
Mancio Ito
Trần Thanh Ái
Thế kỷ XVI được đánh dấu bằng việc nhiều cường quốc châu Âu lần lượt đặt chân lên vùng Viễn Đông, và tài liệu ghi chép về những cuộc tiếp xúc ấy rất phong phú. Nhưng theo hướng ngược lại, hiếm có những cư dân cùng Viễn Đông đặt chân đến châu Âu, một phần vì trình độ đi biển của họ còn rất hạn chế, và nhất là vì họ gần như không có khái niệm gì về vùng đất xa xôi ấy. Nếu mãi đến năm 1684 mới có người Xiêm đầu tiên đến Pháp để thỏa thuận việc bang giao (Lach D. F. 1993, tr. 253), và đến năm 1787 hoàng tử Cảnh của Việt Nam đặt chân lên đất Pháp cùng với Bá Đa Lộc trong chuyến đi cầu viện, còn người Nhật thì ngay từ nửa sau thế kỷ XVI đã đi đến nhiều nơi trên thế giới, nhất là châu Âu (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Anh…), với nhiều mục đích khác nhau. Việc tìm hiểu những sự kiện xung quanh các chuyến đi ấy của người Nhật có thể giúp chúng ta bổ sung vào bức tranh tổng quát về thái độ ứng xử của họ trong sự tiếp xúc với nền văn minh phương Tây xa lạ, là phần ít được chú ý của những bước phát triển thần kỳ mà họ đã làm được trong các thế kỷ tiếp theo.
- Chuyến đi đầu tiên của người Nhật đến châu Âu
Ngày 23 tháng 12 năm 1871, sứ thần Iwakura 岩倉使節団 lên đường sang phương Tây để thương thảo về việc gia hạn các hiệp ước đã ký kết với các cường quốc châu Âu. Năm 1873, khi đang ở Venice, ông đã phát hiện ra một số tài liệu ghi chép về đoàn sứ giả Nhật đầu tiên trên đất Ý, từ 1582 đến 1592, và đoàn thứ hai từ 1613 đến 1620. Phát hiện này này khiến ông vô cùng ngạc nhiên, đến độ ông nghi ngờ về tính xác thực của tài liệu: ông cũng có nghe loáng thoáng về đoàn đi năm 1582, nhưng ông hoàn toàn không biết gì về đoàn đi sứ 1613-1620. Sự kiện này đã gây chấn động trong dư luận ở Nhật, vì sau hơn 200 năm “tỏa quốc”, họ không còn chút manh mối gì về các đoàn trên. Tiếp theo đó là hàng loạt phát hiện mới cả ở châu Âu lẫn Nhật Bản. Guglielmo Berchet người hướng dẫn sứ đoàn của Iwakura, đã lao vào tìm tòi trong các trung tâm lưu trữ hồ sơ ở nước Ý, và đã công bố 13 tài liệu liên quan đến đoàn do Date Masamune 伊達政宗 phái đi. Năm 1904, hoàng thân Boncompagni-Ludovisi đã công bố thêm 34 tài liệu mới (Nakamura H. 1940, tr.445-446). Ngày nay, tất cả những tài liệu đó đã được công bố trong bộ Dai Nippon Shiryō [大日本史料 Đại Nhật Bản sử liệu].
Thật ra, đó chưa phải là những người Nhật đến châu Âu sớm nhất: đoàn sứ giả năm 1582-1592 không phải là những người Nhật đầu tiên xuất hiện ở châu Âu, mà trước đó mấy mươi năm đã có người Nhật đặt chân đến vùng đất xa xôi này, mà tài liệu ở châu Âu còn ghi lại. Mười năm sau khi người Bồ Đào Nha xuất hiện trên hòn đảo Tanegashima (năm 1543) thì tháng 9 năm 1553, một giáo dân người Nhật tên là Bernard(1), đã đặt chân đến Lisbon cùng với sư huynh André Fernandez. Năm 1554 Bernard gia nhập dòng Tên, và năm 1556 đã đi thăm Rome, ở đó ông đã gặp Ignacio de Loyola, người sáng lập ra dòng Tên. Sau đó ông trở về Lisbon và qua đời ở Coimbra năm 1557 (Costa Oliveira e. J. P., 2002, tr. 69, n.13).
Bernard là một samurai trẻ, là một trong số 100 giáo dân tân tòng đầu tiên ở Nhật do Francis Xavier rửa tội. Bernard sau đó đã trở thành bạn đồng hành của Xavier trong suốt cuộc hành trình trên đất Nhật và cả trong chuyến trở lại Ấn Độ của ông (Lidin O. G. 2004, tr. 168). Chuyến đi sang châu Âu của Bernard nằm trong kế hoạch của Xavier là muốn gửi người Nhật sang đó tận mắt chứng kiến cái nôi của đạo Thiên Chúa với các nhà thờ uy nghiêm, những cung điện tráng lệ, rồi về kể lại cho dân Nhật nghe, để đánh tan những nghi kị của dân Nhật cho rằng các nhà truyền giáo đến nước họ là để tìm cơ hội làm giàu như nhiều nhà phiêu lưu phương Tây khác thời bấy giờ.
Trước khi chia tay Bernard ở Goa (Ấn Độ) để trở lại Trung Hoa, Francis Xavier đã viết một thư đề ngày 10 tháng 4 năm 1552 gửi cha Simão Rodrigues là lãnh đạo một chủng viện ở Bồ Đào Nha, để xin tu sĩ này giúp đỡ ông thực hiện dự định của mình về việc gửi người Nhật đi châu Âu:
“Matthew và Bernard, là hai người Nhật đã theo tôi đến Ấn Độ, với nguyện ước được thăm viếng Bồ Đào Nha và Ý Đại Lợi, và nhất là La Mã, để nhìn thấy đạo Thiên Chúa trong tất cả sự uy nghiêm của nó, để rồi trở về xứ sở kể lại cho đồng bào của họ những gì họ đã trông thấy. Tôi khẩn khoản xin cha nhận hai người Nhật này sao cho họ có thể học được thật nhiều điều tuyệt vời về các nhà thờ, các trường đại học và những điều thần kỳ khác của châu Âu, để họ kể lại với đồng bào họ khi trở về” (Coleridge H. J. 1872, tr. 494).
Thế nhưng sau đó Matthew, còn được gọi là Matthew of Yamaguchi, ngã bệnh và chết tại Goa, chỉ còn Bernard lên đường đi châu Âu. Rời Goa tháng 5 năm 1552, Bernard đặt chân lên Lisbon tháng 9 năm 1552 (Lach D. F. 1965, tr. 672), rồi được đưa vào học tại chủng viện Coimbra. Nhưng chẳng bao lâu sau lòng ngưỡng mộ và tình yêu Thiên Chúa lớn dần đến độ mà ông đã coi thường mọi vật chất ở trần thế và quên đi tổ quốc dưới trần, để chỉ còn tâm nguyện sống vì Chúa trong cuộc đời tôn giáo; và lòng nhiệt thành của ước nguyện này đã khiến ông thốt lên: “Nếu con không được nhận vào Dòng Tên, con sẽ cố gắng gia nhập vào một dòng khác: con đã quyết tâm như thế” (Cros L. J. M. 1900, tr. 169). Và nguyện vọng của ông đã được chấp thuận.
Ngày 17 tháng 7 năm 1554 ông lên đường đi Rome; vì sức khỏe kém, nên ông phải dừng chân 2 lần trên đất Tây Ban Nha, ở Salamanca và Segovia. Rồi thì ông cũng đã đến được Rome vào ngày 5 hoặc 6 tháng 1 năm 1555, ở đó ông đã diện kiến người sáng lập dòng Tên là Loyola (Lach D. F. 1965, tr. 673). Ngày 23 tháng 10 năm 1555 ông lên đường đi Genoa và ngày 28 tháng 11 đáp thuyền trở về Tây Ban Nha, rồi đi đường bộ về Bồ Đào Nha. Sau khi về đến chủng viện Coimbra ít lâu thì ông qua đời (1557). Thế là dự định Bernard đi Châu Âu để trở về Nhật Bản tường thuật những điều tai nghe mắt thấy đã không thành, nhưng bù lại, lòng mộ đạo của Bernard dường như đã hé mở cho các nhà truyền giáo một tương lai tươi sáng của việc truyền bá đức tin ở phương Đông (Lach D. F. 1965, tr. 673).
Ngoài việc gửi Bernard sang châu Âu, thậm chí Xavier còn có ý định tổ chức cho hai nhà sư người Nhật sang Bồ Đào Nha một chuyến, như là đại diện của giới nho gia Nhật Bản, nhưng họ từ chối vì không muốn xa quê hương trong một thời gian dài (Coleridge L. J. M., 1900, tr. 494).
- Chuyến đi châu Âu năm 1582-1590
Chuyến đi này được tổ chức theo sáng kiến của nhà truyền giáo Valignano Alessandro Valignano với sự hỗ trợ của ba lãnh chúa đã cải đạo vùng Kyūshū: Ōmura Sumitada (1532-1587), Ōtomo Yoshishige (1530-1587) và Arima Harunobu (1567-1612). Phái đoàn được tài liệu Nhật gọi là Tenshō shōnen shisetsu 天正少年使節 (Thiên Chính thiếu niên sứ tiết), gồm bốn thiếu niên người Nhật tên là Itō Sukemasu Mancio (c. 1570-1612), Chijiwa Seizaemon Miguel (1569-1633), Nakaura Julião (1567-1633) và Hara Martinho (1569-1639) (Pelliccia C. 2022, tr. 44-45).
Các thành viên trong đoàn được Valignano tuyển chọn từ nhiều thiếu niên trong các gia đình quý tộc: Itō Sukemasu Mancio là anh em họ của một lãnh chúa (daimyō) vùng Hyūga và là người thân tín của Otomo Sorin mà tài liệu của các nhà truyền giáo gọi là Vua lãnh địa Bungo 豊後国 (Phong Hậu quốc). Miguel Chijiwa là anh em họ của các lãnh chúa Arima Harunobu và Ōmura Sumitada. Hara Martinho thuộc gia tộc lãnh chúa Ōmura, còn Nakaura Julião là con trai của lãnh chúa vùng Nakaura thuộc tỉnh Hizen. Phái đoàn được linh mục Diogo de Mesquita vừa làm người hướng dẫn, người bảo vệ và người phiên dịch. Ngoài ra còn có linh mục Nuno Rodrigues tháp tùng đi dự hội nghị Dòng Tên, sư huynh người Nhật Jorge de Loyola và hai tiểu đồng người Nhật tên là Agostinho of Ōmura và Constantino Dourado.
Valignano cho rằng tuổi trẻ của họ sẽ giúp họ vượt qua những khắc nghiệt của chuyến đi xa xôi này, cũng như sẽ làm cho các đấng bề trên của dòng Tên chấp nhận họ dễ dàng hơn. Họ sẽ gây được ấn tượng mạnh hơn là người lớn, và sẽ sống lâu hơn để kể lại cho đồng bào họ về chuyến đi châu Âu. Dòng dõi quý tộc của họ cũng sẽ làm cho chuyến đi thêm long trọng ở cả châu Âu và Nhật Bản, và sẽ khiến người châu Âu hỗ trợ nhiều hơn trong công cuộc truyền giáo ở Nhật (Brown J. C. 1994, tr. 875). Như Valignano Alessandro Valignano đã viết trong Huấn thị ngày 12 tháng 12 năm 1583 cho linh mục Nuno Rodrigues, chuyến đi nhằm các mục đích như sau:
“Mục đích của chuyến đi Bồ Đào Nha và La Mã của các thiếu niên này nhằm hai điều. Điều thứ nhất là tìm ra phương thuốc cần thiết cho nước Nhật cả về phần đời lẫn phần đạo. Điều thứ hai là làm cho người Nhật hiểu sự vinh quang và vĩ đại của đạo Thiên Chúa, và sự uy nghi của các vương tôn lãnh chúa theo đạo này, và sự vĩ đại và giàu sang của các vương quốc và thành thị của chúng ta, và vinh dự và quyền bính mà tôn giáo của chúng ta đang có được. Vì thế, những thiếu niên Nhật này với tư cách là các nhân chứng mục thị và có đức hạnh, khi trở về Nhật họ sẽ kể lại những gì họ đã nhìn thấy tận mắt, và như thế sẽ mang lại cho nước Nhật sự khả tín và sức thuyết phục thích hợp với công việc của chúng ta” (Abranches Pinto J. A. & Bernard H. 1943, tr. 395).
Ngày 20 tháng 2 năm 1582 (Tenshō 天正 Thiên Chính, năm thứ 10) họ rời Nagasaki trên chiếc thuyền tròn (carrack) của Bồ Đào Nha dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Inácio de Lima, và đến Bồ Đào Nha vào ngày 10 tháng 8 năm 1584, trong sự chào đón nồng nhiệt của giới quý tộc nước chủ nhà. Ngày 5 tháng 9 họ lên đường đi Ý. Trạm dừng chân đầu tiên ở Evora, một thành phố La Mã cổ đại trên đất Bồ Đào Nha, ở đó họ được đón tiếp long trọng như những chức sắc cao cấp của giáo hội hay chính quyền. Sau đó họ đi Tây Ban Nha: ngày 14 tháng 11 họ được vua Philip II đón tiếp trọng thể tại triều đình tại Madrid. Sau khi đón mừng năm mới, họ đến hải cảng Alicante để lên đường đi Ý, thì tình cờ họ trông thấy một đội thuyền của hạm đội lừng danh Armada của Tây Ban Nha. Sau đó họ lên đường: ngày 1 tháng 3 năm 1585, họ đến Leghorn (Livorno), rồi đi Pisa và Florence. Chiều ngày 22 tháng 3 họ đặt chân đến Thánh địa Rome, và ngay ngày hôm sau, họ được mời dự kháng cuộc họp công khai của Hội đồng Giáo chủ (public consistory). Ngày 10 tháng 4 năm 1585, Giáo hoàng Gregory qua đời, và họ vinh dự được chứng kiến lễ an táng cũng như cuộc bầu cử người kế vị và lễ đăng quang của tân Giáo hoàng Sixtus V với tư cách khách mời danh dự. Ngày 26 tháng 4, trong cuộc diện kiến với Tân Giáo hoàng, Itō Sukemasu Mancio đã đọc một diễn văn trong đó có đề đạt nguyện vọng xin giáo hội giúp đỡ để phát triển hội truyền giáo Nhật Bản, cũng như để tổ chức nhiều chủng viện. Sau đó, họ được Giáo hoàng trao huân chương Chiếc Cựa Vàng (Order of the Golden Spur). Ngày 3 tháng 6 năm 1585 họ rời Rome để bắt đầu cuộc hành trình trở về Nhật theo lộ trình Bologna, Venice, Vicenza, Verona, Milan và Genoa. Ngày 8 tháng 8 năm 1585 họ rời Genoa lên đường trở về Lisbon. Đến ngày 8 tháng 4 năm 1586 họ rời Bồ Đào Nha và về đến Nhật ngày 21 tháng 7 năm 1590 sau khi ghé qua Goa(2).
![]() |
![]() |
| Sứ đoàn Nhật Bản yết kiến Giáo hoàng Gregory XIII (tranh vẽ khuyết danh cuối TK XVI – đầu TK 17, Public Domain) | Báo Đức Newe Zeyttung đưa tin sứ đoàn Nhật Bản đến Milan 1586. Hình từ trái qua phải: Julião Nakaura, linh mục Mesquita, Mancio Ito. Dưới: Martinão Hara, Miguel Chijiwa (Lưu trữ tại Đại học Kyōto) |
Trong suốt cuộc hành trình, họ đã gây tiếng vang lớn trong giới lãnh đạo tôn giáo, chính quyền và dân sự của nhiều nước châu Âu. Họ được tiếp xúc với sứ thần của nhiều nước, và được nhiều lời mời thăm viếng. Họ trở thành chủ đề bàn tán, thảo luận của nhiều hội thư tín. Rất nhiều sách báo bằng tiếng La-tinh, Pháp, Ý, Đức đã viết về chuyến đi của họ. Trên đường trở về Nhật, họ dừng chân lại Goa, và ngày 4 tháng 6 năm 1587 Hara Martino đã đọc một diễn văn bằng tiếng La-tinh được đánh giá là tuyệt vời tại chủng viện Saint Paul, có sự chứng kiến của Valignano (Iwao Seiichi & alii 1981, tr. 64).

Hành trình từ Nagasaki (tháng 2 năm 1582) đến Lisbon (tháng 8 năm 1584), và từ Lisbon về Nhật (tháng 4 năm 1586 – tháng 7 năm 1590). Nguồn: Massarella D. 2012.
- Chuyến đi xuyên nhiều đại dương năm 1587-1591
Nếu hai chuyến đi trên gắn liền với hoạt động của các nhà truyền giáo dòng Tên, thì chuyến đi này hoàn toàn mang tính chất cá nhân trong hoạt động nghề nghiệp. Tài liệu hàng hải nước Anh còn ghi lại dấu vết của hai thủy thủ người Nhật đầu tiên tham gia vào các chuyến vượt Thái Bình dương, Ấn Độ dương và Đại Tây dương trên các con thuyền châu Âu. Trong nhật ký hải hành của Francis Prett, một quý tộc phục vụ trên chuyến đi vòng quanh thế giới từ 1586 đến năm 1588 của đội tàu gồm 3 chiếc do Thomas Candish(3) chỉ huy (Hakluyt R. 1904, tr. 290-348), có nhắc đến sự hiện diện của hai thủy thủ người Nhật tên là Christopher và Cosmus(3). Ban đầu hai thủy thủ này làm việc trên chiếc thuyền Santa Ana của Tây Ban Nha chở nhiều hàng hóa đắt tiền từ Philippines vượt Thái Bình Dương về Acapulco (Mexico, lúc ấy thuộc Tây Ban Nha). Ngày 6 tháng 11 năm 1587, thuyền này bị đoàn tàu của Thomas Candish tấn công ở bờ biển California (Mũi San Lucas), và cướp sạch hàng hóa. Sau đó hai thủy thủ người Nhật được chỉ huy người Anh tuyển dụng làm việc trên tàu của mình để chuẩn bị cho các chuyến hàng hải sắp tới, vì họ biết đọc và viết tiếng Nhật (Hakluyt R. 1904, tr. 325). Sau đó họ băng qua Thái Bình dương và Ấn Độ dương để về đến Anh ngày 9 tháng 9 năm 1588. Trong 3 năm từ khi trở về Anh đến chuyến đi thứ hai của Candish (1591), không có tài liệu nào cho biết Christopher và Cosmus đã làm gì, chỉ biết là bến đậu của họ ở hải cảng Plimmouth, tức Plymouth (Anh) ngày nay. Tuy nhiên sự xuất hiện của họ trên nước Anh là một bước ngoặc quan trọng trong nhận thức của người Anh về đất nước Nhật. Đối với người Anh lúc bấy giờ, Nhật Bản gần như chỉ là một xứ sở trong huyền thoại và quá xa xôi, khó có thể đặt chân đến, vì từ trước đến giờ chỉ có một tài liệu duy nhất nói về xứ này(4). Vì thế, sự xuất hiện của Christopher và Cosmus ở Plymouth đã khiến cho nước Nhật trở nên gần gũi và sống động hơn đối với người Anh. Trong bức thư gửi Sir Francis Walsingham đăng ngay trong những trang đầu của bộ sách đồ sộ Principall Navigations, Voyages and Discoveries of the English Nation xuất bản năm 1589, R. Hakuyt đã nói về hai thủy thủ người Nhật này: “Không lạ lùng lắm sao khi những người sinh ra ở Nhật và Philippines lại đang có mặt ở đây, làm quen với khí hậu của chúng ta, nói bằng tiếng nói của chúng ta, và cung cấp cho chúng ta thông tin về quê hương phương Đông của họ” (Hakluyt R. 1589, tr. *3). Cũng trong năm 1589, trong bức thư gửi Thomas Candish đăng ở đầu bản dịch tiếng Anh của sách của Mendoza, quyển The Historie of the Great and Mightie Kingdome of China, and the Situation Thereof, dịch giả R. Parke đã nhắc đến hai thủy thủ Nhật và ba thủy thủ Philippines như là những người phiên dịch cho các chuyến hải hành sắp tới của người Anh đến vùng Viễn Đông (Mendoza J. G. 1853, tr. 2).
Tài liệu của R. Hakluyt không nhắc đến chuyến đi lần thứ hai của Candish, nhưng trong nhật ký hải hành của một thành viên trong chuyến đi này tên là Antonie Knivet cho biết hai thủy thủ Nhật này có tham gia vào chuyến hải hành này (Purchas S. 1906, tr. 177-289). Tháng 8 năm 1591, đoàn thuyền gồm 5 chiếc rời nước Anh lên đường hướng về Brazil. Sau khi đã cướp sạch thành phố Santos, họ bị người Bồ Đào Nha đánh tan tành tại Vitoria (ngày nay là thủ phủ của bang Espirito Santo của Brazil), khiến Candish cùng chiếc thuyền còn lại tên là Lester phải băng Đại Tây dương hướng về đảo Saint Helena. Sau đó không còn ai biết tin gì về con thuyền này, và có vẻ như là hai người Nhật cũng mất tích theo thuyền.
Những ghi chép trên đây cho thấy người Nhật hội nhập rất sớm vào nhiều hoạt động quốc tế của người phương Tây: chỉ sau vài thập niên tiếp xúc với người phương Tây đầu tiên đến nước Nhật (1543), họ đã có mặt nhiều nơi trên trên thế giới. Nếu đến năm 1600 mới có người Anh đầu tiên đặt chân lên đất Nhật, thì ngay từ năm 1588, đã có hai người Nhật đặt chân lên nước Anh khi làm việc cho đội thuyền vượt đại dương của nước này.
- Chuyến đi Mexico năm 1610
Ngày 30 tháng 9 năm 1609, chiếc thuyền vận tải của Tây Ban Nha San Francisco gồm thủy thủ đoàn 373 người bị chìm ngoài khơi bờ biển Chiba nước Nhật. Có 317 người được cứu sống, trong số đó có thuyền trưởng Rodrigo de Vivero y Aberrucia, là cựu toàn quyền Philippines. Nhờ vậy mà ông có dịp được gặp Mạc chủ Tokugawa Hidetada và Tokugawa Ieyasu. Đây cũng là cơ hội quý báu đối với nhà cầm quyền Mạc phủ: năm 1608, Ieyasu đã phái W. Adams đi Philippines để thương thuyết về việc trao đổi thương mại, nhưng không thành công. Thế là trong thời gian 9 tháng Rodrigo de Vivero ở Nhật, hai bên đã thảo luận về thỏa ước đầu tiên, được ký kết vào ngày 29 tháng 11 năm 1609. Theo thỏa ước này, người Tây Ban Nha sẽ đặt một thương điếm ở một nơi trên bờ biển phía Đông Nhật Bản, và tàu thuyền của họ sẽ được phép cập bến nước Nhật khi cần, còn người Nhật sẽ được các chuyên gia ở Mexico huấn luyện về kỹ thuật khai thác khoáng sản. Trong các cuộc gặp đó, một sư huynh dòng Phan Sinh (Franciscan) tên là Luis Sotelo trong vai trò phiên dịch, là chất xúc tác quan trọng cho việc thiết lập ban giao Nhật và Tây Ban Nha. (Mathes W. M. 1990, tr. 9).
Để đưa những người đắm thuyền Tây Ban Nha trở về Mexico, lúc ấy là lãnh địa của Tây Ban Nha, Ieyasu đã cho họ mượn chiếc thuyền San Buena Ventura 120 tấn mà thuyền trưởng William Adams đang định cư ở Nhật, đã đóng theo lệnh của ông. Ngày 13 tháng 11 năm 1610, Rodrigo de Vivero về đến Mexico trên chiếc thuyền ấy, cùng với phái đoàn 22 người Nhật do Tanaka Shōsuke dẫn đầu và linh mục dòng Phan Sinh tên là Alonso Muños. Khi đến Mexico, phái đoàn đi Mexico City để gặp vị phó vương Luis de Velasco. Họ nhận được những lời cảm tạ nồng hậu vì đã đối xử rất tốt với những người đắm thuyền. Tuy nhiên, vị phó vương cho tịch thu chiếc San Buena Ventura (Lockley T. 2019, tr. 131) có lẽ vì sợ rằng người Nhật sẽ phá thế độc quyền hàng hải xuyên Thái Bình dương của Mexico. Phái đoàn rời Mexico ngày 22 tháng 3 năm 1611 cùng với Sebastian Vizcaino với nhiệm vụ hoàn trả tiền cho Mạc chủ và cũng để thăm dò các mỏ vàng và bạc ở bờ biển phía Đông của Nhật (Tremml-Werner B. 2015, tr. 206-207).
- Chuyến đi châu Âu năm 1613
Nếu hai chuyến đi đầu tiên nhằm mục đích tôn giáo, và chuyến đi năm 1610 chủ yếu là ngoại giao, thì chuyến đi năm 1613 mang nhiều sứ mệnh, vừa kinh tế, chính trị, ngoại giao và tôn giáo. Một điểm khác biệt nữa là chuyến đi châu Âu lần này có lộ trình khác với hai chuyến đi đầu tiên: họ không theo con đường qua eo biển Malacca để vòng qua mũi Hảo Vọng, mà đi về hướng Đông để đến Mexico, là đối tác mà người Nhật đang nhắm tới để học hỏi kỹ thuật khai thác khoáng sản của họ, rồi sau đó vượt Đại Tây dương. Lý do là lần này các giáo sĩ dòng Phan Sinh đứng ra làm trung gian để ký kết thỏa ước mậu dịch, một dòng truyền giáo được nhà vua Tây Ban Nha bảo trợ, vì thế họ không được sử dụng con đường hàng hải mà Bồ Đào Nha đã được chỉ định trong thánh lệnh Inter Caetera do Giáo Hoàng Alexander VI ban hành vào ngày 4 tháng 5 năm 1493 và thỏa thuận trong hiệp định Tordesillas 1494 do hai bên ký kết.
Theo lệnh của Mạc chủ, lãnh chúa Date Masamune được giao nhiệm vụ tổ chức chuyến đi. Phái đoàn được Hasekura Tsunenaga dẫn đầu lên đường ngày 28 tháng 10 năm 1613 trên con thuyền San Juan Bautista do người Nhật đóng theo kiểu dáng châu Âu. Phái đoàn gồm khoảng 180 người, trong đó có 10 samurai của Mạc chủ, 12 samurai vùng Sendai của lãnh chúa Date Masamune, 120 thương nhân và thủy thủ, và khoảng 40 người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Cũng như đoàn năm 1610, lần này họ cũng băng qua Thái Bình dương và đến Acapulco ngày 25 tháng 1 năm 1614. Sau đó đoàn chia làm hai nhóm, một nhóm đi đường bộ đến Veracruz để lên thuyền San Jose ngày 10 tháng 6 vượt Đại Tây dương sang Tây Ban Nha: họ đến Sanlucar de Barrameda ngày 5 tháng 10, đến Sevilla ngày 23, và đến Madrid ngày 20 tháng 12 năm 1614.
Mục đích của chuyến đi này là đến Madrid thương lượng với vua Tây Ban Nha về các việc liên quan đến mậu dịch giữa hai bên, trong đó có việc học tập kinh nghiệm hàng hải, và đến Rome yết kiến Giáo hoàng để kêu gọi sự phát triển đạo Thiên Chúa trong lãnh địa của Date Masamune. Trong thư đề ngày 22 tháng 10 năm 1613 gửi lãnh đạo thành phố Sevilla, Date Masamune viết:
“Từ lâu chúng tôi đã nghe nói về việc nhiều tàu thuyền của nước ông đến buôn bán ở vùng Ấn Độ dương và biển phía Nam, do nhiều hoa tiêu rất giỏi trong nghệ thuật hàng hải và cũng rất rành về nhiều vùng biển khác. Vì muốn biết chúng tôi có thể đi thông suốt giữa các đại dương này với biển Tây Ban Nha hay không, và hải cảng nào có thể cập thuyền, và khí hậu như thế nào, nên chúng tôi sẽ rất vui mừng nếu được gặp các hoa tiêu để họ có thể truyền đạt cho chúng tôi những kinh nghiệm và kiến thức của họ, và để cho cuộc hải hành này khả dĩ, chúng tôi có thể phái tàu thuyền của chúng tôi thực hiện hàng năm, điều này có thể cho phép chúng tôi nhiều cơ hội biểu lộ thiện chí của chúng tôi với các ông” (Meriwether C. 1893, tr. 71-72)
Phái đoàn được yết kiến vua Tây Ban Nha Philip III ngày 30 tháng 1 năm 1615 ở Madrid, và dâng bức thư của lãnh chúa Date Masamune gửi vua Tây Ban Nha. Bức thư đề ngày 6 tháng 10 năm 1613, có đoạn viết:
“Tôi nghe từ miệng Sotelo một số điều về đạo Thiên Chúa, và tin tưởng mãnh liệt rằng đó là một tôn giáo rất tốt. Nhưng có một trở ngại lớn cho việc tôi trở thành giáo dân. Tuy nhiên tôi ước là sẽ làm cho tất cả thần dân của tôi trở thành người theo đạo Thiên Chúa, và để làm được điều đó, tôi mong là Ngài gửi một số giáo sĩ dòng Thánh Francis (Phan Sinh). Tôi sẽ đối xử với họ thật tử tế.” (Meriwether C. 1893, tr. 73).

Thư của Date Masamune gửi vua Philipp III (Lưu trữ tại Tòa Thị chính Seville)
Trong thư gửi nhà vua Tây Ban Nha đọc trong cuộc yết kiến, viên trưởng đoàn Hasekura Tsunenaga có đoạn như sau: “Hai nguyên nhân sau đây khiến lãnh chúa của hạ thần cử hạ thần đến đây, thứ nhất là vì đã biết sự thật là đạo Thiên Chúa có thể cứu rỗi linh hồn và dạy cai trị đất nước như thế nào, Ngài đã quyết định cử hạ thần đến yết kiến Đức Giáo Hoàng ở Rome và xin Thánh Cha ban cho hạ thần những huấn thị đặc biệt vì quyền lợi của các nhà truyền giáo hiện đang ở Nhật, họ đang nhiệt tình truyền giảng đức tin. […] Thứ hai là, vì đức tính độ lượng của Bệ Hạ, hạ thần đã được gửi đến đây thúc đẩy việc ký kết một hiệp ước hữu nghị vĩnh viễn.” (Meriwether C. 1893, tr. 79-80)
Tháng 8 năm 1615 họ được Tòa thánh Vatican chấp thuận đến thăm viếng, và ngày 22 tháng 8 họ lên đường. Trên đường đi họ gặp thời tiết xấu nên đã dừng chân lại thành phố biển Saint-Tropez của Pháp vài ngày. Sự xuất hiện của họ đã gây ngạc nhiên thú vị cho người dân trong vùng. Ngày 25 tháng 10 họ đến Rome. Ngày 3 tháng 11 năm 1615, họ đến tiếp kiến Giáo Hoàng và trao thư của lãnh chúa Date Masamune. Trong thư gửi Giáo hoàng Paul V đề ngày 6 tháng 10 năm 1613, Date Masamune đã viết:
“Nếu cá nhân con bị cản trở [việc vào đạo] vào lúc này, con muốn rằng ít nhất các thần dân của con có thể trở thành tín đồ Thiên Chúa. Với mục tiêu trước mắt này, con khẩn cầu Đức Thánh Cha gửi cho chúng con một số tu sĩ thuộc dòng Thánh Francis, thường được gọi là “Osservanza”, và con cam kết là sẽ chứa chấp và bảo vệ họ, để họ được các thần dân của con kính yêu” (Meriwether C. 1893, tr. 68-69)
Sotelo cũng đã ghi lại những sự kiện xảy ra xung quanh cuộc yết kiến này trong quyển De ecclesiae Iaponicae statu relatio được xuất bản năm 1634, sau khi ông qua đời: “Khi chúng tôi đến đó vào năm 1615, chẳng những chúng tôi được Đức Thánh Cha, cùng với Hồng Y Đoàn, các giám mục và quý tộc đón tiếp, và cả nhân dân thành Rome đều hoan hỉ, chúng tôi và ba người khác (những người mà các tín đồ Thiên Chúa giáo Nhật Bản đã chỉ định đến báo cáo tình hình của họ với Giáo hội) còn được lắng nghe, và đúng như đã kỳ vọng, thông tin được loan truyền đi nhanh chóng” (Soteli L. 1634, tr. 3).
Sự có mặt của sứ đoàn người Nhật ở châu Âu đã gây ra một làn sóng ngạc nhiên thú vị: qua các thư từ, bản thảo còn lưu trữ ở nhiều thư viện châu Âu người ta biết rằng không chỉ dưới mắt người dân tỉnh lẻ, mà còn đối với nhiều người khắp châu Âu, thật là một cảnh tượng rất lạ mắt khi thấy đoàn người Nhật, một dân tộc mà họ chưa từng biết chút gì (Nakamura H. 1940, tr. 450).
Đầu tháng 1 năm 1616 phái đoàn rời Rome trở về Tây Ban Nha, sau khi đã gây được ấn tượng tốt đẹp với Giáo hoàng và các bậc chức sắc Thiên Chúa giáo ở Rome. Tuy nhiên, tình thế của họ ở Tây Ban Nha thì không sáng sủa như vậy: vua Philip III từ chối ký hiệp ước thương mại, vì phái đoàn không phải là sứ giả của Mạc phủ Tokugawa, mà tháng 4 năm 1614 vừa qua đã ban hành sắc lệnh cấm đạo Thiên Chúa trên toàn lãnh thổ Nhật Bản; triều đình Madrid thì xầm xì về phái đoàn, từ tham vọng của L. Sotelo đến mục đích thật sự của chuyến đi (Lee H. C. 2012, tr. 192). Trong khi ấy tin tức về các cuộc bắt bớ ở Nhật dồn dập bay sang, nên mãi đến tháng 3 năm 1619 phái đoàn mới về đến Mexico, và 26 tháng 8 năm 1620 thuyền mới cập bến cảng Tsuki-no-Ura, ngày nay là Ishinomaki Nhật Bản (Nagaoka H. 1905, tr 302). Khi họ về đến Nhật thì tình hình trong nước đã thay đổi hoàn toàn, sắp sửa bước vào một thời kỳ đen tối, đó là giai đoạn tỏa quốc (sakoku) hơn 200 năm.
![]() |
![]() |
| Bản thảo thư của vua Philip III gửi Date Masamune (1616) lưu trữ tại Thư khố Seville. | Lộ trình của sứ đoàn Nhật Bản đi Châu Âu (1613 – 1620) |
Kết luận
Tuy rằng các chuyến đi phương Tây nói trên không để lại dấu ấn đặc biệt trong lịch sử nước Nhật đầu thế kỷ XVII trước thời tỏa quốc, nhưng qua các tài liệu ghi chép được, chúng ta cũng có thể khám phá ra nhiều điều về tính năng động của người Nhật. Họ đã tỏ ra rất nhạy bén đối với kỹ thuật phương Tây được sử dụng trong ngành hàng hải hoặc khai thác khoáng sản, cũng như nhanh chóng nhận ra những lợi ích trong việc giao thương với phương Tây, hoặc trong việc hội nhập với nền văn minh mới lạ, nhất là về vấn đề tôn giáo. Mặc dù các nỗ lực này sau đó bị chính quyền Mạc phủ ngăn cấm, nhưng không vì thế mà người Nhật chịu khép mình trong đáy giếng; họ luôn tìm cách học hỏi từ người phương Tây để không ngừng vươn lên. Tinh thần này được tiếp nối qua phong trào Rangaku (Hà Lan học, hàm nghĩa là Tây học), xuất hiện từ năm 1641 và kéo dài cho đến khi Hải quân Hoa Kỳ gây áp lực mở cửa tự do ngoại thương (1854). Đó chính là chìa khóa giúp nước Nhật vượt lên trên hẳn các nước trong khu vực vẫn còn ngụp lặn trong cái ao tù của thế giới quan xem Trung Hoa là đỉnh cao của văn minh nhân loại.
(Bài đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay, số tháng 4/2024)
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
Abranches Pinto J. A. & Bernard H. 1943. Les Instructions du Père Valignano pour l’ambassade japonaise en Europe (Goa, 12 décembre 1583). Trong tạp chí Monumenta Nipponica, Vol. 6, No. 1/2 (1943).
Brown J. C. 1994. Courtiers and Christians: The First Japanese Emissaries to Europe. Tạp chí Renaissance Quarterly, Vol. 47, No. 4.
Coleridge H. J. 1872, The Life and Letters of St. Francis Xavier. Vol. 2. London: Burns.
Costa Oliveira e, J. P., 2002. The Misericórdias Among Japanese Christian Communities in the 16th and 17th centuries. Bulletin of Portuguese – Japanese Studies, số 5, tháng 12 năm 2002.
Cros L. J. M. 1900, Saint François de Xavier: sa vie et ses lettres, Vol. 2. Toulouse: Edouard Privat & Paris: Victor Retaux.
Hakluyt R. 1589. Principall Navigations, Voyages and Discoveries of the English Nation… London: George Bishop and Ralph Newberie.
Hakluyt R. 1904. The Principal Navigations Voyages Traffiques & Discoveries
of the English Nation, Vol. 11. Glasgow: James MacLehose and Sons & New York: The Macmillan Company.
Iwao Seiichi & alii, 1981. Hara Martino (1567 ou 1568?-1629). Trong Dictionnaire historique du Japon, Vol. 7 (Lettre H). https://www.persee.fr/doc/dhjap_0000-0000_1981_dic_7_1_890_t2_0064_0000_3
Lach D. F. 1965. Asia in the making of Europe, Vol. 1 Book 2. Chicago & London: The University of Chicago Press.
Lach D. F. 1993. Asia in the making of Europe, Vol. 3 Book 1. Chicago & London: The University of Chicago Press.
Lee, H. C. 2012 (ed.). Western Visions of the Far East in a Transpaciic Age, 1522–1657. Farnham, UK: Ashgate Publishing Limited.
Lidin O. G. 2004. Tanegashima The arrival of Europe in Japan. Copenhagen: Nias Press.
Lockley T. 2019. English Dreams and Japanese Realities Anglo-Japanese Encounters Around the Globe, 1587-1673. Tạp chí Revista de Cultura, số 60 (2019).
Massarella D. 2012. Japanese Travellers in sixteenth-century Europe. London: The Hakluyt Society.
Mathes W. M. 1990. A Quarter Century of Trans-pacific Diplomacy: New Spain and Japan, 1592-1617. Tạp chí Journal of Asian History, Vol. 24, No. 1 (1990).
Mendoza J. G. 1853. The History of the Great and Mightie Kingdome of China, and the Situation thereof. London: The Haluyt Society.
Meriwether C. 1893. Life of Date Masamune. Tạp chí Transactions of the Asiatic Society of Japan, Vol. 21 (1893).
Nagaoka H. 1905. Histoire des relations du Japon avec l’Europe aux XVIe et XVIIe siècles. Paris: H. Jouve Editeur.
Nakamura H. 1940. Passage en France de Hasekura, Ambassadeur Japonais à la cour de Rome au commencement du XVII siècle. Tạp chí Monumenta Nipponica, Vol. 3, No. 2 (Jul., 1940).
Pelliccia C. 2022. Representing Catholic Europe: Alessandro Valignano and De Missione (1590). Tạp chí CECIL, số 8 (2022).
Purchas S. 1906. Purchas His Pilgrimes. Glasgow: James MacLehose and Sons.
Soteli, L. 1634. De Ecclesiæ Iaponicæ statu Relatio, Imperatoris Augusti, Principum, Electorum, omniumque statuum Imperii cuiusque Ordinis lectione digna. Không ghi nơi xuất bản.
Sousa L. de, 2019. The Portuguese Slave Trade in Early Modern Japan. Leiden & Boston: Brill.
Tremml-Werner B. 2015. Spain, China, and Japan in Manila, 1571-1644: Local Comparisons and Global Connections. Amsterdam: Amsterdam University Press.
(1) Một số tác giả viết theo tài liệu tiếng Ý là Bernardo, trong khi nhiều tài liệu phương Tây gọi là Bernard of Kagoshima. Ngoài ra, tài liệu lưu trữ ở Bồ Đào Nha còn ghi nhận sự hiện diện của một số người Nhật khác trên đất Bồ Đào Nha vào thời ấy, do bị bán làm nô lệ (Sousa L. de, 2019, tr. 464).
(2) Lịch trình của phái đoàn ở châu Âu được tóm tắt chủ yếu dựa theo tài liệu của D. F. Lach (1965, tr. 688-701).
(3) Tài liệu ngày nay ghi là Thomas Cavendish và Cosmas.
(4) Quyển The History of Trauayle in the West and East Indies của Richard Willes, xuất bản năm 1577.



