Truy sát Bin Laden: Cuộc săn lùng 10 năm từ ngày 11/9 đến Abbottabad (Bài 1)

Peter l. Bergen

Trần Quang Nghĩa dịch

 

Vùng đất Abbottabad và Pakistan

Các địa điểm di chuyến của Bin Laden từ 11/9 đến Abbottabad

Cuộc đột kích vào Abbottabad của lực lượng SEAL của Hải quân Hoa Kỳ

  1. Hai chiếc Black Hawk và ba chiếc trực thăng Chinook rời Jalalabad để đột kích vào khu nhà của bin Laden ở Abbottabad.
  2. Một chiếc Chinook dừng lại trước khi vượt biên giới sang Pakistan.
  3. Hai chiếc Chinook còn lại hạ cánh trên bờ sông Indus tại Kala Dhaka để hỗ trợ cho hai chiếc Black Hawk.
  4. Đội SEAL trong Black Hawk tấn công khu nhà, giết chết bin Laden. Trong quá trình đó, một chiếc Black Hawk hạ cánh khó khăn và phải bị hủy diệt.
  5. Một chiếc Chinook rời Kala Dhaka và bay đến Abbottabad, nơi nó nhặt xác của bin Laden và rước các lính biệt kích SEAL từ chiếc Black Hawk bị phá hủy. Chiếc trực thăng sau đó bay thẳng trở lại Jalalabad.
  6. Chiếc Black Hawk khác gia nhập chiếc Chinook còn lại tại Kala Dhaka và tiếp nhiên liệu.
  7. Cả hai chiếc trực thăng quay trở lại Jalalabad.

Ô nhỏ là chi tiết Abbottabad, dấu X là vị trí khu nhà của bin Laden.

Chúng ta ngủ ngon trên giường nhờ những con người dày dạn giữa đêm khuya sẵn sàng đáp trả bạo lực với những kẻ muốn làm hại chúng ta.

–  WINSTON CHURCHILL

Người quan trọng không phải là kẻ phê phán; cũng không phải là kẻ lôi ra khiếm khuyết của người có năng lực hoặc chỉ vẻ người thi hành  nhiệm vụ làm sao cho tốt hơn. Công trạng thuộc về những con người thực sự có mặt tại đấu trường, với khuôn mặt lấm lem bụi đất, nhuễ nhoại mồ hôi và máu, những người phấn đấu dũng cảm, những người có thể mắc sai lầm và thất bại hết lần này đến lần khác, bởi vì không có nỗ lực nào mà không có sai sót, hoặc khiếm khuyết, những ai tràn đầy nhiệt huyết, có cống hiến to lớn, những ai dâng hiến hết mình vì một mục đích xứng đáng; những ai, tốt nhất, cuối cùng cũng nếm được hương vị của chiến tích lẫy lừng và tệ nhất, nếu có thất bại, thì ít nhất mình cũng thất bại trong khi dám quả cảm xông pha, để chỗ đứng của mình sẽ không hề ở cùng với bọn người thờ ơ và hèn nhát, những kẻ không hề biết đến vinh quang hay thảm bại.

– THEODORE ROOSEVELT

 

GHI CHÚ VỀ CUỐN SÁCH NÀY

TÔI LẰN ĐẦU GẶP OSAMA BIN Laden vào lúc nửa đêm trong một túp lều bằng bùn ở vùng núi phía đông Afghanistan vào tháng 3 năm 1997. Tôi ở đó để thực hiện cuộc phỏng vấn truyền hình đầu tiên về ông ta cho đài CNN. Bề ngoài, bin Laden không phải là nhà cách mạng hung hăng như tôi mong đợi, tự thể hiện mình là một giáo sĩ khiêm tốn. Nhưng trong khi thái độ của mình rất ôn hòa, những phát biểu của ông lại chứa đầy căm thù thô bạo đối với Hoa Kỳ. Bin Laden làm chúng ta ngạc nhiên khi tuyên chiến với Hoa Kỳ trước camera; đây là lần đầu tiên ông ta làm như vậy trước khán giả phương Tây. Tất nhiên, lời cảnh báo đó không được chú ý đầy đủ và bốn năm sau xảy ra vụ tấn công 11/9.

Theo một nghĩa nào đó, tôi đã chuẩn bị viết cuốn sách này kể từ đó. Mặc dù không thể dự đoán chính xác thời điểm bắt giữ hay cái chết của bin Laden, nhưng việc cuối cùng ông ta bị truy nã là điều không thể tránh khỏi. Cuốn sách bạn sắp đọc là câu chuyện về sự việc đã xảy ra.

Sau khi bin Laden bị tiêu diệt, tôi đã đến Pakistan ba lần, trong chuyến thăm cuối cùng tôi đã đến tham quan kỹ lưỡng khu nhà Abbottabad nơi ông sống những năm cuối đời. Tôi là người ngoài duy nhất được quân đội Pakistan cho phép vào quan sát, và hai tuần sau chuyến thăm của tôi, vào cuối tháng 2 năm 2012, khu nhà hiện trường đã bị phá hủy.

Chuyến thăm khu nhà đã giúp tôi hiểu rõ hơn nhiều về cách thủ lĩnh al-Qaeda cùng gia đình và những tùy tùng ông ta sống ở đó trong nhiều năm mà không bị phát hiện cũng như về cuộc đột kích tiêu diệt bin Laden của  lực lượng SEAL thuộc Hải quân Hoa Kỳ. Tôi đứng trong căn phòng nơi bin Laden đã sống gần sáu năm cuối đời và là nơi cuối cùng ông bị giết chết. Tôi cũng đã nói chuyện với nhiều quan chức an ninh và quân sự Pakistan, những người đã điều tra cuộc đột kích của SEAL và những nhân viên được giữ giao nhiệm vụ thẩm vấn vợ và con cái ông ta  đang sống trong khu nhà.

Về phía Hoa Kỳ, tôi đã nói chuyện với hầu hết các quan chức cấp cao tại Nhà Trắng, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, CIA, Trung tâm Chống khủng bố Quốc gia và Văn phòng Giám đốc Tình báo Quốc gia, những người chịu trách nhiệm xây dựng và đánh giá thông tin tình báo về bin Laden, cân nhắc các phương án hành động đối với khu nhà bị nghi ngờ là nơi trú ẩn của bin Laden, và giám sát việc thực hiện cuộc đột kích. Nhiều quan chức trong số này được trích dẫn tên trong cuốn sách, nhưng một số không thể được trích dẫn trực tiếp do tính chất nhạy cảm của lĩnh vực tác nghiệp.

Trang web công khai WikiLeaks đã chứng tỏ là một nguồn thông tin rất hữu ích khác. Bằng cách tham khảo các tài liệu mật bị rò rỉ về Guantánamo [trại giam chứa các phần tử Hồi giáo khủng bố], tôi có thể vạch ra đường đi của bin Laden tốt hơn sau vụ tấn công 11/9 và tái hiện lại cách các quan chức CIA có thể xác định được người đưa tin đã dẫn họ tới trước cửa nhà thủ lĩnh al-Qaeda. Tất nhiên, không phải chỉ vì là một tài liệu mật của chính phủ Hoa Kỳ đủ đảm bảo rằng nó chính xác, và vì vậy tôi đã cố gắng hết sức để tham khảo chéo những tài liệu đó với nhiều lời tường thuật và nguồn tin khác nhau.

Báo cáo này được bổ sung bằng các cuộc phỏng vấn bổ sung với các cựu quan chức CIA và sĩ quan quân đội Hoa Kỳ tham gia truy lùng bin Laden trong suốt một thập niên sau vụ 11/9, và nhiều chuyến đi tới Afghanistan để truy tìm dấu chân của bin Laden trong trận đánh Tora Bora, nơi ông ta đã tìm cách trốn tránh được sự truy nã của Hoa Kỳ trong mùa đông năm 2001.

Khi tôi gặp bin Laden vào năm 1997, chính ở bên ngoài thành phố Jalalabad của Afghanistan và gần dãy núi Tora Bora – khu vực mà bốn năm sau, chỉ vài tháng sau vụ 11/9, ông ta  sẽ dàn dựng một trong những vụ biến mất vĩ đại nhất trong lịch sử và trở thành đối tượng của cuộc truy lùng gắt gao và tốn kém nhất mọi thời đại. Và vì vậy có lẽ cũng hợp lý khi mười năm sau, vào đêm không trăng ngày 1 tháng 5 năm 2011, trận tính sổ với  bin Laden cuối cùng cũng được khởi động với các trực thăng bay lên từ Sân bay Jalalabad. Trong khoang máy bay, các đặc nhiệm Hải quân SEAL có thể nhìn thấy qua ánh lóa điểm ảnh xanh lóa  của kính dạ hành những ngọn núi Tora Bora chỉ cách ba mươi dặm về phía nam, cao mười bốn ngàn bộ tới tận trời: nơi cuối cùng mà một nhóm nhỏ Lực lượng Đặc nhiệm Mỹ đang ghim bin Laden trong tầm nhắm. Lần này, họ thề, sẽ không để bin Laden thoát khỏi móng vuốt của đại bàng Mỹ

.

LỜI MỞ ĐẦU

MỘT CUỘC NGHỈ HƯU THOẢI MÁI

ĐÓ LÀ MỘT NƠI ẨN NÁU HOÀN HẢO.

Nheo mắt một chút, những ngôi nhà gọn gàng bám dọc những sườn đồi xanh và những ngọn núi chắc nịch bao quanh Abbottabad gợi nhớ đến Thụy Sĩ, hoặc có thể là Bavaria. Thành phố Pakistan với khoảng 500.000 người này nằm ở độ cao 4.000 mét dưới chân dãy Himalaya, xếp hàng tiến về phía biên giới Trung Quốc. Thị trấn được thành lập vào năm 1853 bởi James Abbott, một sĩ quan người Anh, một tay chơi cò con trong Trò Chơi Lớn trong đó người Anh và người Nga đọ sức với nhau khi họ tranh giành quyền làm chủ ở Trung Á. Điều hơi bất thường đối với một quan chức thực dân Anh, Thiếu tá Abbott lại được người dân Ấn ở Abbottabad yêu mến. Abbott thậm chí còn viết một bài thơ vụng về nhưng chân thành gửi tặng thị trấn khi ông về Anh:

Tôi nhớ ngày mà tôi lần đầu tiên đến đây

Và ngửi thấy mùi không khí Abbottabad ngọt ngào

Xin chào tạm biệt bạn bè với trái tim nặng trĩu

Không bao giờ những ký ức về bạn sẽ phai nhòa trong tâm trí tôi

Những di tích của Abbottabad thời quá khứ thuộc địa có thể được nhìn thấy trong nhà thờ Anh giáo St. Luke, trông giống như được vận chuyển bằng máy bay từ Sussex đến đây và các tòa nhà thế kỷ 19 thấp lè tè nằm dọc theo hai bên những con đường chính từng là nơi cư ngụ của các quan chúc đế chế. Abbottabad ngày nay được biết đến là “Thành phố của Trường học” và là nơi có nhiều trường dự bị xuất sắc và Học viện quân sự hàng đầu của Pakistan. Các binh sĩ của Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ đã được đưa đến đó vào năm 2008 để giúp huấn luyện tân binh.

Bị thu hút bởi mùa hè tương đối mát mẻ và tỷ lệ tội phạm không đáng kể, nhiều sĩ quan quân đội và công chức đã nghỉ hưu, cũng như một số người đã làm việc tốt ở Vịnh Ba Tư, đã đến sống ở Abbottabad. Mùa nghỉ lễ cao điểm bắt đầu vào tháng 6, khi các gia đình từ vùng đồng bằng nóng bức của Pakistan tới đó để giải nhiệt và tận hưởng những làn gió núi êm dịu. Những người chơi gôn trong số họ có thể chơi trên một trong những sân cỏ  tốt nhất của đất nước. Cảm nhận tổng thể vùng đó là một câu lạc bộ đồng quê hơn là phần còn lại gồm các thành phố hối hả, đông đúc, đầy khói bụi của Pakistan.

Bất chấp vai trò lu mờ tương đối của Abbottabad, người nước ngoài không phải là quá xa lạ ở đây. Những nhà thám hiểm phương Tây bị thu hút bởi đường cao tốc Karakoram, chạy qua thành phố trước khi đi về hướng bắc tới Trung Quốc, cách đó ba trăm dặm, thỉnh thoảng dừng lại để mua đồ cắm trại hoặc nán lại ở một cửa hàng kem. Và dân tị nạn Afghanistan giàu có chạy trốn khỏi tình hình bất ổn ở đất nước mình đã tìm đến đây xây dựng những tòa nhà với các bức tường lớn bao bọc để che giấu phụ nữ của họ.

Chính tại vùng ngoại vi yên ắng này của Abbottabad nửa thập niên sau chiến tích vĩ đại ngày 11/9 mà Osama bin Laden đã quyết định đến nghỉ hưu. Đó là một trong những nơi cuối cùng ở Pakistan mà không ai có thể ngờ ông có thể sống ở đó – đủ xa các khu vực bộ lạc ở Pakistan, nơi gần như mọi nhà quan sát đều tin rằng ông nương náu, vì vậy khó có ai tìm thấy mình, vậy mà đủ gần để có thể bắt liên lạc tương đối dễ dàng với các cấp dưới chủ chốt của mình nhờ người đưa tin, nhiều người trong số đó sống quanh quẩn trong vùng đó. Địa điểm đó cũng gần với Kashmir do Pakistan nắm giữ và các nhóm chiến binh Kashmir mà bin Laden đã kết liên minh từ lâu, một mạng lưới hỗ trợ có thể có ích.

Vào mùa xuân năm 2011, tên đầu não khủng bố đã lẩn trốn được năm thứ sáu tại vùng lân cận của thị trấn Bilal ở Abbottabad. Đây không phải là địa chỉ hào nhoáng nhất của thành phố, nhưng với mái cổng màu trắng của các biệt thự nhỏ và các cửa hàng bán trái cây và rau quả, đây chắc chắn là một nơi khá dễ chịu để sinh sống.

Bảy năm trước, nhân vật mà bin Laden tin cậy giao phó cuộc đời mình, người được biết đến trong al-Qaeda với bí danh Abu Ahmed al-Kuwaiti— “người Kuwait, cha của Ahmed” – đã bắt đầu gom góp một số lô đất nông nghiệp nhỏ ở rìa Thị trấn Bilal. Người Kuwait đã mua các lô đất qua bốn giao dịch vào năm 2004 và 2005, trả khoảng 50.000 USD và phần lớn các thửa đất thuộc sở hữu ​​một bác sĩ địa phương, Qazi Mahfooz Ul Haq. Haq nhớ lại người Kuwait là “kiểu người rất giản dị, khiêm tốn, nhún nhường”, nói tiếng địa phương, tiếng Pashto, mặc trang phục truyền thống của người Pashtun, và cho biết y mua đất cho ông chú.

Người Kuwait thuê một kiến trúc sư tại công ty xây dựng Modern Associates, một công ty do thân nhân điều hành ở Abbottabad, để thiết kế một khu nhà tổ hợp cho một gia đình có hơn chục thành viên sinh sống. Các thông số kỹ thuật của tòa nhà không có gì đặc biệt: hai tầng có bốn phòng ngủ trên mỗi tầng, mỗi tầng đều có phòng tắm riêng. “Một đệ tử của tôi cũng dư sức thiết kế nó,” Junaid Younis, chủ sở hữu của công ty,  nhớ lại. Công ty xây dựng đã nộp các bản vẽ của ngôi nhà cho Phòng xây dựng địa phương và giấy phép xây dựng đã được cấp hợp lệ.

Vào khoảng năm 2005, khu nhà của bin Laden bắt đầu mọc lên tại nơi từng là cánh đồng trống. Người dân địa phương ước tính rằng chi phí xây dựng khu phức hợp rộng 1 mẫu Anh này vào khoảng hàng trăm nghìn đô la. Trong quá trình xây dựng, tầng thứ ba đã được thêm vào tòa nhà. Không có giấy phép điều chỉnh nào được yêu cầu cho việc bổ sung này, một cách né tránh khá phổ biến ở một nơi trên thế giới mà việc nộp thuế tài sản được coi là việc làm của kẻ khờ khạo. Nhưng có một lý do thuyết phục hơn để giữ sự bổ sung này càng bí mật càng tốt: tầng xây dựng trái phép được dành riêng cho Osama bin Laden và người vợ mới nhất và trẻ nhất của ông ta, một thiếu nữ Yemen đầy nghị lực tên là Amal.

Tầng ba, nơi bin Laden sống cùng Amal, hơi khác so với những tầng khác. Không giống như các tầng bên dưới, nó chỉ có các cửa sổ trên một trong bốn vách và chúng mờ đục. Bốn trong số năm cửa sổ chỉ là những khe nhỏ cao quá tầm mắt. Một ban công nhỏ ló ra khỏi sàn nhà được che chắn khỏi các cặp mắt xoi mói bởi một bức tường cao 7 bộ được thiết kế để che giấu ngay cả một người cao 6,4 bộ như bin Laden. Thường xuyên mặc áo choàng sáng màu, áo vest tối màu và đội mũ cầu nguyện, bin Laden hiếm khi rời khỏi tầng hai và tầng ba của ngôi nhà trong hơn 5 năm sống ở đó. Nếu ra khỏi tòa nhà, ông chỉ đi dạo trong khu vườn nhà bếp của khu nhà. Một tấm bạt tạm bợ phủ lên một phần của khu vườn được thiết kế để giữ bí mật ngay cả những cuộc tản bộ đó khỏi cặp mắt xồng xộc mọi nơi của các vệ tinh Mỹ bay ngang dọc khắp bầu trời trên cao.

Khu nhà hẳn là khá tù túng đối với một người thích hoạt động ngoài trời như bin Laden, một người thường xuyên khoe khoang về khả năng cưỡi ngựa bốn mươi dặm không ngừng nghỉ của mình, và đều đặn dẫn các con trai làm những chuyến đi bộ đường dài gian khổ qua vùng đồi núi Afghanistan có thể kéo dài hơn mười hai giờ. Bin Laden cũng là một người say mê chơi bóng đá, và khá giỏi bóng chuyền. Trước khi Taliban sụp đổ, một trong những thú vui lớn lao của ông là dẫn vợ con du hành thám hiểm vào vùng sa mạc rộng lớn ở phía Nam Afghanistan, tập bắn và  rèn luyện sức dẻo dai, sẵn sàng cho cuộc sống lẩn trốn mà ông tin chắc một ngày nào đó sẽ là số phận tập thể của họ.

Lúc này bin Laden đang sống ở Abbottabad trong một nhà tù do chính ông tạo ra. Nhưng đã có một số bù đắp. Có một điều chắc chắn, ông còn lâu mới là mục tiêu của các cuộc oanh kích bằng máy bay không người lái của Mỹ vốn đang liên tục tiêu diệt nhiều trợ lý đắc lực lâu năm của ông, những thành viên gạo cội của al-Qaeda ở Pakistan, tại các khu vực bộ lạc cách đó 200 dặm về phía tây. Và chắc chắn ông ta không chui rúc trong các hang động ẩm ướt như nhiều “kẻ ngoại đạo” tưởng tượng. Ông cũng không bị bệnh thận hành hạ, như  phương Tây thường đưa tin . Trên thực tế, ông đang ở trong tình trạng sức khoẻ tốt, tóc muối tiêu và chậm chạp đôi chút khi bước vào tuổi giữa ngũ tuần. Điều quan trọng nhất đối với một người đàn ông tận tụy với gia đình là ông được bao quanh bởi ba bà vợ và hàng chục con cháu.

Bà vợ đầu tiên của Bin Laden, cô em họ người Syria cao ráo, xinh đẹp, Najwa, không nằm trong số đó. Họ kết hôn vào năm 1974, khi ông mới mười bảy còn bà mười lăm, và bà đã chung thủy gắn bó với ông khi ông dấn thân vào cuộc sống thánh chiến mang ông đến Pakistan và Afghanistan trong những năm 1980, sau đó là Sudan và Afghanistan vào cuối những năm 1990. Nhưng sau 5 năm sống ở Afghanistan do Taliban kiểm soát, Najwa đã chịu đựng quá đủ. Vào mùa hè năm 2001, bà bắt đầu nhất quyết muốn về nhà và sống cùng gia đình ở Syria. Rốt cuộc, bà đã sinh cho bin Laden mười một đứa con và gần ba mươi năm trong cuộc đời mình, một phần lớn trong số đó bà đã sống lưu vong với ông, và vì vậy cuối cùng ông đã chấp thuận yêu cầu của bà. Nhưng ông chỉ cho phép bà mang theo ba đứa con chưa lập gia đình của họ tới Syria, nhấn mạnh rằng cô con gái 11 tuổi Iman và cậu con trai 7 tuổi Ladin ở lại cùng ông.

Bin Laden là gia trưởng tuyệt đối trong gia đình, và Najwa không thể làm gì để phản đối quyết định này. Khi bà rời Afghanistan, bin Laden đã nói với bà rằng có lẽ đây sẽ là lần cuối cùng họ gặp nhau – “Anh sẽ không bao giờ ly hôn với em, Najwa. Ngay cả khi em nghe ai nói rằng anh đã ly hôn với em, điều đó là không đúng.” Najwa rời Afghanistan vào ngày 9 tháng 9 năm 2001, cùng ngày mà nhóm sát thủ của bin Laden sát hại Ahmad Shah Massoud, thủ lĩnh của một số ít lực lượng Afghanistan lúc đó vẫn còn chiến đấu chống Taliban, và chỉ 48 giờ trước cuộc tấn công của al-Qaeda vào Washington và New York. Có lẽ bin Laden biết rằng Najwa vốn hiền hòa, đã kết hôn với ông rất lâu trước khi ông cống hiến cả cuộc đời cho sự khắc nghiệt của cuộc thánh chiến, sẽ không thể chịu đựng  được hậu quả khốc liệt của cuộc tấn công vào nước Mỹ.

Tuy nhiên, một thập niên sau ngày 11/9 – ngay cả khi người vợ đầu tiên đã qua đời từ lâu – bin Laden vẫn hài lòng khi có ba bà vợ khác sống cùng ông tại nơi ẩn náu ở Abbottabad. Họ có độ tuổi từ Amal 29 tuổi đến Khairiah 62 tuổi, người gần đây đã vui vẻ tái hợp với bin Laden một cách khá bất ngờ sau chín năm vắng bóng.

Bin Laden kết hôn với Khairiah vào năm 1985, khi ông 28 tuổi và bà 35 tuổi, một độ tuổi quá muộn ở Ả Rập Saudi để một phụ nữ có thể kết hôn. Động lực khiến Bin kết hôn với Khairiah một phần là do tôn giáo. Ông ta tin rằng việc kết hôn với một “cô gái già” là điều mà Allah sẽ ưu ái vì nếu họ có con, việc đó sẽ làm tăng số lượng người Hồi giáo trên thế giới.

Trước khi kết hôn, Khairiah dường như có một sự nghiệp độc lập là một giáo viên trường trẻ em khuyết tật. Bà cũng có bằng tiến sĩ và được sinh ra trong một gia đình giàu có, danh vọng, tuyên bố thuộc dòng dõi Nhà Tiên tri Mohammed. Khairiah đảm nhận vị trí vợ thứ hai của bin Laden chỉ vì bà muốn kết hôn với một người đàn ông mà bà tin là một chiến binh thánh chiến thực sự, người có chiến công chống lại Liên Xô ở Afghanistan và đã trở nên nổi tiếng ở Ả Rập Saudi vào giữa những năm 1980. Bốn năm sau khi kết hôn với bin Laden, họ có một cậu con trai, Hamza, và từ đó trở đi, Khairiah được biết đến với cái tên Um Hamza, “mẹ của Hamza”.

Khi chế độ Taliban nổ tung trong mùa thu 2001, Khairiah trốn khỏi Afghanistan vào nước láng giềng Iran, cùng với Hamza yêu quý của mình và một số đứa con của bin Laden với các bà vợ khác. Trong nhiều năm tất cả họ đều sống dưới một hình thức quản thúc tại gia nào đó tại thủ đô Tehran của Iran. Điều kiện của họ không phải là không thoải mái, có thời gian cho việc đi mua sắm, chơi trò điện tử PlayStation và các chuyến đi đến bể bơi, nhưng họ vẫn còn ở trong lồng, mặc dù một cái lồng mạ vàng. Chính quyền Iran ắt hẳn coi các thành viên trong gia đình bin Laden là những con bài thương lượng hữu ích trong trường hợp có một loại thỏa thuận hòa bình nào đó với Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, vào thời điểm các chiến binh al-Qaeda bắt cóc Heshmatollah Attarzadeh-Niyaki, một nhà ngoại giao Iran, vào cuối năm 2008 gần nhà ông ở thành phố Peshawar phía tây Pakistan, chế độ Iran đã từ lâu cắt đứt bất kỳ thỏa hiệp nào với Hoa Kỳ. Sau khi giam giữ nhà ngoại giao này hơn một năm, các chiến binh đã lặng lẽ thả ông trở lại Iran vào mùa xuân năm 2010. Đây là một phần của thỏa thuận cuối cùng cho phép gia đình bin Laden chấm dứt những năm tháng bị quản thúc tại gia ở Iran.

Vào một thời điểm nào đó trong mùa hè rực rỡ năm 2010, Khairiah, lúc này đã ngoài sáu mươi, đã cố gắng đi từ miền tây Iran đến Bắc Waziristan, một vùng bộ lạc xa xôi, hiểm trở của Pakistan nằm cách Tehran hơn 1.500 dặm về phía đông; cuộc hành trình đã đưa bà băng qua những dãy núi hiểm trở và qua một số sa mạc khắc nghiệt nhất trên trái đất. Sau đó, bà đến Abbottabad để đoàn tụ với chồng sau gần một thập niên. Điều khiến bà thất vọng là  đứa con duy nhất, Hamza, đã rời Iran cùng bà, vẫn ở lại các vùng bộ lạc xa xôi của Pakistan, lúc đó là nơi sinh sống của nhiều thủ lĩnh al-Qaeda.

Người vợ có thâm niên tiếp theo trong khu nhà của bin Laden là Siham bin Abdullah bin Husayn, người cùng 54 tuổi như vị  thủ lĩnh al-Qaeda, và giống như người vợ lớn tuổi nhất Khairiah, cũng xuất thân từ một gia đình danh giá người Ả Rập Saudi, tuyên bố có nguồn gốc từ Nhà Tiên tri. Đối với bin Laden, người đã cố gắng – ít nhất là trong tâm trí mình – mô phỏng cuộc sống của mình theo gương Nhà Tiên tri, mối liên hệ trực tiếp này với nhà sáng lập đạo Hồi qua các bà vợ của ông chắc chắn có ý nghĩa đặc biệt. Sống trong khu nhà ở Abbottabad với cha mẹ là con trai đầu lòng của Siham, Khalid, 23 tuổi.

Siham từng là sinh viên tại Đại học King Abdulaziz ở thành phố thánh Medina, theo học ngành nghiên cứu tôn giáo, khi bin Laden lần đầu cầu hôn cô vào giữa những năm 1980. Cô nhất quyết phải hoàn thành chương trình học của mình như một điều kiện để chấp nhận lời đề nghị của ông ta, một yêu cầu mà bin Laden chỉ miễn cưỡng chấp nhận. Cha mẹ của Siham phản đối cuộc hôn nhân vì bin Laden là người đã có vợ, nhưng dù sao thì cô vẫn tiếp tục cuộc hôn nhân vì cô có niềm tin kiên định vào sứ mạng thánh chiến đang phát triển hứa hẹn của bin Laden, chống lại Liên Xô ở Afghanistan. Vào thời điểm họ kết hôn, bin Laden đang trên đường trở thành một anh hùng thánh chiến đích thực; Siham thấy điều này thật hấp dẫn. Khi bin Laden đưa cho cô món đồ trang sức bằng vàng truyền thống làm của hồi môn trong đám cưới, Siham đã tặng tất cả cho thánh chiến Afghanistan.

Siham tiếp tục lấy bằng Thạc sĩ khi học ở Medina và sau đó là Tiến sĩ về Ngữ pháp kinh Koran khi bà sống cùng bin Laden ở Sudan vào giữa những năm 1990. Là một nhà thơ và một trí thức, bà thường biên tập các bài viết của bin Laden. Vì chồng chỉ miễn cưỡng chấp nhận việc mình theo đuổi con đường học vấn sau đại học, nên bà đã đề tặng luận án tiến sĩ của mình không phải cho ông mà cho các con bà. Anh trai bà nói rằng bà chịu cảnh “xiềng xích” với bin Laden chỉ vì tình yêu mãnh liệt của bà dành cho chúng.

Cơ hội lấy bà vợ thứ tư mà luật Hồi giáo cho phép đã mở ra cho bin Laden khi ông ta sống ở Sudan vào giữa những năm 1990. Một trong những bà vợ lớn tuổi hơn của ông, một người Saudi tên là Khadija, đối mặt với ông ở thủ đô Khartoum của Sudan, nói với ông rằng mình chưa sẵn sàng cho một cuộc sống thánh chiến và  lưu vong nghèo khó mà con trai vị tỷ phú Ả Rập Xê Út mới lựa chọn, và rằng bà muốn xin ly hôn. Bin Laden đã chấp nhận yêu cầu của bà và nhanh chóng bắt đầu suy nghĩ về những phẩm chất mà ông đang tìm kiếm ở người vợ mới của mình.

Theo giáo sĩ người Yemen, người đã đứng ra mai mối, “Cô ấy phải sùng đạo … đủ trẻ và không tỏ ra ghen tị với những bà vợ khác của Thủ lĩnh [bin Laden].” Giáo sĩ bảo với bin Laden mình đã nghĩ đến một người mà ông ấy từng hướng dẫn tôn giáo. Ông ta nói rằng cô ấy rất ngoan đạo; cô ấy xuất thân từ một gia đình khiêm tốn, vì vậy cô ấy có thể đương đầu với những khó khăn mà cuộc sống với thủ lĩnh al-Qaeda rõ ràng sẽ phải gánh chịu; và cô ấy “thực sự tin rằng việc trở thành một người vợ đảm đang và ngoan ngoãn sẽ cho cô ấy một vị trí trên thiên đường.” Tên cô ấy là Amal Ahmed al-Sadah.

Bin Laden đã cử một phái viên vào năm 1999 đến nói chuyện với mẹ của Amal tại nhà bà ở vùng hẻo lánh của tỉnh Ibb, một thị trấn nhỏ cách thủ đô Yemen khoảng 100 dặm về phía nam. Lúc đầu lời cầu hôn được cho là đến từ một doanh nhân từ tỉnh Hadramaut của Yemen. Điều này có một phần sự thật, vì gia đình bin Laden sở hữu một doanh nghiệp xây dựng lớn ở Trung Đông và xuất thân từ Hadramaut, nhưng khi các cuộc đàm phán hôn nhân tiếp tục, phái viên cho biết rằng người cầu hôn thực chất là Osama bin. Laden. Điều này không gây ra nhiều phản ứng vì bin Laden vẫn chưa phải là cái tên quen thuộc và al-Qaeda vẫn chưa điều động một chiếc thuyền chở đầy bom ra sức đánh chìm tàu ​​USS Cole đậu ngoài khơi Yemen, như tổ chức này sẽ thực hiện một năm sau đó.

Amal, một thiếu nữ xinh đẹp, xanh xao, hay cười với mái tóc đen bù xù và ít được học hành, cuối cùng đã đồng ý kết hợp với ông trùm bin Laden bí ẩn và nói rằng: “Chúa đã phù hộ cho việc đó.” Bin Laden đã cử một trong những vệ sĩ thân tín nhất của mình từ Afghanistan mang theo của hồi môn trị giá 5.000 USD, một số được dùng để mua đồ nữ trang bằng vàng và quần áo cưới cho Amal. Anh họ của cô sau này nhớ lại: “Chúng tôi đồng ý cho ông ấy cưới Amal vì chúng tôi biết rằng bin Laden là một  người Hồi giáo tốt, rất sùng đạo, nhưng chúng tôi không biết nhiều hơn nữa,” và nói thêm rằng của hồi môn là “rất khiêm tốn.” (Điều này không mấy ngạc nhiên đối với ai từng làm việc với ông. Giống như con cái một số gia đình giàu có, ông ta nổi tiếng là dè sẻn.)

Năm 2000, cô dâu trẻ hào hứng cùng với một số người thân nam giới đã thực hiện chuyến hành trình dài từ Yemen đến Kandahar, miền nam Afghanistan nơi bin Laden đang sinh sống. Tại đó, bin Laden đã tổ chức một bữa tiệc cưới có rất đông người tham dự – tất nhiên là toàn nam giới – trong đó các bài thơ chúc tụng được ngâm nga, những con cừu non bị giết thịt để đãi khách, và những loạt”đạn hạnh phúc” được bắn lên không trung. Bọn phụ nữ cũng có bữa tiệc riêng khiêm tốn hơn.

Ban đầu, các bà vợ khác của bin Laden rất tức giận về người phối ngẫu mới của ông ta, chỉ mới mười bảy tuổi. Bin Laden đã nói với gia đình rằng Amal là một phụ nữ “đã trưởng thành” ở tuổi ba mươi, thuộc lòng kinh Koran. Không rõ liệu giáo sĩ Yemen, người sắp xếp cuộc hôn nhân, chỉ đơn giản là đánh lừa bin Laden, hay liệu bin Laden đang nói dối những bà vợ khác của mình. Chỉ huy đám vệ sĩ  của Bin Laden nhớ lại rằng trong những ngày đầu sống chung với Amal, ông chủ của y cảm thấy “kéo theo cuộc hôn nhân thứ tư này chẳng khác mang lấy xiềng xích”, mặc dù cảm xúc của bin Laden sau đó sẽ thay đổi.

Cha của Amal đã đi từ Yemen đến Afghanistan để trông chừng con gái mình khoảng một năm trước vụ tấn công 11/9. Sau khi chờ đợi ở Pakistan, nơi các thành viên al-Qaeda dường như đang kiểm tra xem liệu ông ta có bị theo đuôi hay không, và sau đó trải qua một chuyến đi quanh co qua Afghanistan, ông ta được đưa đến một ngôi nhà nằm trong hệ thống hang động nơi con gái ông có thể đang trú ngụ ở vùng núi Tora Bora, phía đông Afghanistan. Vào ngày thứ hai của chuyến thăm, con rể ông ghé qua. Bin Laden, người đang mang súng, có vẻ bồn chồn và lo lắng sợ bố vợ mình có thể là một loại gián điệp nào đó.

Bin Laden chiêu đãi bố vợ bằng các câu chuyện về những vụ ám sát khác nhau mà ông đã sống sót qua. Khi những giai thoại này kết thúc, ông cảm ơn cha vợ một cách nồng nhiệt vì đã nuôi dạy con gái mình một cách tốt đẹp, nói rằng: “Cảm ơn vì sự dưỡng dục tuyệt vời này. Tôi không mong đợi một sự dưỡng dục tốt như thế này. Cô ấy giống tôi.” Bin Laden hào phòng, giết một con bò đực để chào mừng chuyến viếng thăm của bố vợ. Và Amal, giờ đã hoàn toàn biết mình đã kết hôn với ai, nói với cha rằng cô muốn trở thành một người tử vì đạo bên cạnh bin Laden.

Khi còn là thiếu niên, Amal đã thổ lộ với một người anh họ của mình rằng khi lớn lên, cô muốn “đi vào lịch sử”. Anh họ của cô vặn lại, “Lịch sử của em là ở trong nhà bếp,” Amal đáp lại một cách cay đắng, “Ý anh là lịch sử chỉ dành riêng cho bọn đàn ông các anh à?” Bây giờ, với bin Laden là chồng, cô đã có cơ hội thực sự để có một vị trí trong sách lịch sử, một cơ hội mà một thị trấn vô danh trong vùng nông thôn Yemen sẽ không bao giờ tạo ra được.

Bin Laden kết hôn với Amal khi ông 43 tuổi, nhưng cách biệt tuổi tác 26 năm không cản trở cho điều dường như là một kết hợp tình yêu thực sự.  Con đầu lòng của họ, Safia, ra đời khoảng một năm trước cuộc tấn công 11/9. Bin Laden kể với người quen mình đặt tên con gái theo tên Safia, một người ở thế kỷ thứ bảy cùng thời với nhà tiên tri Mohammed và đã giết một người Do Thái. Ông ấy giải thích rằng mình hy vọng con gái Safia của ông lớn lên cũng sẽ giết bọn  Do Thái. Amal tiếp tục sinh thêm 4 đứa con, trong đó có 2 đứa sinh ra ở Abbottabad.

Cuộc sống gia đình của ông ở Abbottabad là nguồn an ủi thực sự cho bin Laden, vốn tin tưởng sâu sắc rằng chế độ đa thê và việc sinh sản là nghĩa vụ tôn giáo. Với những bạn nam thân thiết của mình, ông ấy thường lặp lại câu nói của Nhà tiên tri Mohammed: “Hãy kết hôn và sinh sôi vì nhờ đó, ta sẽ gia tăng dân tộc [người Hồi giáo].” Với những người bạn khác, ông nói đùa: “Tôi không hiểu tại sao người ta chỉ lấy một vợ. Nếu bạn lấy bốn vợ thì bạn sống như ông quan.” (Đây dường như là câu đùa duy nhất của bin Laden được ghi lại.)

Cuộc sống ở khu nhà Abbottabad chắc chắn không hề xa hoa, nhưng đối với Amal, nó không khác mấy so với cuộc sống cô từng biết khi lớn lên ở vùng nông thôn Yemen. Để tiêu thụ thịt, hơn chục thành viên trong gia đình bin Laden – cùng với người Kuwait tin cẩn, anh trai y và gia đình họ – sống bằng hai con dê mỗi tuần, chúng bị giết thịt ngay trong khu nhà. Sữa đến từ các con bò được nuôi nhốt trong chuồng gạch, trứng thu hoạch từ khoảng một trăm con gà mái được nuôi nhốt trong lồng, mật ong trong tổ, rau củ,  như dưa chuột, được thu hoạch từ khu vườn bếp thênh thang. Sản phẩm cây nhà lá vườn này được bổ sung bằng các lon dầu ô liu Sasso và hộp Yến mạch Quaker mua tại địa phương.

Chế độ ăn uống của họ tương đối đạm bạc, còn quan hệ xã hội của họ thì không tồn tại. Bị ngăn cách với những ngôi nhà khác bởi những cánh đồng xanh mượt, khu nhà chỉ có thể đến được bằng một con đường đất. Những bức tường cao 12 bộ, giăng dây thép gai và lắp camera an ninh của khu nhà khiến nó trông giống như một nhà tù có an ninh tối thiểu và chẳng chút  khuyến khích các cuộc thăm viếng bình thường. Nếu lũ trẻ hàng xóm vô tình vụt một quả bóng cricket qua các bức tường của khu nhà, chúng được đưa cho 50 rupee (sáu mươi xu) và bảo mua quả bóng mới. Nếu chúng lấy hết can đảm để gõ cổng chính của khu nhà, háo hức muốn chơi với các đứa trẻ sống bên trong, chúng sẽ phải  gõ cửa đến mười hoặc hai mươi phút trước khi có ai đó bước ra.  Nếu các đứa trẻ cuối cùng có ló mặt ra, chúng cũng không hề tiết lộ danh tính. Chúng đặc biệt rất ngoan đạo, luôn dừng cuộc chơi khi nghe tiếng loa báo giờ cầu nguyện phát ra từ ngôi nhà thờ Hồi giáo gần đó.

Bên trong những bức tường của khu nhà chỉ trơ trọi một màu vôi sơn, và,  phù hợp với một người theo đức tin cơ yếu cực đoan như bin Laden, cũng không treo tranh ảnh nào. Nhà không lắp máy điều hòa và chỉ có một số ít máy sưởi gas thô sơ – một khu vực mà mùa hè có thể lên đến 100 độ F. còn mùa đông nghĩa là tuyết. Kết quả là, hóa đơn điện và gas cho khu nhà với kích cỡ của nó và khoảng 20 nhân khẩu tốn không bao nhiêu, trung bình khoảng 50 đô la một tháng. Giường dành cho các thành viên khác nhau trong gia đình làm bằng những tấm ván ghép vào nhau. Như thể các cư dân của khu nhà đang sống tại một khu cắm trại tạm bợ dù lâu dài.

Sống một cuộc sống khắc khổ không phải là điều gì mới mẻ đối với gia đình bin Laden. Trong nhiều thập niên, vị thủ lĩnh của al-Qaeda đã theo đuổi một lối sống để sinh tồn, từ chối mọi tiện nghi của cuộc sống hiện đại. Khi bin Laden chuyển đến vùng đất Sudan nóng như thiêu đốt, ông khẳng định rằng gia đình mình không cần máy điều hòa, và sau đó khi chuyển đến vùng sa mạc Kandahar, khu nhà của gia đình thậm chí không có nước sinh hoạt. Một chiến binh người Libya từng thân cận với bin Laden nhớ lại thủ lĩnh của al-Qaeda đã nói với những người theo ông ta:

“Các bạn nên học cách hy sinh tất cả mọi thứ từ cuộc sống hiện đại như điện, điều hòa, tủ lạnh, xăng dầu. Nếu sống xa hoa thì việc di tản lên núi chiến đấu là điều rất khó khăn”.

Ngoại trừ một trong những con trai của người đưa tin đang theo học tại một trường đạo, tất cả những đứa trẻ khác sống trong khu nhà đều không được đến trường, vì vậy hai bà  vợ lớn tuổi của bin Laden, đều là học giả, đã dạy chúng những điều hay ho của tiếng Ả Rập và kinh Koran trong phòng ngủ trên tầng hai của tòa nhà chính, dùng làm lớp học tạm thời. Sử dụng một bảng trắng, hai người vợ thường xuyên tổ chức các bài kiểm tra kiến ​​thức cho bọn trẻ, và bin Laden, người tự cho mình là một nhà thơ, đã dạy chúng làm thơ. Và hầu như mỗi ngày, bin Laden, một người có kỷ luật nghiêm khắc, đều nói chuyện trước cả gia đình mình về cách nuôi dạy trẻ em, vạch ra những điều nên làm và không nên làm đối với các thành viên trong gia đình, đồng thời thuyết giảng một đề tài về tôn giáo.

Bin Laden từ lâu đã suy nghĩ nghiêm túc về cách tốt nhất để thực hiện cuộc sống đa thê mà nơi ẩn náu ở Abbottabad mang lại cho mình. Khi còn là sinh viên đại học, ông từng cõ những cuộc thảo luận kéo dài với người bạn thân nhất của mình về việc làm sao quản lý đúng cách khi có nhiều hơn một người vợ và đúng với “con đường Hồi giáo” kính sợ Chúa. Hai người bạn đã đồng ý rằng họ nhất quyết không đi theo con đường của cha ruột bin Laden, cứ liên tục ly hôn và tái hôn – rất nhiều lần cho đến cuối cùng ông ta có đến khoảng hai mươi bà vợ. Các người bạn nhớ lại bin Laden từng nói rằng mình sẽ chỉ kết hôn bốn bà vợ vốn được Hồi giáo thừa nhận và sẽ đối xử tuyệt đối bình đẳng với từng người. “Bạn phải  đối xử cho công bằng với mọi bà vợ, bạn phải chia thời gian, cho mỗi người những gì vừa đủ với họ”, hai người bạn đều đồng tình.

Do tuổi cao và tính khí nghiêm khắc, bà vợ lớn tuổi nhất, Khairiah, là người có địa vị cao nhất, nhưng giữa các bà vợ của bin Laden ít xảy ra xung đột. Tất cả họ đều kết hôn với ý thức rằng đó là sự sắp đặt, một chế độ đa thê mà họ tin rằng đã được Chúa chấp thuận. Để đảm bảo sự hòa hợp – dù ở Ả Rập Saudi vào những năm 1980, Sudan vào đầu những năm 90, hay sau đó là ở Afghanistan và Abbottabad – bin Laden đã tạo ra một không gian sống tận tụy  dành cho các bà vợ trong mọi ngôi nhà của mình. Trong khu nhà Abbottabad, mỗi bà vợ đều có căn hộ riêng với nhà bếp riêng (có hệ thống xả khói không gì khác hơn là một chiếc xô kim loại lộn ngược treo lơ lửng trên bếp lò, với những đường ống thô sơ dẫn mùi nhà bếp ra bên ngoài). Tầng ba của tòa nhà chính là lãnh địa của Amal, trong khi ở tầng bên dưới cô có hai người vợ lớn nhiều tuổi hơn.

Đối với một người duy trì quan điểm cực đoan về vai trò đúng đắn của phụ nữ trong xã hội, bin Laden đã dành cho các vợ mình ít nhiều tôn trọng, nói với họ rằng nếu họ thấy cuộc sống thánh chiến của ông quá gian khổ, họ có thể rời bỏ ông. Ông tán thành trích dẫn câu kinh Koran “Vợ chồng nên sống bình đẳng với nhau, hoặc chia tay trong hòa khí.” Và chưa bao giờ ông lớn tiếng quát tháo vợ, có lẽ bởi vì ông vốn tôn trọng phụ nữ qua hình ảnh của người mẹ. Là con một của bà, ông có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với mẹ mình. Dù trưởng thành, ông vẫn khăng khít với mẹ, hôn tay chân bà bất cứ khi nào ông gặp mặt bà, và (khi còn có thể) ông vẫn thường xuyên gọi điện cho mẹ để nói chuyện phiếm, như hỏi  bà đang nấu món gì ngày hôm đó.

Manh mối về việc làm thế nào mà bin Laden 54 tuổi có thể cho mỗi người vợ “những gì vừa đủ cho cô ấy” có thể là nước xi-rô Avena – một loại Viagra tự nhiên làm từ yến mạch hoang dã – được tìm thấy tại khu nhà. sau khi ông chết. Vì bin Laden từ chối tiêu thụ hóa chất dưới mọi hình thức nên bất kỳ loại thuốc nào ông uống đều được làm từ thảo dược hoặc các nguồn gốc tự nhiên khác.

Mặc dù cùng sống trong khu nhà ở Abbottabad với bin Laden, nhưng người đưa tin thân tín của ông ta là “người Kuwait”, anh trai của người Kuwait, cùng vợ con của họ vẫn sống trong cảnh nghèo khó cùng cực. Bin Laden trả cho người đưa tin và anh trai y khoảng 12.000 rupee mỗi tháng, hơn 100 USD một chút, nói lên không chỉ tính keo kiệt thường lệ của bin Laden mà còn phản ánh thực tế là ngân quỹ  của al-Qaeda gần như cạn kiệt. Trong các cửa hàng trang sức ở Abbottabad và thành phố Rawalpindi gần đó, hai anh em thỉnh thoảng mua bán vòng tay và nhẫn vàng với tổng trị giá khoảng 1.500 đô la. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc làm thêm  này đã giúp họ xoay sở đủ sống.

Một ngôi nhà một tầng khiêm tốn là nơi ở của người Kuwait và gia đình ông. Một bức tường cao bảy bộ  ngăn cách nó với ngôi nhà chính nơi bin Laden sống. Vợ của người Kuwait, Mariam, hiếm khi vào nhà lớn ngoại trừ để dọn dẹp; chỉ một lần, vào mùa xuân năm 2011, bà thoáng nhìn thấy một người đàn ông cao lớn, xa lạ nói tiếng Ả Rập trong ngôi nhà lớn. Chồng bà đã giải thích với bà nhiều năm trước rằng có một người lạ sống trong khu nhà và đã dặn bà đừng bao giờ được nói về ông ta. Bin Laden thậm chí còn tránh mặt với một số người sống trong khu nhà riêng của mình.

Trong nơi trú ẩn trên tầng cao nhất của mình, bin Laden tận hưởng những ngày tháng bên Amal. Những bức tường quét vôi trắng và những cửa sổ kính lớn chỉ nhìn ra ban công hẹp có tường cao khiến mọi thứ trong phòng ngủ của họ tương đối sáng sủa, nhưng không gian lại chật chội đối với một người đàn ông cao lớn như bin Laden. Trần phòng ngủ thấp, cao không quá 7 bộ. Một phòng tắm nhỏ xíu ở bên cạnh có tường lát gạch màu xanh lá cây nhưng sàn lại không lót gạch; một nhà vệ sinh thô sơ không khác gì một cái hố trên mặt đất mà họ phải ngồi xổm trên đó; và một vòi sen nhựa rẻ tiền. Trong phòng tắm này, bin Laden thường xuyên bôi thuốc nhuộm Just for Men lên tóc và râu của mình để cố gắng duy trì vẻ ngoài lịch sự, trẻ trung giờ đây khi đã ngoài ngũ tuần. Bên cạnh phòng ngủ là một căn bếp có kích thước bằng một cái tủ quần áo lớn, và phía bên kia hành lang là phòng làm việc của bin Laden, nơi ông xếp sách vở  trên những chiếc kệ gỗ thô sơ và gõ nhẹ vào máy tính.

Khu sinh hoạt chật hẹp ở Abbottabad phần nào mô phỏng lại nơi ẩn náu ở miền quê của ông ở vùng núi Tora Bora, một ngôi nhà bằng bùn khiêm tốn mà ông tự tay xây và sống ở đó vào nửa cuối năm 1996 và vài tháng đầu năm 1997. Chính ở đó, bin  Laden có vẻ hạnh phúc nhất. Ở Tora Bora, khoảng ba giờ’ lái xe gập ghềnh từ thành phố nhỏ gần nhất, ông và những tùy tùng thân cận nhất đã tự trồng trọt, tự nướng bánh mì và sống quay về với thiên nhiên. Ở nơi đây, bin Laden được tự do dạo chơi khắp các vùng núi, hít thở không khí trong lành trên núi cao, điều mà ông tâm sự với những người đến viếng thăm là một trong những điểm khiến ông hài lòng nhất.

Ở Abbottabad, bin Laden lúc này buộc phải rủ rú  trong nhà và tất nhiên có rất nhiều thời gian để giết. Ông gần như chắc chắn vẫn duy trì các hoạt động tôn giáo như khi còn trẻ, thức dậy trước bình minh và cầu nguyện bảy lần một ngày, nhiều hơn gấp đôi so với bắt buộc bình thường trong truyền thống Hồi giáo giáo tr. Là một người nghiện tin tức, ông ta theo dõi sát sao đài truyền hình Al Jazeera và đài BBC. Trong căn phòng trống ở tầng trệt ngôi nhà, ông ngồi thu lu, quấn chăn chống chọi với cái lạnh mùa đông, xem đi xem lại những video cũ của mình trên chiếc TV rẻ tiền. Ông cũng theo dõi các cuộc họp báo do tổng thống Mỹ đáng ghét Barack Obama tổ chức, người mà các thủ lĩnh của al-Qaeda cũng coi thường như đối với Tổng thống George W. Bush. Cấp phó hàng đầu của Bin Laden, Ayman al-Zawahiri, đã công khai gọi Obama là “tên da đen gia nô”, ngụ ý rằng ông ta chỉ là một nô lệ được bọn chủ da trắng đối xử tốt hơn  một nô lệ quần quật trên đồng ruộng.

Bin Laden đã dành phần lớn thời gian rảnh rỗi bắt buộc của mình để viết về nhiều chủ đề khác nhau, đặc biệt là Palestine, cũng như về môi trường và nền kinh tế toàn cầu. Và ông ta ngấu nghiến những cuốn sách thù địch với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, với những tựa sách như Rogue State: A Guide to the World’s Only Superpower (Nhà nước Lừa đảo: Cẩm nang về Siêu cường Duy nhất trên Thế giới.) Bin Laden đặc biệt thích cuốn Imperial Hubris: Why the West Is Losing the War on Terror (Tính Ngạo mạn Đế Quốc: Tại sao phương Tây đang Thua Trận chiến chống Khủng bố), một tác phẩm phê phán gay gắt chính sách đối ngoại của Bush, mỉa mai thú vị thay, được chấp bút bởi Michael Scheuer, người từng lãnh đạo đơn vị bin Laden của CIA và đã dành nhiều năm tập hợp thông tin tình báo để lùng sục và tiêu diệt bin Laden. Bin Laden bị ám ảnh về vấn đề Palestine ngay cả khi ông còn ở tuổi thiếu niên, vì vậy những cuốn sách phê phán Israel của Tổng thống Jimmy Carter và các nhà khoa học chính trị Mỹ Stephen Walt và John Mearsheimer cũng có mặt trong danh sách đọc của ông.

Đó là một cuộc nghỉ hưu thoải mái, dù có phần tù túng, đối với thủ lĩnh al-Qaeda. Ông ta có thể tận hưởng sở thích đọc sách và theo dõi tin tức của mình, và tất nhiên tiếp tục tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên lý của đạo Hồi. Ông được quây quần bên ba bà vợ và nhiều con cái mà ông yêu quý. Đối với một kẻ chạy trốn bị truy nã gắt gao nhất thế giới, đó không phải là một cuộc sống tồi tệ. Không tệ chút nào.

Bình luận về bài viết này