
Viên Như
Tiếp theo phần trước
I . THÔNG TIN VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT Ở GIAO CHỈ
Mở đầu phần Ngoại kỷ, Đại Việt sử ký toàn thư (TT) viết:
按 黄 帝 時 建 萬 國 以 交 趾 界 於 西 南 遠 在 百 粤 之 表 . 堯 命 𦏁 氏 宅 南 交 定 南 方 交 趾 之 地. 禹 别 九 州 百 粤 爲 楊 州 域 交 趾 属 焉. 成 周 時 始 稱 越 裳 氏 越 之 名 肇 於 此 云.
Xét: “Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hy thị đến ở Nam Giao để định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu thì Bách Việt thuộc phần đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị, tên Việt bắt đầu có từ đấy.”
So sánh với Kỷ Nhà Triệu, đoạn mở đầu này, với Kỷ Hồng Bàng và Kỷ Nhà Thục, có thể được viết vào thời Lý, vì vào thời điểm đó, giới tinh hoa Việt vẫn còn nắm rất rõ nguồn gốc người Việt. Đây là những thông tin mang tính vĩ mô, định hướng cho người Việt khi nghiên cứu về lịch sử cổ đại của dân tộc mình, bởi vì mục đích của cuốn Đại Việt sử ký là nói về lịch sử của người Việt, trong đó quan trọng nhất là nguồn gốc Việt, tộc người đã được chỉ ra ngay ở câu cuối của đoạn sử trên “Từ đời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị, tên Việt bắt đầu có từ đấy.” Qua đây ta biết người Việt có liên quan mật thiết với Hoàng Đế, Nghiêu, Phục Hy, Hạ Vũ, và gần nhất là nhà Chu. Đây là những con người đã đúc kết các quy luật Âm dương – Ngũ hành, làm nền tảng cho sự phát triển nền văn hóa cổ đại của Dương Tử và Trung Nguyên. Căn cứ vào thông tin này, ta có thể vẽ thành sơ đồ:

Thông tin này là cơ sở để hình thành vương quốc Xích Quỷ của Kinh Dương Vương 涇陽王, Kinh là sông Kinh, trong dịch học nó tương đương với sông Lạc, chảy từ tây nam tới đông bắc như hình minh họa, Dương là Châu Dương. Như vậy Kinh Dương Vương là vua của Châu Dương, có ranh giới là sông Kinh. Đồng thời nước của Hùng Vương cũng được thành lập trên cơ sở này, cụ thể ranh giới nước Văn Lang là: “Đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới hồ Động Đình, nam tới Hồ Tôn Tinh”, ranh giới này hoàn toàn chính xác trên sơ đồ dịch học và trên thực địa, tất nhiên nước Văn Lang này là nước Việt, của người Việt Thường thị. Như vậy, truyện họ Hồng Bàng là một cách mã hóa lịch sử, chứ không phải là hoàn toàn hư cấu.
Chữ thường 裳 trong Việt Thường thị 越 裳 氏, còn viết là 常 có nghĩa là đã từng, chuyện thường xuyên xảy ra trong quá khứ, nhưng giờ không còn nữa. Ví dụ: “Hồi ở Hà Nội, mỗi chiều tôi thường ra hồ Hoàn Kiếm chơi”, hay “Ngày ấy tôi vẫn thường liên lạc với nó”. Như vậy nghĩa của “Việt Thường thị” là người Việt ở Trung Nguyên vào thời điểm nhà Chu, trước đây đã từng ở Giao Chỉ, nhưng nay không còn ở đó nữa, trên con đường từ nam lên bắc, buổi đầu đã định cư và phát triển văn hóa ở tây nam, tức Ba Thục, phần châu Dương, họ chính là Hoàng Đế, vua Nghiêu, Phục Hy, Hạ Vũ, và nhà Chu.
Ta có ba thông tin khác liên quan đến tên Việt Thường thị:
TT chép:
- “Bấy giờ Thục Vương đắp thành ở Việt Thường, rộng nghìn trượng, cuốn tròn như hình con ốc, cho nên gọi là Loa Thành”
Đây chính là sự kết nối thông tin người Việt Thường thị của nhà Chu ở phần mở đầu, với người Việt ở Giao Chỉ vào thời điểm đó, nói cách khác, những người đắp thành Cổ Loa là người nhà Chu, giờ đây đang ở Giao Chỉ.
TT chép:
- Thời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN], nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà Chu, xưng là Việt Thường thị, hiến chim trĩ trắng. Chu Công nói: “Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không coi người ta là bề tôi của mình”, rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về nước.
Chính Chu Thành Vương đặt tên người Giao Chỉ là Việt Thường thị, vậy làm sao người Việt lại biết trước đó mà đến thời Chu Thành Vương, sang thăm nhà Chu, lại tự xưng “Việt thường thị” như trong truyện. Như thế câu chuyện sáng tác nhằm khẳng định Hùng Vương ở Giao Chỉ là người Việt thường thị nhà Chu.
- Sách Thông giám cương mục chép: Thái Bình ngự lãm (Tống – Lí Phưởng soạn): Thuật dị kí của Nhâm Phưởng chép: “Đời Đào Đường, có người nước Việt Thường đến hiến một con rùa thần. Trên lưng có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay, vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là lịch rùa”
Thông tin về Việt Thường thị này cũng vô lý như truyện “Hiến chim trĩ”. Bởi vì cái tên “Việt Thường thị” do Chu Thành Vương đặt ra, mà Đào Đường, tức vua Nghiêu, sống trước nhà Chu cả 1000 năm, thì người Nam lấy cái tên “Việt thường thị” ở đâu? Mặc dù có sự bất cập như vậy, nhưng rõ ràng nó đã được lưu truyền từ lâu, do đó ta có thể hiểu những người sáng tác ra câu chuyện này, gắn người “Việt Thường thị” vào đó, chủ yếu là nhằm xác định Nghiêu, vốn là người Việt, bởi vì Nghiêu là con của Đế Khốc với người đàn bà họ Trần Phong, như vậy Nghiêu là em của Hậu Tắc, tức Cơ Khí, thủy tổ của nhà Chu.
Thật ra tên Việt chỉ người Việt, đã có từ trước đó, tức là Việt 戉 cái búa, tuy nhiên ngày ấy người Việt chưa có nhu cầu khẳng định mình là một tộc người, để đối sánh với các tộc người khác, có thể vào thời điểm ấy, chưa có nhiều tộc người phát triển trong khu vực. Tuy nhiên, từ sau khi nhà Thương lấy ngôi nhà Hạ, vấn đề tộc người đã trở nên cần thiết, vì vậy sau khi nhà Chu làm chủ Trung Nguyên, họ cần phải xác định Việt là một tộc người, đại diện là nhà Chu, để đối lại với các tộc người khác đang tồn tại trong khu vực lúc bấy giờ. Đồng thời sáng tác ra chữ việt khác để chỉ người Việt, đó là chữ 越, nghĩa là vượt, tức là người Việt đã vượt từ nam lên bắc, tương thích với chữ chu 周, nghĩa là vòng quanh, khắp. Với chữ Việt này xác định Việt thường thị ở đây chính là nhà Chu, nếu không thì họ xác định và sáng tác ra con chữ để làm gì.
Như trước đã nói, tới thời điểm nước ta lấy lại tự chủ, người Việt vẫn nắm rất rõ thông tin về cội nguồn nhà Chu của mình, vì vậy, năm 968, Đinh Tiên Hoàng mới đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đây là lần đầu tiên ta xác định mình là người Việt, ngay trên nước Việt, thông tin này tương thích với thông tin được viết ngay từ đầu của TT mà tôi đã trích trên. Về sau, tư tưởng này được thể hiện qua những tác phẩm điêu khắc thời Lý, như cột đá chùa Dạm, tượng ông Sấm ở đền thờ thứ phi Ỷ Lan; Đặc biệt ở núi Chu Sơn 周山, thôn Cựu Tự 舊嗣, xã Ngọc Xá 玉舍, huyện Quế Võ 趹武 , tỉnh Bắc Ninh 北寧, tiền nhân đã cụ thể các phạm trù dịch lý, tượng trưng cho nguồn gốc người Việt theo truyền thuyết họ Hồng Bàng, bằng cụm công trình: tượng đá sừng dê, mình ngựa, đầu rắn, cách đó không xa là một trụ đá, bên dưới có cái giếng và đầm Thất Giang 七江.
Sừng dê, chỉ chi Mùi, hướng Tây nam, quẻ Thiên sơn độn, tức nguồn gốc “Rồng Tiên” của người Việt. Mình ngựa, chỉ chi Ngọ, quái Càn, hướng Nam, tức Lộc Tục. Đầu rắn chỉ chi Tỵ, hướng đông nam, đọc theo tháng là quẻ Thuần Càn, tức Kinh Dương Vương.
Phần trên của miệng rắn xẻ một chữ nhất, ý chỉ đó là tiến trình nhất dương động, bắt đầu từ chi Tỵ, quẻ Thuần Càn. Tiến trình đó sanh ra Cấn, người Kinh, tức trụ đá, được đẻo thành 8 mặt, thể hiện lý số 8 của quái Cấn, hướng đông bắc, Cấn vi tiểu thạch 艮為小石. Đầm Thất Giang 七江, chỉ quái Đoài, Đoài vi trạch 兌 為 澤. Thất là lý số 7, giang là sông, tức trục Hoành, như vậy Đầm Thất giang ý chỉ quái Đoài, lý số 7, hướng tây, theo Lạc thư, dưới núi có cái giếng, chỉ sao 井木犴, sao đầu tiên trong nhóm Chu Tước, phương nam, với cụm công trình này cho thấy truyện họ Hồng Bàng đã có, ít nhất là từ đời Lý. Tuy nhiên, đến đời Trần, hầu như những thông tin đó mất hẳn, chính vì vậy, cuối đời Trần, giới tinh hoa Việt mới cho ban hành cuốn Lĩnh Nam trích quái, trong đó truyện họ Hồng Bàng được xếp đầu tiên.
Hệ lụy của sự gián đoạn này là hơn nửa thể kỷ qua, giới nghiên cứu về thời kỳ tiền sử của nước Việt cho rằng, Hùng Vương Thục Phán, Văn Lang và Trưng (hai bà) là những cái tên thuộc về tộc người bản địa như Tày, Mường, cụ thể đó là Pò Khun, Túc Phắn, Klang Klao, Tlứng. Trong khuynh hướng này, nhân ngày sách Việt Nam 21/4/2021 Giáo sư sử học Lê Văn Lan đã nói trên truyền hình, (VĂN HÓA ĐÔNG SƠN – SÁNG TỎ VĂN MINH THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG) và được ghi lại vào báo viết, trong đó ông phủ nhận Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, chỉ trừ Hùng Vương, bằng cách đổ lỗi cho Ngô Sĩ Liên rằng, sau chiến thắng quá vinh quang trước quân Minh, người Việt, với tinh thần “vô tốn” không khiêm nhường, nhưng nhằm thể hiện lòng tự hào về lịch sử 4.000 năm của nước Đại Việt, đã sử dụng các nhân vật trong cuốn “Sưu thần ký” của phương bắc, để sáng tác ra truyện họ Hồng Bàng, một câu chuyện huyền hoặc, lơ mơ, làm cho Tự Đức, một ông vua hay chữ, gọi đó là “câu chuyện trâu, ma, rắn, thần.” Đặc biệt trong đó Giáo sư Lan đã giải thích rằng, (2:00 tập I) Hồng 鴻 là hồng hoang, hoang đường? Bàng 龐 là bàng thính, tức là ở bên cạnh? Đây là cách giải thích rất mới, vì không có cuốn tự điển nào hay ai đó đã từng giải thích hai từ Hồng Bàng 鴻 龐 như thế trước đây.
Như ta biết, Ngô Sĩ Liên và các cộng sự có bịa ra câu chuyện đó đâu, tất cả đã có trong Hồng Bàng thị truyện 鴻龐氏傳 của Lĩnh Nam trích quái, ông chỉ thuật lại thôi, nên cuối phần Kỷ Hồng Bàng, ông viết: “信 書 不 如 無 書 姑 述 其 舊 以 傳 疑 焉 – Tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi,” vì ông sợ người đời sau hiểu nhầm, nhưng rồi điều đó vẫn xảy ra.
Cũng trong khuynh hướng này, Liam C. Kelley, một học giả nước ngoài cho rằng, Hồng Bàng thị truyện là một sáng tạo truyền thống (invented tradition), do một lớp tinh hoa Việt bị Hán hóa, sáng tạo ra thời trung đại, từ đó người Việt biến cái không thành cái có của lịch sử, có nghĩa là Hùng Vương chỉ là kết quả của một sự tưởng tượng, quan điểm này đã được không ít người Việt có học ngưỡng mộ, tin, học và nói theo.
II . HÙNG VƯƠNG – KINH ĐÔ PHONG CHÂU LÀ HÙNG VƯƠNG LỊCH SỬ
Nhà Chu là triều đại dài nhất Trung Nguyên, kéo dài khoảng 800 năm, bắt đầu từ năm 1046 đến năm 256 TCN, vua nhà Chu chính thống cuối cùng là Chu Noãn Vương (235 – 258 TCN). Có thể nói văn hóa của Trung Nguyên hầu hết được hình thành từ thời nhà Chu, trong đó có Tứ thư, Ngũ Kinh, chính nhà Chu là triều đại đã hoàn thiện hệ thống chữ viết, tức chữ Nho.
Cuối đời Chu, nhà Tần dần thôn tính cả Trung Nguyên, tiêu diệt Thục, Chu, qua chính sách “Phần thư khanh Nho”; san định lại sách vở, vốn viết theo trật tự chính phụ, theo trật tự ngôn ngữ phụ chính của họ, bỏ đi nhiều thông tin liên quan đến nguồn gốc người Việt, trong đó có phần lý thuyết hình thành hai cuốn kinh dịch, chỉ để lại Kinh thượng, và gọi đó là Chu dịch. Tất nhiên, tất cả những điều ấy con cháu nhà Chu hiểu rất rõ, cho nên trong giai đoạn lịch sử bi thương đó, một số tôn thất nhà Chu đã chạy về Giao Chỉ, quê hương xưa của nhà Chu, để tìm chốn nương thân, sau đó xưng vương, gọi là Hùng, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu 峰 州. Theo tôi, tên Phong Châu 峰 州 do Hùng Vương đặt ra khi về đến Giao Chỉ, nhằm gợi nhớ về đất Phong丰, kinh đô cũ của nhà Chu – Châu 周. Phong Châu 峯州 – Phong Châu 丰周, còn Hùng Vương và Văn Lang đã có trước đó trong truyền thuyết họ Hồng Bàng rồi.
Khang Hy giải thích chữ phong 丰 như sau: 丰. 毛氏曰:凡邦夆峰豐等字从此
Mao thị nói: Phàm các chữ như: Bang 邦, phong 夆峰豐 đều từ chữ 丰 mà ra.
邦,国也. Bang. Quốc (nước) vậy. 州,国也。Châu. Quốc (nước) vậy.
Khang Hy tự điển giải thích 峯州 như sau:
又州名。古夜郎地,隋置峯州,今屬安南 – Hựu châu danh. Cổ Dạ Lang địa, tùy trí Phong Châu, kim thuộc An Nam.
Tên vùng đất. Xưa là đất Dạ lang, tự ý gọi là Phong Châu, nay thuộc An Nam (Đây là lời của Đoàn Ngọc Tài. Đời Thanh.VN)
Tuy nhiên mấy thế kỷ qua, do bị hình ảnh truyền thuyết của truyện họ Hồng Bàng, cùng các truyện Sơn tinh, Thủy tinh, Kim quy, chi phối, nên người ta không phân biệt được Hùng Vương truyền thuyết với Hùng Vương lịch sử, cho dù điều đó không khó nhận ra. Cụ thể trước đây ta còn nghi ngờ sự có mặt của An Dương Vương và nước Âu Lạc, nay ta đã tìm ra thành Cổ Loa, có cả trống đồng và mũi tên, cả hai đều có khắc chữ Nho; đồng thời chính Triệu Đà đã xác nhận điều đó trong lời ông nói với Lục Giả: “Ở phía tây nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương.” Âu Lạc là nước của An Dương Vương, như vậy Triệu Đà, An Dương Vương là những con người lịch sử, tất nhiên Hùng Vương, nước Văn Lang, đất Phong Châu, phải là con người lịch sử, vì Âu Lạc là nước kế thừa từ Văn Lang, dĩ nhiên Hùng Vương lịch sử này có liên quan đến truyền thuyết họ Hồng Bàng và là hậu duệ của nhà Chu, nhưng chỉ có 1 đời, chứ không phải 18 đời như Hùng Vương ngọc phổ đã ghi.
III. NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN NHÀ CHU HẬU HÙNG VƯƠNG LỊCH SỬ
Vì Hùng Vương lịch sử và những người tùy tùng của ông là hậu duệ của nhà Chu, nên về sau, ở nước Việt, có rất nhiều thông tin liên quan đến nhà Chu như sau:
- Về văn hóa nhân gian:
Chẳng phải bỗng dưng mà hàng ngàn năm qua, người Việt vẫn truyền tụng câu thành ngữ “1 Chạp giêng 2” . Đây chính là cách nói gọn lịch Kiến Tý của nhà Chu.
“Ai về nhắn họ Hy Hòa, Nhuận năm sao chẳng nhuận vào trống canh”. Họ Hy Hòa tức Phục Hy, trống canh tức canh tư, canh năm, tương thích với chi Sửu – Chạp, Dần – Giêng theo lịch Kiến Tý của nhà Chu. Theo Nông lịch, cứ sau ba năm, năm thứ tư thì nhuận 1 tháng, và không bao giờ nhuận vào tháng Chạp, Giêng.
Hay truyền thuyết “Thánh Gióng” truyện “Trưng bính” đều viết: “Vua Hùng đánh giặc Ân, bình định giặc Ân.” Theo lịch sử thì chỉ có nhà Chu đánh giặc Ân.
- Về lịch sử:
Đại Việt sử ký toàn thư: Trở lên là kỷ Hồng Bàng thị, từ Kinh Dương Vương được phong năm Nhâm Tuất, cùng thời với Đế Nghi, truyền đến cuối thời vua Hùng Vương, ngang với đời Noãn Vương nhà Chu năm thứ 57 (258 TCN) là năm Quý Mão thì hết.
Giáp Thìn, năm thứ 1 (257 TCN), (Chu Noãn Vương năm thứ 58). Vua đã thôn tính được nước Văn Lang
Bính Ngọ, năm thứ 3 (255 TCN), (Đông Chu Quân năm thứ 1).
Nhâm Tý, năm thứ 9 (249 TCN), (Đông Chu Quân năm thứ 7); bấy giờ có bảy nước là Tần, Sở, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn, Tề). Năm ấy nhà Chu mất.
Việt sử lược: “Cuối đời nhà Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi rồi lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, lấy hiệu là An Dương Vương, rồi không cùng với họ Chu thông hiếu nữa”.
Ta còn có một thông tin nữa để khẳng định nhà Chu là người Việt, đó là Nữ Hoàng Đế Võ Tắc Thiên (624 – 705). Sau khi lên thay Đường Cao Tông Lý Trị, bà đã đổi Đường sang Vũ Chu, cho lập điện thờ Văn Vương, và hai lần lấy Thụy hiệu là:
Năm 694, tôn xưng Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (越古金輪聖神皇帝).
Năm 695, tôn xưng Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (慈氏越古金輪聖神皇帝).
Với các trích dẫn trên, một câu hỏi đặt ra là:
Tại sao vào thời Hùng Vương lịch sử, ca dao, tục ngữ, cũng như chính sử của ta, vẫn cứ tuyên truyền và sử dụng mốc thời gian của nhà Chu, trong khi vào thời điểm đó, ở Trung Nguyên, nhà Chu đã quá suy tàn, không còn quyền lực gì nữa, và chỉ thay đổi sang Tần khi nhà Chu hoàn toàn mất hẳn, nếu không phải vì muốn định hướng cho người đời sau biết về nguồn gốc nhà Chu của Hùng Vương.
IV . KẾT
Với những gì đã trình bày, chứng minh rằng, Hùng Vương, nước Văn Lang, với kinh đô Phong Châu, bắt đầu triều đại của mình vào tiền bán thế kỷ III TCN, chấm dứt vào năm 258 TCN, cùng năm với Chu Noãn Vương, vua cuối cùng của nhà Chu mất ở phương bắc, chấm dứt triều đại nhà Chu, kéo dài hơn 800 năm, là Hùng Vương lịch sử, chứ không phải Hùng Vương, nước Văn Lang, bắt đầu từ năm Nhâm Tuất, truyền được 18 đời. Tuy nhiên khi viết lại truyền thuyết này, người ta đưa thêm tên Phong Châu vào, nhằm chỉ ra Hùng Vương ở Phong Châu, Giao Chỉ, là người nhà Chu, nhưng chính vì vậy đã khiến cho người đời sau không phân biệt được Hùng Vương truyền thuyết và Hùng Vương lịch sử. Có thể Hùng Vương lịch sử đã đoán được điều đó, nên tiếp tới ông truyền ngôi lại cho con, nhưng đổi cả tên nước lẫn triều đại thành Âu Lạc và Thục Phán – An Dương Vương, như tôi đã trình bày trên.
Vì Hùng Vương lịch sử là hậu duệ nhà Chu, những người có nguồn gốc phương nam hay Châu Dương, như Hoàng Đế, Nghiêu, Phục Hy, Hạ Vũ như thông tin đã ghi lại ở đầu TT, cho nên ông vừa có nguồn gốc phương bắc, vừa phương nam, nhưng do người Việt đã đi lên phương bắc quá lâu, hàng mấy ngàn năm trước, nên không thể cho Hùng Vương là người bản địa, như giới nghiên cứu về thời đại Hùng Vương chủ trương hơn nửa thế kỷ qua.
Chính trên quan điểm này mà người ta đã cố đi tìm một Hùng Vương bản địa, kết quả của nó như tôi đã trình bày trên, đây là một quan điểm không tương thích với một quá khứ đầy đau thương và gian khổ nhưng vô cùng hào hùng, trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương, cuối cùng đã có một đất nước độc lập, của người Việt. Chính con cháu của Hùng Vương, là lực lượng chủ đạo trong những giai đoạn lịch sử ấy, chứ không phải dân tộc ông Pò Khun hay Túc Phắn./.
Đà Lạt 26/10/ Quý Mão – 2023
Pingback: Ve sầu thoát xác | Nghiên Cứu Lịch Sử