
Neal Bascomb
Trần Quang Nghĩa dịch
14
KHI AHARONI BIẾT ĐƯỢC CÁI tên trong hồ sơ mua bán đất, anh vội vã hành động. Ngày hôm sau, anh lái xe tới San Fernando. Hôm đó là thứ bảy, và anh đoán rằng Eichmann có thể trở về từ Tucumán vào cuối tuần đó để kỷ niệm ngày cưới. Aharoni lại đổi xe và hiện đang lái chiếc DeSoto màu đen. Đi cùng anh có cô thư ký đại sứ quán. Họ trông giống như bất kỳ cặp đôi nào đi chơi cuối tuần. Đến từ Don Torcuato về phía tây nam, Aharoni đi qua đường hầm kè trên Đường 202. Anh nhìn sang bên phải, nơi có ngôi nhà Klement, trên phố Garibaldi. (Cuối cùng anh đã biết được tên đường từ hồ sơ đất đai.) Một người đàn ông đứng trong sân, đang lấy xuống quần áo đã phơi khô. Aharoni đi chậm lại. Gã đàn ông này ít nhất đã năm mươi tuổi. Y có dáng người gầy và có lẽ cao từ 5,7 đến 5,9 bộ. Y bị hói và có vầng trán cao và trợt. Trước khi Aharoni kịp lấy chiếc máy ảnh trong cặp của mình, gã đàn ông đã thu lấy chiếc áo cuối cùng từ dây treo và trở vô nhà. Nhưng Aharoni biết rõ khuôn mặt. Không có chút nghi ngờ. Anh đã dành hàng giờ để nhìn chằm chằm vào những bức ảnh chụp trong hồ sơ của Eichmann.
“Sao trông anh vui vẻ thế?” Cô thư ký hỏi Aharoni.
Anh đã không nhận ra rằng một nụ cười toe toét đã nở rộng trên khuôn mặt mình và toàn thân anh như bị điện giật. “Không, không có chuyện gì xảy ra cả,” anh nói với một cái nhún vai. “Tôi mới nhớ ra hôm nay là sinh nhật của mẹ tôi. Chúng ta đi ăn mừng thôi.”
Đó là điều tốt nhất anh có thể nghĩ ra, nhưng cô có vẻ tin anh ta. Sau đó, anh ta gửi cho Harel một bức điện dài trong đó có một dòng mã duy nhất: NGƯỜI LÁI XE LÀ ĐEN (Klement chính là Eichmann).
____
Ở Tel Aviv, Harel đã sẵn sàng. Trong vài tuần qua, hàng đêm ông đều ngồi ở nhà, nghe nhạc cổ điển trên đài bán dẫn trong phòng làm việc, vượt qua nhiều thử thách mà họ sẽ phải đối mặt nếu Aharoni xác nhận rằng họ đã có được mục tiêu của mình.
Đầu tiên, nhiệm vụ sẽ diễn ra cách đó gần 9.000 dặm ở một đất nước mà ít đặc vụ của ông quen biết và thậm chí người nói được ngôn ngữ Tây Ban Nha còn ít hơn.
Thứ hai, môi trường sẽ có thái độ thù địch. Chỉ trong hai năm kể từ cuộc thắng cử của vị Tổng thống Arturo Frondizi có đầu óc tự do – thực dụng, chính phủ đã trở nên thân thiện hơn với Israel, mặc dù bên trong hành lang quyền lực— dù là dân sự hay quân sự – vẫn còn nhiều người chống lại Israel và ngườii Do Thái. Harel biết điều này một cách trực tiếp. Năm 1955, ông đã đến Buenos Aires khi Perón bị lật đổ khỏi quyền lực – đến đó để chống lại mối đe dọa mà người Do Thái phải đối mặt trong một vài khu vực. Trong tháng 1 năm 1960 đã bùng nổ những cuộc tấn công vào các giáo đường, câu lạc bộ và nhà ở của người Do Thái, giống như đã từng có ở Châu Âu. Thành phố cũng có một cộng đồng người Đức lớn, bao gồm cả một số cựu thành viên Đức Quốc xã, càng làm tăng thêm mối nguy hiểm.
Thứ ba, ở khoảng cách xa như vậy, các đặc vụ của Harel sẽ không thể liên lạc dễ dàng và nhanh chóng với Tel Aviv. Họ sẽ đi du lịch dưới danh tính giả, hoàn toàn đơn độc và không có vỏ bọc chính thức, không thể kêu gọi sự hỗ trợ của địa phương vì tính bí mật của nhiệm vụ.
Thứ tư, nếu bị phát hiện, họ sẽ phải đối mặt với án tù – hoặc tệ hơn—vì vi phạm chủ quyền của Argentina. Israel sẽ không ngừng gánh chịu các vấn đề chính trị quốc tế, và vết đen đối với Mossad sẽ cản trở các hoạt động của cơ quan ở những nơi khác.
Thứ năm, mục tiêu của họ là một cựu sĩ quan dày dạn kinh nghiệm của một trong những lực lượng an ninh nguy hiểm nhất trong lịch sử. Eichmann có kiến thức sâu rộng về chiến thuật giám sát và tác chiến, đồng thời y biết cách tự vệ. Trong chiến tranh, y rất thận trọng về an ninh của mình và chưa bao giờ di chuyển mà không có vũ khí. Mười lăm năm có thể đã trôi qua kể từ khi hòa bình đã được làm môi giới với Đức, nhưng Eichmann đã dành thời gian đó để lẩn trốn, và đối với y vẫn cần phải cảnh giác.
Những thách thức này càng được nhân lên bởi thực tế là về cơ bản nhiệm vụ bao gồm ba hoạt động được gộp lại thành một. Họ cần bắt sống Eichmann mà không bị phát hiện hay theo dõi. Sau đó, họ sẽ phải giữ y ở một nơi an toàn, tránh bị phát hiện, trong một khoảng thời gian không xác định, cho đến khi kế hoạch cho phần thứ ba của nhiệm vụ rơi vào đúng lúc – đưa lậu Eichmann ra khỏi Argentina một cách hoàn toàn bí mật. Không ai có thể biết ai đã bắt y cho đến khi y ở trong nhà tù của Israel và người của Harel đều an toàn.
Nếu họ thành công trong nhiệm vụ, người đứng đầu Mossad biết rằng phần thưởng sẽ tương xứng với những thách thức và rủi ro đi kèm. Ở cấp độ chuyên môn thuần túy, Mossad sẽ giành được vị trí trong số các cơ quan tình báo hàng đầu trên thế giới. Quan trọng hơn, người Do Thái sẽ thấy công lý được thực thi đối với một trong những kẻ tổ chức hàng đầu của Holocaust. Thế giới sẽ buộc phải nhớ đến dây chuyền chết chóc mà người Do Thái đã phải đối mặt – và nó sẽ được nhắc nhở rằng những điều kinh hoàng như vậy không bao giờ được phép lặp lại.
Với những gì đang bị đe dọa, Harel muốn có mặt ở Buenos Aires để giám sát sứ mệnh. Các quyết định cấp cao có thể cần phải được đưa ra ngay lập tức và các đặc vụ của ông khó có thể chờ đợi các bức điện đến và đi từ Israel. Nhưng Harel không thể tham gia vào hoạt động này. Ông cần một người để tuyển chọn một biệt đội, quản lý các đặc vụ, lên kế hoạch cho các hoạt động chiến thuật và thực hiện chúng đến từng chữ – một người mà ông hoàn toàn tin tưởng.
Rafi Eitan, chỉ huy tác chiến Shin Bet, từng có biệt danh là “Rafi Bốc mùi” trong Chiến tranh giành độc lập của Israel khi ông ta bò qua hệ thống cống rãnh để làm nổ tung hệ thống radar của quân Anh trên Núi Carmel. Sinh ra tại một kibbutz ở Thung lũng Jezreel màu mỡ của Palestine vào năm 1926, Eitan có bản năng thực hiện các nhiệm vụ mạo hiểm. Khi còn nhỏ, ông đã xem một bộ phim về Mata Hari, một nữ điệp viên Hà Lan trong Thế chiến thứ nhất, và nói với mẹ rằng mình muốn trở thành một điệp viên. Nó còn hơn cả một ảo tưởng vu vơ. Năm 12 tuổi, ông gia nhập Haganah, dùng tuổi trẻ của mình để trốn tránh sự nghi ngờ của người Anh. Lúc mười tám tuổi, ông được tuyển dụng bởi Palmach, lực lượng tấn công của tổ chức Haganah, và tham gia cuộc tấn công vào trại giam Atlit nhằm giải phóng hơn hai trăm người nhập cư Do Thái do người Anh giam giữ. Ở tuổi 21, ông được giao quyền chỉ huy một trung đội trinh sát hoạt động phía sau phòng tuyến của kẻ thù.
Vào ngày nhà nước Israel được thành lập vào năm 1948, Eitan bị thương ở chân. Ông lê thân về trại, và khi chân đã bó bột, ông quay trở lại tiểu đoàn của mình để chiến đấu. Trong thời gian còn lại của cuộc chiến, ông ở lại với công việc trinh sát của trung đội mình, chuyên chỉ huy các cuộc tấn công vào ban đêm. Các chỉ huy tình báo quân đội của ông biết rằng ông có thần kinh thép, ứng biến nhanh chóng và giết không chút do dự.
Harel gọi Eitan vào văn phòng của mình. Người ta không thể hình dung ra một cá nhân nào đáng thất vọng hơn đối với bản lý lịch dài về các hoạt động quân sự và bí mật. Người đàn ông ba mươi bốn tuổi chỉ cao hơn Harel trên danh nghĩa, với bộ ngực nở nang và cánh tay cơ bắp của một nông dân. Ông bị cận thị nặng và cặp kính hình dày cộm khiến đôi mắt dường như lồi ra khỏi khuôn mặt. Thường thì ông ta hơi nghiêng đầu, vì tai phải cũng bị điếc, lại một vết thương trong chiến tranh.
Harel kể lại những diễn biến gần đây trong quá trình tìm kiếm Eichmann và công việc của Aharoni trong ba tuần trước đó. “Khả năng người đàn ông này thực sự là Eichmann là bao nhiêu?” Eitan hỏi.
Harel giải thích rằng họ có thể không biết chắc chắn cho đến khi nắm được mục tiêu. Aharoni vẫn đang thu thập bằng chứng. Sau đó, ông tiếp tục mô tả chi tiết những gì họ phải đối mặt khi tiến hành một vụ bắt giữ trên đất Argentina.
“Đó là một hoạt động lớn,” Eitan đồng ý với một nụ cười nhẹ. “Chúng tôi chưa bao giờ làm một vụ như thế.”
“Tôi cử anh làm chỉ huy,” Harel thông báo với ông. “A. Hãy chọn những người phù hợp nhất cho công việc, vì anh biết cần những gì để thực hiện công việc đó. B. Chỉ tình nguyện viên. Hỏi từng người xem họ có sẵn sàng tình nguyện không. Tôi không biết việc này sẽ kết thúc như thế nào, và nếu họ bị bắt, về mặt lý thuyết họ thậm chí có thể phải nhận án chung thân.”
“Không ai trong số họ ngần ngại đâu,” Eitan nói lặng lẽ và tự tin.
____
Vào Chủ Nhật, ngày 20 tháng 3, Aharoni nằm trên tấm nệm phía sau chiếc xe bán tải Ford cũ, dùng ống nhòm nhìn qua một lỗ khoét trên tấm bạt nặng che phía sau xe tải. Người tài xế, một sayan khác do Yossef sắp xếp, đang ở ki-ốt gần đó để ăn bữa sáng muộn. Chiếc xe tải đậu đối diện với ki-ốt, giúp Aharoni có tầm nhìn hoàn hảo ngôi nhà Eichmann, cách đó 160 thước. Mặc dù anh đã đánh điện cho Harel rằng cuộc điều tra của anh sẽ kết thúc nhưng vì anh chắc chắn rằng mình đã xác định được mục tiêu nên Aharoni vẫn còn một nhiệm vụ nữa. Anh ấy muốn một bức ảnh đẹp của Eichmann để xoa dịu mọi nghi ngờ mà Harel có thể có.
Trong khi Aharoni đợi Eichmann ra khỏi nhà, anh đã chụp một loạt ảnh khu vực xung quanh để đội điều hành lên kế hoạch bắt giữ. Anh cũng phác thảo một bản đồ khu vực lân cận.
Vào lúc 15 giờ trưa, Eichmann bất ngờ đi ngang qua chiếc xe tải từ hướng ki-ốt. Rõ ràng là y đã ra ngoài vào sáng sớm hôm đó. Y đi xuống Đường 202, sau đó rẽ trái trước Đường Garibaldi, băng qua một cánh đồng trống để về nhà y. Lần này, Aharoni nhìn rõ Eichmann, người mặc quần dài màu nâu, áo khoác ngoài và cà vạt màu xanh lá cây. Y đeo kính, gần như hói, có chiếc mũi nổi bật và vầng trán rộng và bước đi chậm rãi. Aharoni chắc chắn rằng đây là người mình tìm kiếm.
Thật không may, Eichmann ở quá xa nên Aharoni không thể chụp được bức ảnh đẹp về y.
Trong giờ tiếp theo, Aharoni quan sát Eichmann. Về đến nhà, y nói chuyện với một cậu bé đang chơi ngoài vườn, chỉnh lại áo và quần cho đứa trẻ. Y vẫy đập vào đám ruồi vây quanh cửa trước khi bước vào trong. Sau đó, y bước ra với chiếc quần cotton bình thường, mua một ít bánh mì từ xe ngựa của người thợ làm bánh và lấy một số đồ dùng từ nhà kho. Con trai ông, Dieter về nhà, cả gia đình vào nhà, có lẽ là để ăn trưa. Khi người tài xế xe tải ăn sáng xong trở lại, Aharoni ra hiệu cho anh ta rời đi. Khi trở lại đại sứ quán, Aharoni viết một bản báo cáo dài bằng mực vô hình để chuyển đến Harel bằng túi ngoại giao. Aharoni xem lại mọi thứ mình đã biết chi tiết, sau đó gợi ý rằng giai đoạn hoạt động phải bắt đầu, bởi vì bất kỳ bước bổ sung nào nhằm xác định Eichmann có thể khiến y bỏ trốn.
Tuy nhiên, vào lúc 9:15 đêm hôm đó, Aharoni quay trở lại San Fernando trên chiếc xe jeep màu đỏ bạc, đi cùng với “Avi”, một viên chức đại sứ quán và vợ ông ta. Aharoni đã nhìn thấy các cặp đôi đậu xe trong khu vực vào ban đêm và biết rằng hai người này sẽ không gây chú ý. Mặc bộ quần áo liền quần và mang theo một cặp ống nhòm, Aharoni rời khỏi xe jeep và rón rén về phía ngôi nhà. Mục đích của anh là để nhìn trộm vào bên trong, đề phòng trường hợp đội đặc nhiệm cần phải vào nhà. Đó là một đêm rất tối, hoàn hảo cho nhiệm vụ này, nhưng Aharoni nhanh chóng nhận thấy rằng trong nhà không có đèn sáng. Anh ta quay trở lại chiếc xe jeep chỉ vài phút sau khi rời khỏi nó. Trước sự bàng hoàng của anh, chiếc xe jeep đã biến mất. Có phải anh ấy bị lạc không? anh tự hỏi. Anh ta đi dạo quanh khu vực đó một lúc trước khi nhác thấy chiếc xe jeep cách đó mười lăm thước, nằm trong con mương dọc bên đường. Aharoni khó có thể tin vào mắt mình.
Anh thấy vợ chồng Avi nằm co ro trên mặt đất cạnh chiếc xe jeep. Họ đã cố gắng quay chiếc xe lại mà không bật đèn pha, đề phòng trường hợp họ cần quay trở lại Buenos Aires nhanh chóng. Avi không để ý rằng đường đã được nâng lên và anh đã lùi thẳng xuống mương. Aharoni rất tức giận trước sự vụng về của họ, nhưng sự tức giận của anh không thấm thía gì so với nỗi sợ hãi rằng gia đình Eichmann, ngôi nhà cách đó chưa đầy 150 thước, sẽ phát hiện ra họ. Họ hoặc những hàng xóm của họ sẽ ngay lập tức nhận ra rằng ba người này là người nước ngoài – và có thể là người Israel – và Eichmann sẽ biết chắc chắn rằng mình đang bị theo dõi.
“Đi thôi,” Aharoni nói, suy nghĩ nhanh. Họ không thể bị ai nhìn thấy trong bất kỳ trường hợp nào. Họ chạy xuống phố Avellaneda. May mắn thay, một chiếc xe buýt xuất hiện sau đó vài phút. Lúc 10:45, khi họ đến trạm xe buýt San Fernando, Aharoni gọi cho người duy nhất mà anh có thể nghĩ ra để có thể đưa chiếc xe jeep ra khỏi mương một cách lặng lẽ và nhanh chóng: Yitzhak Vardi. Vardi là một nhà tài chính người Israel, từng làm việc trong lĩnh vực tình báo cho Bộ Ngoại giao Israel nhưng hiện lãnh đạo Tổ chức Kháng cáo Do Thái Thống nhất ở Nam Mỹ và có trụ sở tại Buenos Aires.
Vardi hiểu tầm quan trọng của tình hình. Chưa đầy một giờ sau, anh lái chiếc Chevrolet to lớn đến trạm xe buýt, với một chiếc xe kéo phía sau. Nếu họ để chiếc xe jeep dưới mương, điều đó sẽ rất đáng ngờ— Eichmann thậm chí có thể lần ra bí danh của Aharoni thông qua công ty cho thuê.
Khi họ tới chỗ chiếc xe, ai đó đã ăn trộm một chiếc lốp xe. Trong khi Aharoni chuẩn bị đồ dự phòng, một số người hàng xóm bước ra xem chuyện gì đang xảy ra với ánh đèn và sự náo động. Người lái xe đầu kéo người Argentina đảm bảo với họ rằng không ai bị thương; Đó chỉ là một tai nạn nhỏ. Những người còn lại thì ngậm miệng. Aharoni không nhìn thấy Dieter hay cha cậu giữa đám đông và thở phào nhẹ nhõm hơn một chút. Chỉ trong vài phút, chiếc xe jeep đã quay lại đường. Aharoni cảm ơn Vardi và lái xe đi.
Không nhận được lệnh quay trở lại Israel, Aharoni tiếp tục cuộc điều tra của mình, nhưng anh rút lui khỏi sự giám sát tích cực đối với nhà Eichmann trong hai tuần tiếp theo, hiếm khi lái xe qua. Thay vào đó, anh theo đuổi những con đường khác. Thông qua một liên hệ với cảnh sát Argentina, anh ta đã phát hiện ra hồ sơ về Horst và Nick Eichmann. Cả hai rõ ràng đã bị ảnh hưởng bởi chính trị của ông bố, vì cả hai đều bị nghi ngờ tham gia vào các nhóm chính trị tân Quốc xã và cánh hữu. Điều này khiến họ trở thành mối nguy hiểm cho bất kỳ hoạt động nào của Mossad. Thông qua một thư ký tại đại sứ quán Đức, Aharoni đã có được hồ sơ mà đại sứ quán có về Eichmann. Từ đó ông biết được rằng Bộ Ngoại giao Đức đã biết rõ về sự hiện diện của Eichmann ở Argentina.
Aharoni cũng đã đến Tucumán để kiểm tra công ty CAPRI. Chỉ mất một vài ngày sau, họ phát hiện ra rằng công ty đã đóng cửa vào năm 1953, trái ngược với tin đồn rằng Eichmann vẫn làm việc ở đó. Aharoni bây giờ khá chắc chắn rằng lý do anh nhìn thấy Eichmann ở Buenos Aires trong hầu hết mọi lần đến thăm nhà y trong hai tuần qua không liên quan gì đến dịp kỷ niệm đám cưới bạc của y. Y chắc chắn làm việc trong khu vực, một thông tin chủ chốt.
Vào Chủ nhật, ngày 3 tháng 4, Aharoni quay trở lại San Fernando để thực hiện một nỗ lực nữa nhằm chụp được bức ảnh cận cảnh của Eichmann. Anh mang theo hai tình nguyện viên đi cùng: Roberto, sinh viên đầu tiên mang tấm bưu thiếp đến 4261 Phố Chacabuco, và “Rendi”, một sayan trông đủ tuổi để ra ngoài tìm nhà cho gia đình, đó là câu chuyện ngụy tạo của cậu ấy. Aharoni đã dạy Rendi cách cầm chiếc máy ảnh giấu trong cặp và mở cửa màn trập để chụp ảnh. Anh đỗ chiếc xe bán tải mà anh đang lái bên dưới cây cầu đường sắt, cách nhà 75 thước. Sau đó, anh tiễn Rendi ra ngoài.
Rendi băng qua cánh đồng đến nhà. Qua ống nhòm, Aharoni lo lắng đi theo cậu khi cậu bước tới chỗ Eichmann và con trai y, Dieter, đang làm việc trong sân. Nếu có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Rendi đang gặp nguy hiểm, anh dự định sẽ tự mình xông vào nhà. Hai phút trôi qua. Rồi ba. Rồi bốn. Rendi tiếp tục nói chuyện với hai người lạ như thể họ là bạn cũ.
Cuối cùng, cậu ta bỏ đi về phía nhà hàng xóm của Eichmann, theo chỉ dẫn của Aharoni, để hỏi họ chi phí xây một ngôi nhà trong khu vực là bao nhiêu. Sau đó Rendi quay trở lại ki-ốt, nơi cậu đợi xe buýt quay lại trạm San Fernando. Rendi tự tin rằng mình không bị nghi ngờ khi chụp ảnh. Ba ngày sau, khi nhận được cuộn phim đã được tráng, Aharoni rất vui khi thấy Rendi đã chụp được những bức ảnh lấy nét hoàn hảo về Eichmann và con trai y ở ba hoặc bốn góc độ khác nhau, tất cả đều là cận cảnh. Với những bức ảnh này, các chuyên gia nhận dạng Israel có thể xác nhận điều mà Aharoni đã biết chắc chắn: Eichmann đã được tìm thấy.

Ảnh giám sát ngôi nhà Eichmann trên đường Garibaldi

Chiếc xe bán tải mà Aharoni sử dụng để giám sát

Eichman đứng ngoài nhà của y, chụp bởi máy ảnh giấu trong cặp

Con trai của Dieter, ảnh do máy ảnh giấu trong cặp chụp
Trong khi đó, Aharoni đã nhận được lệnh từ Harel phải quay lại Tel Aviv càng sớm càng tốt để cung cấp báo cáo đầy đủ. Anh đã buộc chặc lại một số đầu lỏng lẻo – trả lại những chiếc xe thuê và chào tạm biệt Yossef – và lên chuyến bay tới Paris vào ngày 8 tháng 4. Anh hài lòng vì mình đã hoàn thành sứ mệnh được giao phó..
____
Yakov Gat chào đón Aharoni tại Sân bay Le Bourget ở Paris, nơi anh có một ngày quá cảnh trước khi nối chuyến đến Tel Aviv. Aharoni cùng Gat trở về căn hộ của anh ở Bờ Phải, nơi anh cho Gat xem những bức ảnh âm bản của Eichmann. Mỗi người kể cho người kia nghe về cuộc điều tra của mình. Họ cảm thấy như thể họ là hai người duy nhất trên thế giới đang nắm giữ một bí mật lớn. Cả hai đều chắc chắn rằng giờ đây không thể tránh khỏi một chiến dịch và cả hai đều muốn tham gia vào đội.
Aaron hứa rằng mình sẽ xin xỏ Harel đưa Gat vào trong chiến dịch khi anh đã báo cáo xong những phát hiện của mình tại Tel Aviv. Dù vậy, anh cũng không chắc chắn rằng chính mình sẽ được đưa vào sứ mệnh này. Nó chắc chắn là vượt quá khả năng chuyên môn của anh, và anh cũng sẽ an phận quay về với công việc thẩm vấn của mình. Cuộc sống là vậy, anh nghĩ, cảm thấy hơi thất vọng.
Ngày hôm sau, Aharoni lên chuyến bay tới Tel Aviv. Anh bị sốc khi nhìn thấy Isser Harel đang đi xuống lối đi trên máy bay. Harel ngồi xuống cạnh Aharoni, tỉnh bơ như thể anh ta là một người hoàn toàn xa lạ. Chỉ sau khi máy bay cất cánh, ông ta mới quay sang Aharoni và hỏi, “Anh có chắc chắn đây là người của chúng ta không?”
Aharoni lấy một bản phim âm bản từ trong túi áo khoác ra, tự hào rằng người đứng đầu Mossad đã tin tưởng vào phán đoán của mình. “Tôi không có chút nghi ngờ nào. Đây là bức ảnh.”
Harel nghiên cứu bức ảnh một lúc rồi nói, “Được rồi. Trong trường hợp đó, chúng ta sẽ bắt được y.”
“Tôi sẽ ở trong biệt đội chứ?”
Aharoni hỏi, giả định điều tồi tệ nhất.
“Anh lại nghĩ chuyện gì nữa đây? Chúng tôi cần anh vì điều đó.”
Aharoni tựa đầu vào lưng ghế, cảm thấy hồ hởi.