
Hình 1. Mê Linh, kinh đô thời Trưng Vương
Nguyễn Triệu Đồng
Trong Lịch Sử nước ta, kỷ Trưng Nữ Vương (40-43 sau CN) tuy ngắn ngủi trong thời gian nhưng là cái mốc quan trọng vì là bước đầu tiên trên con đường đi đến độc lập. Trong ký ức dân tộc, chúng ta đều biết là tướng nhà Hán Mã Viện, sau khi thắng trận, đã cho dựng một cột đồng để ấn định ranh giới. Trong bài này, chúng tôi liệt kê một số tài liệu ghi chép về nơi dựng cột đồng, khả năng cột đồng nay vẫn còn, và đề nghị một phương pháp thân thiện với môi trường là dùng máy dò để phát hiện một khối lượng đồng dưới mặt đất.
(Chữ viết nghiêng được trích từ sách trong thư mục)
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên,
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên-thành
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
Cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc, Trưng Nhị vào năm Canh Tý 40 (sau CN, Hán Kiến Vũ năm thứ 16) đã thành công rực rỡ vì chỈ trong một thời gian ngắn, đã duổi Thái Thú Tô Định chạy về nước, và nhận được sự hưởng ứng của các quận Nam Hải, Hợp Phố, Cửu Chân, Nhật Nam và của 65 tỉnh thành của Lĩnh Nam. Bà Trưng Trắc tự xưng làm vua và đóng đô ở Mê Linh.
Ngay đầu năm sau, Tân Sửu 41, nhà Hán đã huy dộng binh mã sang xâm lược Giao Châu, dưới sự chỉ huy của Mã Viên và Luu Long. Giao tranh ác liệt giũa quân ta và quân Hán (đặc biệt là trận đánh ở Lãng Bạc) trong hơn một năm đã kết thúc với sự thắng trận của quân Hán.
Tới dầu năm Quý Mão 43, hai bà thua trận, bèn tự vẫn trong sông Hát, gần nơi nước từ sông Hồng chẩy vào sông Đáy hiện nay Đó là ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão. Nơi này vẫn còn đền Hát Môn thờ Hai Bà.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao,
Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế phải liều với sông ! [1]
Một số quân sĩ của Hai Bà dưới sự chỉ huy của Đô Dương đã rút lui về phía Ninh Bình, Thanh Hóa để tiếp tục cuộc kháng chiến. Bị truy đuổi, đến cuối năm 43, họ phải đầu hàng Mã Viện ở Cư Phong (thuộc huyện Như Xuân, Thanh Hóa ngày nay).
Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. (Cột đồng tương truyền ở trên động Cổ Lâu, châu Khâm). Viện có câu thề : » Cột đồng gãy thì Giao Châu diệt ». Người Việt ta đi qua dưới cột ấy, thường lấy đá chất vào, thành như gò đống, vì sợ cột ấy gãy [2].
Tuy triều đại Trưng Vương chỉ tồn tại 3 năm trong nghìn năm Bắc Thuộc, nhưng Sử Việt đã để riêng một kỷ để viết về thời gian này. Và các sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên đã ca ngợi Trưng Vương và nêu lên tầm quan trọng của triều đại này. Còn dân gian thì đến nay vẫn còn tưởng nhớ Hai Bà qua lễ hội được tổ chức hằng năm ở ba ngôi đền lớn là đền Mê Linh, đền Hát Môn và đền Hà Nội. Ngoài ra, còn cả hơn 100 đền nhỏ hơn rải rác ở đồng bằng sông Hồng dể ghi lại tên tuổi của Hai Bà hoặc tướng lĩnh của Hai Bà. Điều này nói lên ảnh hưởng sâu đậm của thời đại Trưng Vương trong ký ức dân gian của Việt Nam.
Những ghi chép về Cột Đồng Mã Viện.
A. Trong Đai Việt Sử Ký Toàn Thư.
A1.- Năm 542, cuộc khởi nghĩa của Lý Bí thành công, quân ta quét sạch chế độ đô hộ của nhà Lương, và kết thúc thời Bắc Thuộc lần thứ hai (43-544). Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế, tuyên bố dựng nước và đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Năm 571, Lý Phật Tử sau khi đánh duổi được Triệu Việt Vương, thì xưng đế hiệu và lên ngôi ở Phong Châu (Vĩnh Yên ngày nay). Đến năm 602, vua Tùy Văn Đế bên Tầu thống nhất được nước Tầu, và sai tướng là Lưu Phương sang đánh Nam Việt. Lưu Phương dụ vua Nam Việt về hàng. Lý Phật Tử sợ không địch nổi bèn xin về hàng. Nước ta lại rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba (603-939).
Năm 605, vua Tùy sai Lưu Phương sang đánh Lâm Âp (tức là Chiêm Thành). Lưu Phương hành quân dọc bờ biển Nghệ An. Hà Tĩnh, Quảng Trị. Quân của Phương và quân Lâm Ấp giao chiến. Quân Lâm Ấp thua to, bỏ chạy.
Phương tiến quân đuổi theo, mấy trận đều được cả, qua phía Nam cột đồng Mã Viện, đi tám ngày nữa đến quốc đô Lâm Ấp.
(ĐVSKTT, tập I, trg 187)
Như vậy, tới năm 605, cột dồng vẫn còn. Quốc đô Lâm Ấp thời đó là Indrapura (Đà Nẵng hiện nay).
A2.- Mã Tổng, vào thời nhà Đường bên Tầu (618-907) đã sang Nam Việt và cho dựng hai cột đồng để chứng tỏ mình là dòng dõi của Mã Viện :
Mã Tổng nhà Đường lại dựng hai cột đồng ở chỗ cũ của nhà Hán ghi công đức của Mã Viện để tỏ ra mình là dòng dõi của Phục Ba, nay chưa rõ ở chỗ nào. Hai sông Tả Giang, Hữu Giang, mỗi nơi có một cột.
(ĐVSKTT, tập I, trg 157)
Như vậy, đến thời nhà Đường bên Tầu (618-907), cột đồng vẫn còn.
A3.- Năm 1272, dưới triều đại Trần Thánh Tông của Đại Việt, nhà Nguyên bên Tầu có hỏi về giới hạn cột đồng cũ :
Mùa hạ, tháng 4, sứ Nguyên Ngột Lương (Uriyang) sang dụ, hỏi giới hạn cột đồng cũ. Vua sai Viên ngoại lang Lê Kinh Phu di hội khám. (Phu) trở về nói rằng, cột đồng Mã Viện dựng, lâu năm đã bị mai một, không còn tung tích gì nữa.
(ĐVSKTT, tập II, trg 39).
Như vậy, đến năm 1272, ta đã mất tung tích của cột đồng.
B . Trong Đại Nam Nhất Thống Chí [3].
Viết về núi Hùng Sơn ở tỉnh Nghệ An:
Núi Hùng Sơn: ở cách huyện Hưng Nguyên 18 dặm về phía Nam, xưa gọi là núi Tuyên Nghĩa, lại có tên là núi Đồng Trụ, núi Lam Thành, núi Nghĩa Liệt ở giữa đồng bằng, nổi vọt lên thành một dãy cao lớn hùng vĩ trông ra sông Lam…
C.- Trong Bài về “Nguyễn Biểu, một gương nghĩa liệt” của Hoàng Xuân Hãn [4].
Núi Nghĩa Liệt là một quả núi bé và cao không quá 170 thước tây, đột khởi ở phía Nam thành Vinh, trên bờ bắc sông Lam Giang, gần chỗ hai ngọn nguồn đổ dồn lại. Ngọn núi này có nhiều tên: Hùng Sơn, Tuyên Nghĩa Sơn, Đồng Trụ Sơn, Lam Thành Sơn. hay Rú Thành hoặc tên Nôm hẳn là Rú Rum.
Theo lời Bùi Dương Lịch, trong sách Nghệ An Chí, thì Mã Viện dựng cột đồng ở núi này, là chỗ giới hạn nước ta hồi bấy giờ. Nói như thế cũng có lẽ phải.
D.- Trong Việt Nam Sử Lược [5].
Sử chép rằng người Giao Chỉ đi qua lại chỗ ấy, ai cũng bỏ vào chân cột đồng trụ một hòn đá, cho nên về sau chỗ ấy thành ra núi, phủ mất cả, đến bây giờ không biết cột ấy ở vào chỗ nào.
E.- Trong bài “Les colonnes de bronze de Mã Viện’’ của Đào Duy Anh [6]
(Bài viết bằng tiếng Pháp). « Dans cette dernière localité, nous avons constaté que le Núi Thành situé à une dizaine de kilomètres au Sud-Ouest de Vinh sur la rive gauche du Lam-giang répond à peu près aux indications données par le Ngô-lục et le Tùy-thư sur l’emplacement des colonnes de bronze. Cette présomption est renforcée par les traditions locales qui ont donné à cette colline l’appellation significative de Núi Đồng-Trụ ou « Mont des colonnes de bronze » (Trong tỉnh này, chúng tôi thấy có Núi Thành, ở phía Tây Nam Tp Vinh khoảng 10 km, và bên bờ trái sông Lam, có vị trí thích hợp với chỉ dẫn viết trong Ngô Lục và Tùy Thư. Giả thuyết này được củng cố với phong tục địa phương gọi đồi này là núi Đồng Trụ hay núi có cột đồng)

Hình 2. Đồi Rú Thành (Rú Rum) : Nơi có thể còn cột đồng.

Hình 3. Rú Thành, với cao độ Z*5, nhìn từ phía Đông
Lời kết.
Như vậy, theo các tài liệu lịch sử đã dẫn, thì chắc chắn nơi Mã Viện đã dựng cột đồng là núi Rú Thành, hay Rú Rum. Vì trong quá trình lịch sử, ngọn núi đó đã có tên là núi Đồng Trụ hay Đồng Trụ Sơn. Hôn nữa, vị trí của núi này rất phù hợp với sự kiện năm 605, Lưu Phương đưa quân di đánh Lâm Ấp thì đi về phía Nam cột đồng Mã Viện. Hơn nữa, núi đó lại ở quận Nhật Nam, và được Mã Viện chọn lựa để đánh dấu mốc cực Nam của đế chế nhà Hán. Vì lời nguyền của Mã Viện, nên dân Giao Chỉ khi qua lại cột đồng bỏ vào một hòn đá, và dần dần phủ kín cột đồng. Nên theo người viết, có khả năng là hiện nay cột đồng vẫn còn, ở trong núi Rú Thành, khoảng 10 km phía Nam Tp Vinh, trên bờ Bắc sông Lam. Tôi đề nghị một cách phát hiện một khối lượng đồng dưới đất, không cần đào bới đất và chặt cây rừng. Chỉ một khi chắc chắn là có một khối lượng đồng dưới mặt đất, thì chúng ta mới nên làm công tác khảo cổ đào bới đất để tìm cột đồng.
Sau chiến tranh, một số bom đạn chưa nổ thường được tìm thấy khi ta cần xây dựng công trình trên vùng dất trước là chiến địa. Máy dò bom đạn [7] là công cụ phổ biến của công binh trên chiến trường . Chúng ta có thể dùng loại máy này để phát hiện cột đồng. Nhất định là vùng Rú Thành đã chứng kiến những giao tranh ác liệt giữa những đoàn xe tiếp viện của ta và mưa bom và bão dạn pháo hải quân chặn đường của dịch, trong những năm cuối của thập kỷ 1960 và đầu thập kỷ 1970, thì khả năng máy dò phát hiện bom đạn chưa nổ là rất lớn.
Trong bài viết này, khi đưa ra những nhận xét và ý kiến về cột đồng thời Hai Bà Trưng, nhất định là chúng tôi hị vọng là chúng ta sẽ tìm ra cột đồng này. Vì đây chắc chắn đây là một di tích lich sử vô giá.
Không những cột đồng là một di tích lịch sử vô giá, mà cả những viên đá nhỏ mà người dân Việt đã dùng để chèn giữ cột đồng cũng là di tích lịch sử vô giá. Vì những viên đá ấy đã nói lên khát vọng của người Việt giữ vững đất nước, trước chúng ta đã gần 2000 năm.
Pháp, Quý Mão 2023
Thư Mục
[1] Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca. 1870
[2] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1993; tập 1, trg 156, 157
[3] Đại Nam Nhất Thống Chí. NXB Thuận Hóa, Huế 2006. Tập 2, trg 181,182
[4] Hoàng Xuân Hãn. Hồ Xuân Hương, thiên tình sử. NXB Văn Học, 2002, trg 27,28.
[5] Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. NXB Miền Nam 1971, tập 1, trg 41
[6] Đào Duy Anh. Les colonnes de bronze de Mã Viện. Bulletin des Amis du Veux Hue. N°43-4. 1943, trg 349-360
[7] Wikipédia : Détecteur de métaux.
Công cụ kỹ thuật.
1.- Hình 1. Lấy từ ảnh LandSat, chụp ngày 08/02/2019.
2.- Hình 2 và 3. Cao độ Z đo bởi chương trình SRTM (Shuttle Radar Topography Mission) năm 2000. Xử lý số liệu với phần mềm MatLab.
Vẽ trên bản dồ với phần mềm QGIS (QuanTum GIS).