

Đến năm 1960, khi các nhà hoạch định chiến tranh Hoa Kỳ gặp nhau tại hầm ngầm ở Nebraska, kho dự trữ của Hoa Kỳ chứa 18.638 quả bom hạt nhân.

Đến năm 1967, nó đạt mức cao nhất mọi thời đại là 31.255 quả bom hạt nhân.

Ba mươi mốt nghìn hai trăm năm mươi lăm bom hạt nhân.

Tại sao lại dự trữ 1.000, 18.000 hoặc 31.255 quả bom hạt nhân khi chỉ một quả bom cỡ Ivy Mike, thả xuống thành phố New York hoặc Moscow, có thể khiến khoảng 10 triệu người thiệt mạng? Tại sao tiếp tục sản xuất hàng loạt hàng nghìn loại vũ khí này khi việc sử dụng một quả bom nhiệt hạch gần như chắc chắn sẽ gây ra một cuộc chiến tranh hạt nhân quy mô lớn hơn, không thể chặn đứng và kết thúc nền văn minh?

Một thuật ngữ mới đang xuất hiện. Một lối nói tu từ được gọi là “răn đe”. Để ngăn cản cho điều gì đó không xảy ra. Nhưng cho điều đó có nghĩa là gì?

BÀI HỌC LỊCH SỬ SỐ. 1

Răn Đe

Có những quy tắc về chiến tranh hạt nhân hướng dẫn chính sách hạt nhân của Hoa Kỳ. Các khái niệm được tạo ra bởi các nhà lập kế hoạch chiến tranh bắt đầu từ những năm 1950 nhằm mục đích ngăn chặn chiến tranh hạt nhân xảy ra, đồng thời cho phép các nhà lập kế hoạch chiến tranh tìm ra cách chiến đấu và giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh hạt nhân khi nó xảy ra. Quy tắc số 1 là răn đe, được đưa ra cho công chúng vì ý tưởng rằng việc duy trì một kho dự trữ hạt nhân khổng lồ là điều bắt buộc nhằm mục đích ngăn cản cuộc tấn công hạt nhân.

Răn đe hướng dẫn chính sách hạt nhân. Nó hoạt động như thế này: Mỗi quốc gia có vũ khí hạt nhân xây dựng một kho vũ khí hạt nhân liên tục chĩa vào kẻ thù có vũ khí hạt nhân, sẵn sàng phóng trong vài phút nữa. Mỗi quốc gia có vũ khí hạt nhân thề sẽ không bao giờ sử dụng vũ khí hạt nhân trừ khi họ bị buộc phải sử dụng chúng. Một số người coi răn đe là vị cứu tinh hòa bình. Những người khác coi đó là cách nói nước đôi, khi đặt câu hỏi, Làm thế nào việc sở hữu vũ khí hạt nhân có thể giúp mọi người an toàn khỏi xảy ra chiến tranh hạt nhân?

Trong nhiều thập kỷ, khả năng răn đe đã cho phép Bộ Quốc phòng chế tạo hàng chục nghìn vũ khí hạt nhân, hệ thống phân phối chúng và một hệ thống vũ khí phản công phức tạp để chống lại cuộc tấn công hạt nhân. Hàng nghìn tỷ đô la đã được chi cho vũ khí hạt nhân.

Không có cách nào để biết tổng số một cách chắc chắn vì những con số thực sự đều được phân loại tối mật. Quy tắc số 1 được cho là đơn giản: răn đe giúp thế giới an toàn không bao giờ xảy ra chiến tranh hạt nhân. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu việc ngăn chặn thất bại?

CHƯƠNG BỐN

SIOP

Kế hoạch Hoạt động Tích hợp Đơn lẻ cho Cuộc Chiến tranh Hạt nhân Toàn diện

CÁC KHU ĐÔ THỊ CHIẾN LƯỢC NGA VÀ MÃN CHÂU

Chưa đầy hai tuần sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, quân đội Hoa Kỳ đã yêu cầu cung cấp 466 quả bom hạt nhân cho kho dự trữ, số bom hạt nhân được ước tính có hệ thống và lần đầu tiên được biết đến mà họ cho là cần thiết để tiêu diệt các mục tiêu của Liên Xô và Mãn Châu. (Cục Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ)

Khi kho dự trữ hạt nhân của Hoa Kỳ ngày càng tăng lên ngoài tầm kiểm soát, kế hoạch chiến tranh hạt nhân của từng lực lượng quân đội Hoa Kỳ cũng tăng theo. Điều này dường như thật điên rồ, trước tháng 12 năm 1960, mỗi tư lệnh Lục quân, Hải quân và Không quân Hoa Kỳ đều có quyền kiểm soát kho vũ khí hạt nhân, hệ thống phân phối và danh sách mục tiêu của riêng mình. Trong nỗ lực hạn chế khả năng xảy ra tình trạng hỗn loạn từ nhiều kế hoạch cạnh tranh chiến tranh hạt nhân này, Bộ trưởng Quốc phòng đã ra lệnh tích hợp tất cả chúng vào một kế hoạch duy nhất, đó là lý do Kế hoạch hoạt động  Tích hợp Đơn lẻ – SIOP – có tên như vậy.

Năm 1960, Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược (sau này gọi là Bộ Tư lệnh Chiến lược Hoa Kỳ) có 280.000 nhân viên. Để thực hiện kế hoạch mới này, 1.300 người trong số họ đã được điều động vào Ban hoạch định mục tiêu chiến lược chung. Những người đàn ông và phụ nữ có công việc duy nhất là tích hợp tất cả các gói mục tiêu riêng lẻ vào một bộ mục tiêu duy nhất. Kế hoạch hợp nhất này là điều mà John Rubel và các đồng nghiệp của ông đã biết về ngày tháng 12 đó trong hầm trú ẩn bên dưới Căn cứ Không quân Offutt. Kế hoạch bí mật, nếu được kích hoạt, sẽ dẫn đến cái chết của ít nhất 600 triệu người ở bên kia trái đất.

Kế hoạch về Chiến tranh hạt nhân toàn diện này cho thấy toàn bộ lực lượng quân sự của Hoa Kỳ sẽ được phát động nhắm vào Moscow trong một cuộc tấn công phủ đầu trước. Làm thế nào các nhà khoa học quốc phòng đã tính toán cẩn thận rằng 275 triệu người sẽ thiệt mạng trong giờ đầu tiên và ít nhất 325 triệu người nữa sẽ chết vì bụi phóng xạ trong khoảng sáu tháng tới. Khoảng một nửa số ca tử vong này sẽ xảy ra ở các nước láng giềng của Liên Xô – những nước không có chiến tranh với Mỹ nhưng sẽ bị cuốn vào những cơn gió ngược. Điều này bao gồm tới 300 triệu người Trung Quốc.

Năm 1960, dân số thế giới là 3 tỷ người. Điều này có nghĩa là Lầu Năm Góc đã trả tiền cho 1.300 người để lập kế hoạch chiến tranh nhằm giết chết 1/5 số người trên Trái đất trong một cuộc tấn công phủ đầu bằng hạt nhân. Điều quan trọng cần lưu ý là con số này không kể khoảng 100 triệu người Mỹ gần như chắc chắn sẽ bị giết bởi một cuộc phản công có biện pháp tương đương của Nga. Nó cũng không tính đến khoảng 100 triệu người khác ở Bắc và Nam Mỹ sẽ chết vì bụi phóng xạ trong khoảng sáu tháng tới. Hoặc vô số người sẽ chết đói do ảnh hưởng của khí hậu khi thế giới bị đốt cháy.

Sau khi cuộc họp kết thúc, một kế hoạch tấn công bí mật thứ hai đã được trình bày, kế hoạch mà Rubel đã mô tả trong cuốn hồi ký năm 2008 như một “cuộc tấn công vào Trung Quốc do một diễn giả khác đưa ra.” Nó cũng liên quan đến sân khấu tương tự với thang, con trỏ và tấm nhựa. “Cuối cùng [diễn giả này] đã đạt được một biểu đồ cho thấy số ca tử vong chỉ do bụi phóng xạ.”

Người thuyết trình chỉ vào một biểu đồ. Rubel viết: “Nó cho thấy số người chết do bụi phóng xạ khi thời gian trôi qua sẽ là 300 triệu, một nửa dân số Trung Quốc lúc đó”.

Sau một thời gian, cuộc họp đã bị hoãn lại.

Sáng hôm sau John Rubel lại tham gia vào một cuộc họp khác, lần này nhỏ hơn. Nó bao gồm ông, bộ trưởng quốc phòng, mỗi Tham mưu trưởng liên quân, các thư ký lục quân, hải quân và không quân, và tư lệnh thủy quân lục chiến. Rubel kể lại rằng Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Lyman Lemnitzer, “đã nói với mọi người rằng họ đã làm rất tốt, một công việc rất khó khăn và rằng họ nên được khen ngợi vì công việc của mình.” Rubel nhớ lại tư lệnh quân đội, George Decker, cũng bày tỏ những lời chúc mừng tương tự. Và ông nhớ lại cách mà sĩ quan chỉ huy hải quân, Arleigh Burke, “rút chiếc tẩu quen thuộc ra khỏi hàm và lặp lại cùng một thông điệp – làm việc chăm chỉ, làm tốt, nên được khen ngợi.” Rằng người cuối cùng phát biểu, Tướng Thomas White của lực lượng không quân, đã “đưa ra một loạt những câu nói vô vị tương tự được ưa chuộng vào buổi sáng hôm đó bằng giọng nói rắn rỏi của ông luôn chứa đầy uy quyền nhất định.”

Rubel viết, không ai lên tiếng phản đối việc giết hại bừa bãi 600 triệu người trong một cuộc tấn công hạt nhân đầu tiên phủ đầu, do chính phủ Hoa Kỳ tiến hành. Không một Tham mưu trưởng liên quân nào. Không Bộ trưởng Quốc phòng. Không John Rubel. Sau đó, cuối cùng, một người đã làm được. Tướng David Μ. Shoup, chỉ huy của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, một lính thủy quân lục chiến được trao Huân chương Danh dự vì thành tích của mình trong Thế chiến thứ hai.

Rubel nhớ lại: “Shoup là một người đàn ông thấp bé với cặp kính không gọng, có thể được coi là một giáo viên đến từ một cộng đồng nông thôn giữa nước Mỹ. Ông nhớ lại cách Shoup nói với giọng điềm tĩnh khi đưa ra quan điểm đối lập duy nhất về kế hoạch chiến tranh hạt nhân. Ngài Shoup đó nói: “Tất cả những gì tôi có thể nói là, bất kỳ kế hoạch nào giết chết ba trăm triệu người Trung Quốc khi đó thậm chí có thể không phải là cuộc chiến của họ đều không phải là một kế hoạch hay. Đó không phải là cách của người Mỹ.” Căn phòng im lặng, Rubel viết. “Không ai cử động một cơ bắp.”

Không ai tán thành sự bất đồng quan điểm của Shoup.

Không ai khác nói gì cả. Theo Rubel, mọi người chỉ nhìn sang hướng khác.

Nhiều thập kỷ sau, Rubel thú nhận rằng kế hoạch chiến tranh hạt nhân của Hoa Kỳ mà ông tham gia khiến ông nhớ đến kế hoạch diệt chủng của Đức Quốc xã.. Trong hồi ký của mình, ông đề cập đến thời điểm trong một cuộc chiến tranh thế giới trước đó khi một nhóm quan chức của Đế chế thứ ba gặp nhau tại một biệt thự ven hồ ở một thị trấn của Đức tên là Wannsee. Chính tại đó, trong suốt cuộc họp kéo dài 90 phút, nhóm người được cho là có lý trí này đã quyết định với nhau cách tiến hành cuộc diệt chủng trong một cuộc chiến mà họ hiện đang thắng – Thế chiến thứ hai – để đảm bảo một chiến thắng toàn diện cho họ. Hàng triệu người cần phải chết, những quan chức Đế chế này đồng ý.

Hàng triệu người.

Cuối cùng, khi John Rubel ở độ tuổi cuối bát tuần, ông đã trình bày rõ ràng những điểm tương đồng quan trọng mà ông nhận thấy giữa cuộc gặp ở Wannsee và cuộc gặp bên dưới căn cứ không quân Offutt ở Nebraska. Rubel viết: “Tôi nghĩ đến Hội nghị Wannsee vào tháng 1 năm 1942, khi một tập hợp các quan chức Đức nhanh chóng đồng ý về một chương trình tiêu diệt từng người Do Thái cuối cùng mà họ có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trên khắp châu Âu, sử dụng các phương pháp tiêu diệt hàng loạt hiệu quả hơn về mặt công nghệ so với cách nhốt vào xe tải rồi bơm khí thải, cách xả súng hàng loạt, hoặc thiêu cháy trong các nhà kho và giáo đường vốn được sử dụng cho đến thời điểm đó.” Gần cuối đời, Rubel quyết định nói với thế giới những gì ông không thể tán thành vào năm 1960. “Tôi cảm thấy như thể mình đang chứng kiến ​​một cuộc đi xuống sâu thẳm trong lòng bóng tối, một thế giới ngầm chạng vạng được khống chế bởi lối suy nghĩ tập thể có kỷ luật, tỉ mỉ và tràn đầy năng lượng nhằm mục đích xóa sổ một nửa số người sống trên gần một phần ba bề mặt trái đất.”

Giải pháp cuối cùng kêu gọi tiêu diệt toàn bộ hàng triệu người Do Thái ở châu Âu và hàng triệu người nữa mà Đức Quốc xã coi là thấp kém hơn con người.. Kế hoạch Chiến tranh hạt nhân toàn diện mà John Rubel và các đồng sự của ông đã ký kết trong Kế hoạch hoạt động  tích hợp đơn lẻ – kêu gọi tiêu diệt hàng loạt khoảng 600 triệu người Nga, Trung Quốc, Áo, Hungary, Albania, Latvia, Ba Lan, Séc, Nam Tư, Rome, Bulgaria, Estonia, Litva, Phần Lan, Thụy Điển, Ấn Độ, Afghanistan, Nhật và những dân tộc khác mà các nhà khoa học quốc phòng Hoa Kỳ tính toán sẽ bị cuốn vào tình thế khó khăn.

Tuy Giải pháp Cuối cùng đã được ban hành. SIOP chưa bao giờ được tiến hành – chưa đến mức đó. Nhưng một kế hoạch tương tự vẫn còn được xếp loại mật cho đến ngày nay. Qua nhiều năm, tên của nó đã thay đổi. Những gì bắt đầu là Kế hoạch Hoạt động Tích hợp Đơn lẻ giờ đây là Kế hoạch Hoạt động, hay OPLAN. Đối với Dự án Thông tin Hạt nhân, phối hợp với Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ, giám đốc dự án Hans Kristensen và nhà nghiên cứu cấp cao Matt Korda đã xác định Kế hoạch Hoạt động hiện tại là OPLAN 8010-12. Và nó bao gồm “một loạt các kế hoạch nhằm chống lại bốn kẻ thù đã được xác định: Nga, Trung Quốc, Triều Tiên và Iran.”

Số lượng vũ khí hạt nhân trong kho dự trữ của Mỹ ngày nay ít hơn so với năm 1960, nhưng vẫn còn 1.770 vũ khí hạt nhân được triển khai, phần lớn trong số đó ở trạng thái sẵn sàng phóng, với hàng ngàn vũ khí khác được giữ trong kho dự trữ, tổng cộng hơn 5.000 đầu đạn. Nga có 1.674 vũ khí hạt nhân được triển khai, phần lớn trong số đó đang ở trạng thái sẵn sàng phóng và hàng nghìn vũ khí dự trữ khác, với tổng số vũ khí hạt nhân có trữ lượng tương đương với kho vũ khí hạt nhân hiện có.của Mỹ.

Chính tác động của loại kế hoạch tiêu diệt hàng loạt này là cơ sở cho cuốn Chiến tranh hạt nhân: Một Kịch bản.

Tổng thống Ronald Reagan và Tổng bí thư Liên Xô Mikhail Gorbachev cảnh báo thế giới trong một tuyên bố chung năm 1985: “Một cuộc chiến tranh hạt nhân không thể thắng và không bao giờ nên được khai chiến”. Nhiều thập kỷ sau, vào năm 2022, Tổng thống Joe Biden cảnh báo người Mỹ rằng viễn cảnh “Tận Thế Hạt nhân” đang đến một mức cao mới đáng sợ.

Vì thế hiện giờ chúng ta đang chập chững bước đến bờ vực – có lẽ thậm chí gần sát hơn bao giờ hết.

HÃY CHUẨN BỊ CHO MỘT VỤ NỔ HẠT NHÂN

Cục Quản lý Khẩn cấp Liên bang F-2149/Tháng 3 năm 2018

  • Vũ khí hạt nhân là thiết bị sử dụng phản ứng hạt nhân để tạo ra vụ nổ.
  • Các thiết bị hạt nhân bao gồm từ một thiết bị cầm tay nhỏ được một cá nhân mang theo đến vũ khí phóng trên tên lửa.
  • Một vụ nổ hạt nhân có thể xảy ra với cảnh báo trong vài phút hoặc không có cảnh báo.
  • Vụ nổ hạt nhân có thể gây ra thiệt hại và thương vong đáng kể do luồng hơi ép, sức nóng và bức xạ nhưng bạn có thể giữ an toàn cho gia đình mình bằng cách biết phải làm gì và chuẩn bị sẵn sàng nếu điều đó xảy ra.

CHỚP LÓE SÁNG có thể làm bạn.mù tạm thời không đến 1 phút.

* LUỒNG SÓNG HƠI có thể gây chết, thương tật, thiệt hại công trình cách tâm điểm nổ vài dặm.

* BỨC XẠ có thể gây tổn hại tế bào thân thể. Phơi nhiễm lâu có thể sinh ra bệnh nhiễm xạ.

* LỬA VÀ HƠI NÓNG có thể giết chết người, gây các vết bỏng và làm thiệt hại cấu trúc cách vụ nổ vài dặm.

* XUNG ĐIỆN TỬ (EMP) có thể gây thiệt hại cho thiết bị điện tử và gây gián đoạn tạm thời ở khoảng cách xa hơn.

* BỤI PHÓNG XẠ cùng với đất cát và mảnh vụn đủ loại rơi xuống như mưa gây bệnh cho bất kì ai ở bên ngoài.

Bụi phóng xạ nguy hiểm nhất trong vài giờ đầu tiên sau vụ nổ khi nó phát ra mức phóng xạ cao nhất. Phải mất thời gian để bụi phóng xạ quay trở lại mặt đất, thường là hơn 15 phút đối với các khu vực nằm ngoài vùng thiệt hại trực tiếp do vụ nổ. Đây là thời gian đủ để bạn có thể ngăn ngừa phơi nhiễm bức xạ đáng kể bằng cách thực hiện theo các bước đơn giản sau:

VÀO TRONG

  • Vào bên trong tòa nhà gần nhất để tránh phóng xạ. Gạch hoặc bê tông là tốt nhất
  • Cởi bỏ quần áo đang mặc đã phơi nhiễm và lau hoặc rửa làn da không được bảo vệ nếu bạn đã hứng trận mưa phóng xạ.
  • Đi xuống tầng hầm hoặc ở trong tòa nhà. Tránh xa các bức tường bên ngoài và mái nhà.

Ở YÊN BÊN TRONG

  • Ở bên trong nhà trong 24 giờ trừ khi chính quyền địa phương đưa ra Hướng dẫn khác
  • Gia đình nên ở lại khi đã vào bên trong. Gặp mặt người thân sau để tránh tiếp xúc với bức xạ nguy hiểm.
  • Giữ vật nuôi của bạn bên trong nhà.

DUY TRÌ TIẾP CẬN VỚI THÔNG TIN TRÊN ĐÀI

  • Theo dõi bất kỳ phương tiện truyền thông nào có sẵn để biết thông tin chính thức như thời điểm thoát ra an toàn và nơi bạn nên đến.
  • Radio vận hành bằng pin và quay tay sẽ vẫn hoạt động sau một vụ nổ hạt nhân.
  • Điện thoại di động, tin nhắn văn bản, truyền hình và các dịch vụ internet có thể bị gián đoạn hoặc không khả dụng.

 

Bình luận về bài viết này