Cao Sơn Cảnh Hạnh

Viên Như

Trên cổng chính của đền Hùng, có bốn chữ Nho lớn “高山景行”, trước nay người ta thường đọc bốn chữ này là “Cao sơn cảnh hành”, và giải thích là “Núi cao để mà trông, đường lớn để mà đi”. Đây là một giải thích tương đối phổ biến ngày nay, nhưng hầu hết những người chuyển ngữ không dịch và giải thích hết bài thơ “Xa hạt”, nơi xuất tích của bốn chữ trên, bởi vì nếu dịch hết bài thơ, xem ra cách hiểu trên không tương thích với ý tứ của bài thơ, cũng như không gian đền Hùng, nơi thờ tự vua Hùng, tổ tiên của người Việt. Chính vì vậy có người cho rằng câu ấy có nghĩa là “Hạnh lớn như núi cao”, người khác lại trích dẫn lời của Chu Hy trong sách Lễ ký tập thuyết: “Núi cao thì để người ta ngưỡng trông, bậc có đức hạnh lớn thì được người ta xem như khuôn phép mà noi theo” v.v… có thể nói cho đến nay dường như chưa có một giải thích nào thỏa đáng cả. Trong hướng đi tìm một giải thích cho bốn chữ trên, dù khả năng hết sức giới hạn, người viết cũng xin mạo muội trình bày thiển ý của mình về nguồn gốc và ý nghĩa của bốn chữ này.

Như đã nói trên, bốn chữ “高山景行” là tỉnh lược của hai câu đầu trong bài Xa hạt, phần Tiểu nhã của Kinh thi, như thế có nghĩa là bốn chữ này là điển tích, do đó không thể dịch nghĩa từng chữ được, mà phải hiểu và dịch bốn chữ này sao cho ý nghĩa của chúng, vừa tương thích với đền Hùng, vừa sát với ý tứ của bài thơ, nơi có mặt cụm từ này.

《經詩·小雅·車舝》

高山仰止,

景行行止

四牡騑騑,

六轡如琴。

覯爾新婚,

  以慰我心。

Cao sơn ngưỡng chỉ,

Cảnh hạnh hành chỉ.

Tứ mẫu phi phi,

Lục bí như cầm.

Cấu nhĩ tân hôn,

Dĩ úy ngã tâm.

Kinh thi. Tiểu nhã. Xa hạt

Theo tôi “Xa hạt” là bài thơ được viết căn cứ vào lý thuyết “Nhất dương động, vạn vật sanh” một thành ngữ chỉ sự sanh thành đối với vũ trụ, còn thành ngữ “Con Rồng, cháu Tiên”, chỉ sự sanh thành con người nói chung, người Việt nói riêng. Bài thơ này được sáng tác vào thời nhà Chu, diễn tả cảnh Xương Ý [昌意] con thứ của Hoàng Đế, thủy tổ của nhà Chu [1], đi rước Thục Sơn thị nữ, tức Cảnh Bộc. Trước hết xin giải thích một số từ mà tôi cho rằng nó là những tu từ hay đọc âm khác và có nghĩa khác, cụ thể đó là các cụm từ “Xa hạt車舝Cao sơn –高山Cảnh hạnh –景行, phần còn lại thì không có gì phải bàn cãi.

Xa hạt 車舝

Nghĩa chính là cái chốt của trục xe, nhưng nghĩa ẩn dụ của nó lại khác, cụ thể chữ xa 車,trong ngữ cảnh này, là cách nói khác của từ “xa thư 車书” [2], một tên khác của Lạc thư 洛书, nghĩa là cuốn sách đời của người Lạc Việt, bởi vì trong dịch học, Hà đồ – Tiên thiên bát quái, quẻ đại diện là Thiên địa bĩ, âm, tượng trưng cho tổ tiên, sinh ra Lạc thư – Hậu thiên bát quái, quẻ đại diện là Địa thiên thái, dương, tượng trưng cho hậu duệ hay con cháu, ở nước ta có nhiều sách vở dùng từ “xa thư” với ý nghĩa là con cháu, hậu duệ hay dân Việt, như:    

 “Xưng Hùng Vương cha truyền con nối,

Mười tám đời một mối xa thư.” [3]  

“Văn hiến thiên niên quốc, xa thư vạn lý đồ. – Nước ngàn năm văn hiến, cháu con (Lạc thư) mở rộng nòi giống của tổ tiên (Hà đồ).” [4]

 “một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.” [5]

Ngày xưa, xe chỉ chuyển động về phía trước, tức là hướng tương lai, xa thư nghĩa là cuốn sách đời của dân Lạc Việt càng ngày càng dày thêm, dân số càng lúc càng lớn.

Hạt 舝 nghĩa là cái chốt của trục xe, xe muốn chuyển động về phía trước thì phải có trục, như vậy trục là bộ phận quan trọng nhất của xe, nó tương đương với người con trai, vì ngày ấy người ta quan niệm con trai là rường cột của gia đình và quốc gia, bởi vì chỉ con trai mới nối dõi tông đường, tức là di truyền nòi giống vào tương lai và bảo vệ quyền lực. Hạt là cái chốt, chốt ở đây tương đương với sinh thực khí của nam, trục mà không có chốt thì không đi xa, người nam mà không có chốt cũng không thể duy trì nòi giống được. Nhưng muốn có con thì phải có sự tương tác âm dương, tức là phải lấy vợ như thông điệp của bài thơ, và làm chuyện đó như đã thể hiện trong câu “Cấu nhĩ tân hôn” hành động này được tổ tiên hoán chuyển thành quẻ 33. Thiên sơn độn 天山遯, đây là quẻ đại diện cho bản thể của dịch Liên sơn, một hệ thống dịch nói về nguồn gốc của con người. Quẻ 33 đọc theo tháng là tháng 6, Mùi, vì vậy ngày xưa dân ta giỗ vua Hùng vào đầu thu, vì Hùng vương là tổ tiên hay bản thể của người Việt, đến năm 1917, thời Khải Định, mới đổi sang 10/3 Nông lịch.

Thiên 天 – Càn, tượng là Rồng. Sơn 山 – Cấn, tượng là Tiên [6]. Độn 遯 là bỏ một cái gì vào trong một cái gì, như bánh mì độn thịt, tức hành động giao cấu của người nam.  

Chữ sơn 山 ngoài nghĩa là núi, còn có nghĩa là khả năng sinh sản của con người, cả nam lẫn nữ, tuy nhiên trong trường hợp Rồng Tiên, nó mô tả việc đó của người nam, còn đối với nữ là thị 氏, như “Nam văn nữ thị – 男文女氏” chữ văn 文 trong ngữ cảnh này chỉ chữ đinh丁 con trai nước Văn Lang [7]. Như thế thành ngữ “Con Rồng, cháu Tiên” có hai nghĩa:

Một: tổ tiên của người Việt là kết quả của ông ngủ với bà thuở hoang sơ nói chung, có nghĩa là việc sinh ra con người là do hai yếu tố âm dương tương tác mà thành, chứ chẳng có đấng tối cao nào sanh ra con người cả.

Hai: tổ tiên người Việt chính là những người đã đúc kết lý thuyết âm dương thành hệ thống triết học, theo lịch sử thì nó được hình thành từ nhà Hạ, và phát triển đỉnh cao vào thời nhà Chu.

Cao sơn

Như đã trình bày trên, quẻ Thiên địa bĩ đại diện cho Tiên thiên bát quái –  Tổ tiên, ngược lại là quẻ Địa thiên thái đại diện cho Hậu thiên bát quái – Hậu duệ, tương tự như vậy Càn Cấn -Rồng Tiên tượng trưng cho tổ tiên, ngược lại là Cấn Càn – Tiên Rồng, tượng trưng cho con cháu, khái niệm này được thể hiện qua hai chữ Hồng bàng 鴻龐.

Thuyết văn giải tự: 

鴻、逗。Hồng, đậu…

艮. 目匕、逗. Cấn. chủy, mục, đậu.

Như vậy Hồng là Cấn, là Tiên vậy.

(龐)高屋也。謂屋之高者也。从广。龍聲。薄江切。九部. 引伸之爲凡高大之偁。

Bàng. Cao ốc dã. Vị ốc chi cao giả dã. Tùng nghiễm. Long thanh. Bạc giang thiết. Cửu bộ. Dẫn thân chi vi phàm cao đại chi xưng.

Bàng. Nhà cao vậy. Nhà cao đó gọi là ốc vậy. Bộ nghiễm âm long. Đọc là bang – bàng. Bộ thứ chín. Từ đó phàm cái gì cao lớn thì gọi là bàng.

Chữ bàng 龐 có dị thể là 䮾. 䮾 cũng là dị thể của chữ long 龍 – Rồng, tức quái Càn.

Kết luận Hồng bàng là một biện pháp tu từ, ở đây là hoán dụ chỉ hai quái Cấn Càn – Tiên Rồng.

Như thế hai chữ “Cao sơn” trong câu “- 高山仰止” là cách thể hiện khác của hai khái niệm Càn Cấn – Rồng Tiên của quẻ 33. Thiên sơn độn, tượng trưng cho Tổ tiên, tương thích với bài vị tổ tiên ở đền Hùng: “Đột ngột Cao Sơn cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương”.

景行 Cảnh hạnh

Chữ hai chữ này trong câu “景行行止” theo tôi đọc là “Cảnh hạnh” nghĩa là hạnh lớn, việc lớn, trong bài chỉ việc lấy vợ.

Xin tạm dịch toàn bài thơ ấy như sau:

Cái chốt trục xe

Tổ tiên trông đợi vậy,

Việc lớn phải làm vậy.

Bốn ngựa chạy không ngừng,

Sáu dây căng như đàn.

(Nghĩ đến lúc) Ấy nàng đêm tân hôn,

Lòng tôi lo lắng quá. (vì không biết có hoàn thành nhiệm vụ không!)

Như thế bài thơ này diễn tả cảnh chàng rể đi rước cô dâu với tất cả sự háo hức, bồn chồn, lo lắng, nó cho thấy đây là nhiệm vụ vô cùng lớn lao, hết sức quan trọng, không những đối với bản thân mà cả gia đình, dòng họ, bởi vì ngày ấy người ta quan niệm chỉ con trai mới nối dõi dòng họ, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, cho nên việc lấy vợ, sinh con trai, chính là những gì tổ tiên, cha mẹ, họ hàng mong đợi nhất ở người con trai vậy.

Trở lại vấn đề đọc, hiểu và dịch cụm từ “高山景行” như thế nào? Như đã trình bày, theo tôi bốn chữ này đọc là “Cao sơn cảnh hạnh”, nghĩa là “Tổ tiên trông đợi vậy, việc lớn cần làm vậy”,  việc lớn ở đây là duy trì và phát triển nòi giống, huyết thống, văn hóa của vua Hùng, của dân Việt, huyết thống mà tán tận thì nói gì chuyện quốc thống được trường tồn, bởi vì người Việt còn thì văn hóa và nước Việt còn. Đây chính là những gì mà tổ tiên – Rồng Tiên muốn nhắn gởi và trông đợi những hậu duệ Tiên Rồng ở nước Việt.

Thông điệp này là sự thể hiện công khai những gì mà tổ tiên đã đề ra và thi hành triệt để ngay từ khi trở về phương nam, chủ trương đó tôi đã trình bày ở bài “Ve sầu thoát xác” [7]. Cụ thể từ sau khi trở về phương nam, với con số quá ít ỏi, làm sao nghĩ đến việc duy trì quốc thống được! Do đó, năm 258 TCN, sau cái chết của Chu Noãn Vương, anh em của vua Hùng, người chạy về phương nam, Hùng Vương lịch sử đã chấp nhận thực tế rằng: từ nay huyết thống và quốc thống của mình ở phương bắc xem như vô vọng, có chăng chỉ trông cậy vào số ít chạy về phương nam, chính vì vậy ngài đã thay đổi lập trường, đề ra kế sách “Ve sầu thoát xác” nhằm xóa dấu vết phương bắc của mình; đồng thời giao quyền bính cho phụ nữ, chính sách này kéo dài tới thời hai bà Trưng, đàn ông, con trai ẩn vào trong, phân tán ra nhiều nơi, mục đích cấp thiết nhất lúc đó là duy trì và bảo tồn huyết thống, có như thế mới mong có được cơ hội kiến lập lại quốc thống trong tương lai.

Qua đó ta thấy trong hoàn cảnh dân tộc lâm vào tình trạng ngàn cân treo sợi tóc, vô cùng bi đát, thế mà tổ tiên đã xử lý tình hình hết sức trí tuệ, kết quả của kế sách này là một cơ đồ nước Việt như hôm nay. Đồng thời việc tiền nhân khắc bốn chữ 高山景行 lên cổng chính của đền Hùng chứng tỏ ngày ấy, những nhà Nho, biết rất rõ hoàn cảnh và lịch sử của dân tộc Việt vào thời điểm vua Hùng lịch sử trở về phương nam.

Theo lịch sử, cổng và bốn chữ 高山景行 chỉ mới được làm vào năm 1917, tức là vào thời Khải Định, có nghĩa là cho đến nay chỉ mới 107 năm, thế mà ngày nay, khi nước Việt có cả trăm triệu dân, có hàng chục ngàn Tiến sĩ, Giáo sư, người ta thông tuệ trên mọi mặt, trong cũng như ngoài nước, nhưng xem ra sự thông tuệ đó ngược lại với sự hiểu biết về cội nguồn dân tộc, cho nên giờ đây hình ảnh của tổ tiên, càng ngày càng mờ nhạt, xa xăm, còn chăng chỉ là những nhân vật huyền thoại trong truyền thuyết, thỉnh thoảng một vài ông tiến sĩ lạc loài đem ra làm đề tài để châm biếm, mỉa mai, biến tổ tiên thành những con người hư cấu bởi ai đó trong quá khứ mơ hồ.

Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương, xin có một chút lòng thành dâng lên tổ tiên, cầu mong thông điệp của Ngài được con cháu nhận thức một cách đầy đủ và nghiêm túc nhất, từ đó hãy thôi cung cấp cho hậu thế một hình ảnh của tổ tiên mơ hồ, lạc hậu, cái gì ta cũng học hay được kẻ khác dạy cho, điều ấy làm niềm tự hào của dân tộc mỗi ngày mỗi thui chột, nhất là những người trẻ hôm nay và mai sau, thay vào đó hãy can đảm nhận lấy những thành quả văn hóa mà tổ tiên đã mất nhiều ngàn năm dày công sáng tạo nên. Mong lắm thay./.

Giỗ tổ vua Hùng năm Giáp Thìn – 2024


[1] Từ “xa thư” ở đây không có nghĩa như câu: “Xa đồng trục, thư đồng văn, hạnh đồng luân – 車 同 軌, 書 同 文, 行 同 倫 – Xa có trục cùng kích cở, sách cùng một ngôn ngữ, hành xử cùng một văn hóa. Đây là sách lược của nhà Tần và các triều đại về sau ở phương bắc, nhằm phục vụ cho chiến tranh và đồng hóa các dân tộc khác. Tuy nhiên người ta thường lấy hai câu đầu, bỏ câu “hạnh đồng luân”, để giải thích cho hai từ “xa thư” trong văn hóa Việt như tôi đã trình bày. Cụ thể các sách vở đều dạy học sinh với nghĩa trên khi giải thích câu: “Một mối xa thư đồ sộ” trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.

[2] Theo truyền thuyết Đế Cốc (Khốc) cha của Hậu Tắc, tức Cơ Khí, thủy tổ của nhà Chu, là con của Đới Cực, tức là cháu nội của Huyền Hiêu, con trưởng của Hoàng Đế. Tuy nhiên theo Hoa Dương quốc chí – Ba Thục chí thì Đế Cốc là con của Xương Ý với Thục Sơn thị nữ (“蜀之為國,肇於人黄,與巴同囿。至黃帝,為其子昌意娶蜀山氏之女,生子高陽,是為帝嚳)

[3] Thiên Nam minh giám Thế kỷ 17

[4] Bài thơ trên điện Thái Hòa. Thành nội Huế

[5] Văn tế Nghĩa sĩ Cần Guộc, Nguyễn Đình Chiểu

[6] Chữ sơn 山 lục thư cũng chính là chữ tiên 仙. Xem Chinese Etymology dictionary -山

[7] https://nghiencuulichsu.com/2023/12/04/hung-vuong-truyen-thuyet-va-lich-su/

[ 8] https://nghiencuulichsu.com/2023/12/18/ve-sau-thoat-xac/

Bình luận về bài viết này