Khi trung quốc tấn công- Lời cảnh báo với nước Mỹ (Bài 17)

CHƯƠNG 17 : Trung Quốc Sẽ Phát Động Cuộc Chiến Động Lực  Chăng?

Đại tá Grant Newsham

Trần Quang Nghĩa dịch

Trung Quốc muốn có được những gì họ muốn mà không phải đấu tranh để giành lấy nó. Ai sẽ không muốn được như vậy? Đạt được những gì bạn muốn thông qua chiến tranh chính trị và dần dần lật đổ và làm hao mòn mục tiêu của bạn sẽ dễ chịu hơn, tốn ít chi phí hơn, không giết nhiều đồng bào của bạn, ít có khả năng dẫn đến sự can thiệp của bên thứ ba, ít có khả năng gây ra phản kháng hiệu quả trong quốc gia mục tiêu và không chịu nhiều tai tiếng.

Nhưng đừng nhầm lẫn: người Trung Quốc sẽ hành động nếu – theo tính toán của riêng họ – họ nghĩ rằng mình cần phải hành động và tin rằng mình có thể thành công.

Không có ràng buộc đạo đức hoặc lương tâm. Các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đã nhiều lần dùng bạo lực chống lại những người Trung Quốc khác. Những chế độ như vậy thích đe dọa và giết hại có chọn lọc công dân của mình để giữ trật tự, nhưng họ cũng sẽ giết người trên quy mô lớn nếu cần thiết.

Đối với chế độ cộng sản Trung Quốc, chiến tranh chính trị và chiến tranh động lực là một phần của cùng một chuỗi liên tục, và nó sẽ chuyển đổi liền mạch từ cái này sang cái khác và ngược lại, để đạt được mục tiêu mở rộng Quyền lực Quốc gia Toàn diện của mình.

Nếu Bắc Kinh (hay nói đúng hơn là Tập Cận Bình ngày nay) nghĩ rằng chiến tranh động lực là cách hiệu quả nhất để đạt được các mục tiêu của mình, thì không có sự kiềm chế triết học, đạo đức, pháp lý hoặc chính trị nội bộ nào có thể ngăn cản điều đó.

Chỉ cần hỏi Tây Tạng, Việt Nam, Ấn Độ, hoặc bất kỳ nơi nào khác mà họ đã tấn công – trực tiếp hoặc thông qua ủy nhiệm – trong nhiều năm.

ĐCSTQ không thấy sự khác biệt giữa chiến tranh và không chiến tranh theo cách chúng ta thấy. Trong thế giới quan của mình, Trung Quốc đương nhiên phải thống trị thế giới. Điều này đã được Mao nói rõ. Như Gordon Chang đã giải thích:

Mao đã hy vọng thành lập “một ủy ban quản lý Trái đất trong tương lai để thực hiện một kế hoạch thống nhất cho toàn Trái đất.” Một năm sau khi bắt đầu Cách mạng Văn hóa, ông thậm chí còn giao cho các trợ lý soạn thảo một kế hoạch “cho toàn nhân loại”. Đáng chú ý, vào năm 1950, ông đã thay thế khẩu hiệu nghi thức “Chính quyền nhân dân trung ương muôn năm,” được khắc trên Thiên An Môn ở Bắc Kinh, bằng “Đại đoàn kết nhân dân thế giới muôn năm.”

“Đại đoàn kết” nghe có vẻ lành tính, nhưng Mao đang gợi lên khái niệm tianxia (thiên hạ), khái niệm cho rằng thế giới được thống nhất dưới sự cai trị của người Trung Quốc, chủ trì “tất cả thiên hạ.”

Thế giới quan này có nghĩa là những người cộng sản đang trong cuộc đấu tranh không ngừng để giành quyền thống trị chống lại những kẻ sẽ kìm hãm hoặc ngăn cản Trung Quốc cộng sản giành lấy vị trí xứng đáng là kẻ thống trị thế giới (theo cách nói của Trung Quốc, những kẻ “kiềm chế” Trung Quốc).

Đây vừa là quan điểm của Trung Quốc về sự vật, vừa là quan điểm của chủ nghĩa Mác về cuộc đấu tranh liên tục và không thể tránh khỏi giữa các hệ thống đối địch và đối lập không khoan nhượng.

Chỉ có một hệ thống có thể sống sót. Đó là chủ nghĩa cộng sản, theo Mác—và Tập Cận Bình—là hiện thân của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Điều này rất phù hợp với cách diễn tả của người Trung Quốc: “Ngươi chết, ta sống” đã có từ lâu trước Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Các chế độ theo chủ nghĩa Mác-Lê luôn gây chiến với mọi người, đặc biệt là các quốc gia có thể gây tổn hại cho họ.

Đó cũng là bản chất của các chế độ có nhiều đặc điểm của băng nhóm tội phạm có tổ chức. Sử dụng sự đe dọa và bạo lực hoàn toàn khi các mối đe dọa không hiệu quả là điều tự nhiên—nếu không muốn nói là lẽ thường tình.

Nó cũng gắn liền với khái niệm tianxia: bạn xứng đáng được điều hành xô diễn, vì vậy việc sử dụng vũ lực để đạt đến đỉnh cao hoặc ở lại đó chỉ đơn giản là một tuyên bố thực tế.

Nhưng Mao chết năm 1976, và có lẽ Tập Cận Bình ít “cực đoan” hơn, như Ray Dalio gợi ý chăng? Điều đó là không thể. Chỉ cần chú ý đến “tư tưởng Tập Cận Bình.”

Ian Easton mô tả một đoạn văn trong sách giáo khoa được sử dụng tại Đại học Quốc phòng nơi các sĩ quan cấp cao của QGPNDTQ được đào tạo. Sách giáo khoa, rập khuôn với tư tưởng của Tập Cận Bình, viết: “Tập Cận Bình đã nhấn mạnh rằng hệ tư tưởng và hệ thống xã hội của Nhà nước chúng ta về cơ bản là không tương thích với phương Tây. Ông Tập đã nói: “Điều này xác định rằng cuộc đấu tranh và cạnh tranh của chúng ta với các nước phương Tây là không thể hòa giải, vì vậy nó chắc chắn sẽ kéo dài, phức tạp và đôi khi thậm chí rất gay gắt.” Sách giải thích: “Sử dụng chiến tranh để bảo vệ lợi ích quốc gia không tương phản với diễn tiến hòa bình. Trên thực tế, đó là một biểu hiện của chiến lược Mác-xít.”

Tuy nhiên, điều này không ngăn được những người muốn khỏa lấp những tham vọng rất thực tế của người cộng sản Trung Quốc đưa ra những tuyên bố có thể lường trước được được nhằm hạ thấp mối đe dọa.

Hãy xem xét một số phát biểu phổ biến nhất.

Lợi ích kinh tế sẽ kiềm chế lối chọn lựa chiến tranh – Mối quan hệ thương mại và đầu tư sâu sắc đến mức chiến tranh là không thể nghĩ bàn”

Ý tưởng này đã có từ lâu. Một nhà báo khẳng định kinh tế đan xen giữa các quốc gia châu Âu đã khiến chiến tranh châu Âu không thể xảy ra – ngay trước khi Thế chiến thứ nhất nổ ra. Ông ấy đã chịu tai tiếng lâu dài.

Ngày nay, chúng ta cũng nghe điều tương tự về mối quan hệ kinh tế của Hoa Kỳ và CHNDTQ phần nào đã hạn chế các hành động động lực của Trung Quốc. Và vai trò của Đài Loan với tư cách là nhà sản xuất chất bán dẫn hàng đầu thế giới – rất cần thiết cho các nền kinh tế hiện đại – phần nào đã giữ nắm  tay Bắc Kinh vì sợ phá hủy các nhà máy có trụ sở tại Đài Loan.

Đừng đặt cược vào nó.

Đối với Bắc Kinh, có chip hay không, lợi ích quân sự của việc chiếm Đài Loan, bằng vũ lực, nếu cần thiết, và sự sỉ nhục Hoa Kỳ về mặt chính trị (chưa kể đến việc đảm bảo vị thế của Tập với tư cách là một trong những Vĩ nhân đã “thống nhất” Trung Quốc) là đủ.

Bạn có thể luôn xây dựng lại ngành công nghiệp bán dẫn – và hãy nhớ Sức Mạnh Quốc Gia Toàn diện. Bạn có thể không có chip, nhưng kẻ thù của bạn cũng không có chip.

Lợi ích cá nhân của giới tinh hoa ĐCSTQ kìm hãm động thái động lực”

Đây là hiện tượng trong hai mươi đến ba mươi năm qua, khi người Trung Quốc – đặc biệt là những người thành công nhất – đang cố gắng, bằng móc ngoặc hoặc gian lận, chuyển tài sản của họ ra khỏi đất nước (tránh khỏi sự kìm kẹp tiềm ẩn của ĐCSTQ) và cất giữ nó ở một nơi nào đó an toàn.

Tiền không đến Matxcơva hay Bình Nhưỡng, mà là đến thế giới tự do: Hoa Kỳ, Anh, Úc và Canada. Nói cách khác, các quốc gia mà cộng sản Trung Quốc coi là kẻ thù.

Nhưng nó còn hơn cả việc chuyển chiến lợi phẩm của một người ra khỏi Trung Quốc. Tốt hơn là gia đình nên gửi một người họ hàng đã nhận được thẻ xanh hoặc giấy phép cư trú, tạo chỗ đứng cho các thành viên khác trong gia đình – để dự phòng.

Thật khó để nghĩ ra một ví dụ lịch sử khác khi một quốc gia hùng mạnh đang trỗi dậy,  đang tự trang bị vũ khí đến tận răng, và tìm kiếm một cuộc chiến trong khi cùng lúc đó, những người thành công nhất của họ lại đặt cược cả hai bên để phòng ngừa rủi ro và dự trù hang ổ để lui về ở các quốc gia mà họ tuyên bố là kẻ thù – nơi mà các điều kiện là an toàn và lành mạnh được hệ thống địa phương hoặc quyền sở hữu tài sản và quy định của pháp luật bảo vệ.

Việc đó không như giới thượng lưu Đức thời Đức Quốc xã có mối quan hệ tốt cũng đã mua bất động sản ở London, Paris và New York và xoay sở sống ở đó,  để dự phòng. Nhưng giới tinh hoa Trung Cộng thì sao? Đó lại là một câu chuyện khác.

Ngay cả con gái của nhà lãnh đạo tối cao Tập Cận Bình cũng được đồn đại là có thẻ xanh và cô ấy đã theo học tại Harvard. Cách đây một thập niên, Tập đã nỗ lực hết sức để ngăn chặn những câu chuyện của New York TimesBloomberg về tài sản ở nước ngoài của gia đình mình (và các nhà lãnh đạo Trung Quốc khác).

Theo một số cách, đây là một thị trường hợp đồng tương lai —với những người ở chóp bu trên đầu dân đen ở Trung Cộng  và được hưởng lợi nhiều nhất từ hệ thống thực sự đáng ngờ về triển vọng tương lai của nó. Nói cách khác, họ đang “bán khống” CHNDTQ.

Có lẽ, giới tinh hoa Trung Quốc sẽ đặt điều này vào rủi ro nếu bắt đầu một cuộc chiến với Hoa Kỳ theo cách các nhà tài phiệt Nga và tài sản của họ đã bị nhắm mục tiêu sau cuộc xâm lược Ukraine của Vladimir Putin vào tháng 3 năm 2022 như một cách để gây áp lực với Putin. Thật vậy, Tập Cận Bình gần đây đã ra lệnh cho các quan chức Đảng Cộng sản và người thân của họ xử lý tài sản ở nước ngoài và trả lại số tiền thu được cho Trung Quốc.

Nhưng có thể các nhà lãnh đạo ĐCSTQ sẵn sàng xóa bỏ tất cả. Hoặc họ có thể cho rằng triển vọng chiến thắng của họ rất tươi sáng đến nỗi tài sản nắm giữ ở nước ngoài có thể vẫn còn nguyên vẹn. Họ sẽ kỳ vọng có được chúng trở lại.

Cuối cùng, đây là một hiện tượng thú vị, nhưng liệu nó có đủ để giữ cho CHNDTQ  không sử dụng động lực? Tốt nhất là không nên lập kế hoạch như thể nó là.

Còn công luận Trung Quốc thì sao?”

Công luận bộ không quan trọng và có xu hướng kiềm chế ĐCSTQ sao? Michael Bloomberg có thể nghĩ như vậy, khi nói rằng Tập không phải là một nhà độc tài và phải để ý đến công luận.?

Nhưng trong loại chế độ này, bất kỳ sự phản bác thực sự nào đều bị đe dọa, kiểm soát hoặc bịt miệng theo nghĩa đen hoặc nghĩa bóng. Bạn sẽ làm gì, viết thư cho nghị sĩ của bạn? Biểu tình bên ngoài Nhà Trắng?

Và dẫu sao thì, việc “thống nhất” Đài Loan dường như gây được tiếng vang với nhiều người Trung Quốc thuộc đủ tầng lớp.

Công chúng rộng lớn hơn ở Trung Quốc, giống như công chúng ở bất kỳ đâu, rất dễ bị thao túng, bao gồm cả việc lợi dụng sự oán giận và những sai lầm lịch sử, cũng như tuyên bố rằng Trung Quốc đang bị quấy rối và đe dọa, hoặc thậm chí bị cho là không được tôn trọng.

Vì vậy, một bộ phận lớn dân số có thể nghĩ rằng một cuộc chiến động lực đúng là điều cần thiết.

Nếu nó đánh cả người Nhật nữa thì càng tốt. Những bộ phim chống Nhật Bản có tính phân biệt chủng tộc một cách thô bạo thường được chiếu trên truyền hình Trung Quốc và đã tồn tại được 8 năm.

ĐCSTQ không gặp khó khăn gì khi tổ chức các đám đông phản kháng – cả bạo lực nữa – tấn công các đại sứ quán Nhật Bản (hoặc thậm chí là Hoa Kỳ). Các doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhật Bản đã được nhắm mục tiêu khi cần thiết.

Và không chỉ người Nhật. Năm 2021, một bộ phim về trận chiến Bể chứa nước Chosin trong Chiến tranh Triều Tiên, trong đó lực lượng Trung Quốc áp đảo lực lượng Hoa Kỳ trong một trận chiến oanh liệt, đã thành công rực rỡ, thu về 600 triệu USD.

Năm 2017, bộ phim Chiến lang 2, mô tả cảnh người Trung Quốc cao quý đối đầu với những kẻ hung ác người Mỹ ở châu Phi, là một bom tấn khác. Thông điệp của nó đã gây được tiếng vang.

Hơn nữa, nếu ĐCSTQ hành động, Bắc Kinh có thể đốt cháy năng lực dư thừa về sản xuất và con người. Ước tính Trung Quốc có ba mươi triệu nam giới độc thân (kết quả của lựa chọn giới tính và chính sách một con): những người được gọi là cành trơ trụi, những người có rất ít cơ hội tìm được vợ. Họ có thể đổ lỗi cho Đảng Cộng sản Trung Quốc về hoàn cảnh của họ.

Bất chấp điều đó, chẳng phải chiến tranh có nghĩa là sẽ có rất nhiều thanh niên chết sao? Nó có thể. Nhưng ai sẽ phàn nàn, và làm thế nào để những nỗi oán giận có thể kết tinh lại trong một xã hội như vậy? Ngay cả khi các tòa nhà trường học được làm kém chất lượng đã sụp đổ trong một trận động đất vào năm 2008, và hàng nghìn trẻ em (nhiều trẻ em là đứa con duy nhất) đã chết, sự bất mãn sau đó đã không làm ĐCSTQ lay chuyển.

Thật vậy, sự oán giận và một dân số có điều kiện (ít nhất là đủ) đúng là có thể tạo ra một tiếng nói, tại sao không?

Các phóng viên nước ngoài và các nhà quan sát tại hiện trường ở Argentina vào năm 1982 đã lưu ý rằng hầu hết người dân Argentina hoàn toàn ủng hộ một cuộc chiến tranh để xóa bỏ sự sỉ nhục được cho là do Anh chiếm đóng Quần đảo Falklands (Malvinas) — miễn là người Argentina chiến thắng.

Ngoài ra, nếu bạn chưa từng tham gia một cuộc chiến thực sự trong một vài thế hệ trở lên và chính phủ đã luôn huênh hoang về những trận chiến và vinh quang trong quá khứ, bạn có thể thấy niềm đam mê chinh chiến đó rất sảng khoái. Một dân số có thể thích ý tưởng về một cuộc chiến để giúp trẻ hóa quốc gia.

Năm 1996, ngoại trưởng lúc bấy giờ, Madeline Albright, đã mắng mỏ Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Colin Powell, người đã miễn cưỡng triển khai binh sĩ Mỹ mà không có lý do chính đáng và lợi ích quốc gia Hoa Kỳ.

Albright nói, “Có quân đội tuyệt vời như thế này để làm gì nếu chúng ta không thể sử dụng nó?” Người ta tưởng tượng rằng lối suy nghĩ như vậy thậm chí còn dễ dàng bắt gặp hơn ở Trung Quốc. Một Colin Powell sẽ không tồn tại được lâu.

Vì vậy, ĐCSTQ có thể không cần phải ép buộc quá nhiều người tham gia vào chiến dịch động lực. Lưu ý rằng lực lượng dân quân biển đã tham gia, và vũ trang mạnh mẽ (và đôi khi đánh chìm) các tàu đánh cá của Việt Nam, Philippin và các nước khác ở Biển Đông. Hạm đội tàu đánh cá của Trung Quốc sẵn sàng hỗ trợ cho các nỗ lực thống trị của ĐCSTQ bằng những hứa hẹn cướp bóc và xăng dầu miễn phí.

Nhận thức về một cuộc chiến dễ dàng tạo ra hiệu ứng đoàn xe diễu hành.

Trung Quốc chưa hề tấn công bất cứ ai”

Điều này khá phổ biến trong số các “chuyên gia”. Bạn cũng có thể nghe nó mọi lúc trong Quân đoàn Thủy quân lục chiến, kể cả từ những sinh viên tốt nghiệp Trường Chỉ huy và Tham mưu từng đọc cuốn sách On China (Bàn về Trung Quốc) của Henry Kissinger. Hàm ý là, bởi vì (như được tuyên bố khi đối mặt với bằng chứng ngược lại) CHNDTQ chưa bao giờ tấn công bất kỳ ai, chúng ta đang tưởng tượng ra một kẻ thù bóng ma.

Các nước láng giềng của Trung Quốc có thể không đồng ý với ý kiến ​​cho rằng Trung Quốc không động tay động chân. Thật vậy, trong khu vực xung quanh, CHNDTQ đã thường xuyên sử dụng chiến tranh động lực  để củng cố vị thế của mình trong khi làm suy yếu các đối thủ và kẻ thù của mình. Vài ví dụ:

Việt Nam. Trung Quốc tấn công Việt Nam vào năm 1979 để dạy cho nước này một bài học trong một cuộc chiến đẫm máu và ngắn ngủi. Trước đó vào năm 1974, khi Trung Quốc nhìn thấy cơ hội và biết rằng Miền Nam Việt Nam và người Mỹ quá bận bịu với tình hình để có thể phản ứng, họ đã chộp các đảo nhỏ do Miền Nam kiểm soát ở Biển Đông.

Năm 1988, Trung Quốc chiếm thêm các đảo do Việt Nam chiếm giữ (lần này là Việt Nam cộng sản). Trong quá trình này, CHNDTQ đã bắn hạ khoảng 80 thủy thủ và lính thủy đánh bộ Việt Nam đang bất lực đứng ở dưới nước ngang đầu gối.

Người Trung Quốc rất hài lòng với bản thân đến nỗi họ đã công khai nó – với các video clip – để quảng bá công tác tuyển dụng. Bạn có thể tìm thấy đoạn phim trên YouTube, tựa đề China’s Massacre on Spratly Islands (Cuộc Thảm Sát của Trung Quốc trên Quần đảo Trường Sa.)

Điều này tiêu biểu công thức cho xung đột động lực  của người Trung Quốc: năng lực + cơ hội + không ai phản kháng nhiều về điều đó.

Ấn Độ Tôi đã nghe Ấn Độ bối rối. Tôi đã nghe các tướng lĩnh và đô đốc Ấn Độ nói, “Chúng tôi đã có chiến tranh với Trung Quốc từ năm 1962. Tại sao người Mỹ các bạn không nhận ra rằng mình cũng vậy?”

CHNDTQ đã phát động một cuộc tấn công tổng lực vào Ấn Độ vào năm 1962, và binh lính của hai quốc gia đã xô đẩy nhau ở biên giới kể từ đó. Trung Quốc tiếp tục cố gắng di chuyển ranh giới sâu hơn vào lãnh thổ Ấn Độ. Vào năm 2020, 20 binh sĩ Ấn Độ và có thể nhiều binh sĩ QGPNDTQ hơn đã chết trong một cuộc phục kích binh sĩ  Ấn Độ bởi quân Trung Quốc.

CHNDTQ đang mở rộng cơ sở hạ tầng quân sự gồm đường bộ, đường sắt và sân bay cho phép di chuyển nhanh chóng và tiếp viện cho một cuộc chiến tranh lớn ở biên giới phía bắc Ấn Độ. CHNDTQ tiếp tục tuyên bố chủ quyền và lấn chiếm lãnh thổ Ấn Độ.

Một lần nữa, Bắc Kinh đang xây dựng năng lực trong khi tìm kiếm cơ hội—và đánh giá thời điểm thích hợp.

Ngoài ra, Trung Quốc đã sử dụng, trang bị, cố vấn và hỗ trợ các lực lượng ủy nhiệm chống lại Ấn Độ trong nhiều năm. Quân nổi dậy ở các tỉnh Nagaland và Assam phía đông Ấn Độ đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ trực tiếp của Trung Quốc, như đã đề cập trước đây.

Nê-pan. Lực lượng nổi dậy theo chủ nghĩa Mao của Nepal đã nhận được viện trợ, vũ khí, huấn luyện và cố vấn trực tiếp của Trung Quốc. Là một phần của nỗ lực chiến tranh chính trị rộng lớn hơn, các phe phái chính trị theo chủ nghĩa Mao đã thống trị đất nước. Nepal trước đó được coi là nằm dưới ảnh hưởng của Ấn Độ.

Miến Điện. Quân đội Wa Thống nhất của Miến Điện nhận được vũ khí (hiện đại và tinh vi), đào tạo, và tài trợ từ Trung Quốc. Quân du kích là đối thủ của Quân đội Miến Điện, một tình huống cho phép Trung Quốc gây ảnh hưởng theo ý muốn của họ – cả đối với chính phủ và quân nổi dậy.

Tây Tạng. Tây Tạng là một quốc gia độc lập cho đến năm 1949. QGPNDTQ của Mao đã xâm lược vào năm đó và đã chiếm nó kể từ đó. Điều này cho phép CHNDTQ thống trị vùng đất cao và có khả năng sử dụng nước lũ làm vũ khí. Sáu con sông lớn mà Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Campuchia và Miến Điện lệ thuộc bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đang tiến hành xây đập trên những con sông này.

Một lần nữa, cả sự thống trị thực tế và tâm lý đều được thể hiện. Richard Gere thì sao? Từng là diễn viên nổi tiếng của Hollywood. Đã lâu rồi không nghe được gì nhiều từ ông ấy hoặc bất kỳ ai khác lên tiếng ủng hộ người Tây Tạng. Các phương tiện truyền thông dường như đã chấp nhận việc Trung Quốc tiếp quản Tây Tạng như một việc đã rồi.

Campuchia. Trung Quốc ủng hộ Khmer Đỏ Campuchia theo chủ nghĩa Mao khi họ chiến đấu chống lại chính phủ Lon Nol. Sau khi tiếp quản đất nước vào năm 1975, Khmer Đỏ đã giết một phần ba dân số để thiết lập điều không tưởng của mình. Sự ủng hộ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiếp tục không suy giảm.

Thái Lan. Trung Quốc ủng hộ quân du kích của Đảng Cộng sản Thái Lan trong cuộc nổi dậy kéo dài hàng thập kỷ chống lại chính phủ từ cuối những năm 1950 đến những năm 1980.

Với sự hỗ trợ to lớn của Hoa Kỳ, chính phủ Thái Lan đã đánh bại quân du kích, nhưng chỉ sau khi ĐCSTQ cuối cùng đã cắt đứt sự hỗ trợ cho họ.

Tuy nhiên, trong một thắng lợi của cuộc chiến tranh chính trị đáng chú ý của ĐCSTQ sau cuộc nổi dậy, chính phủ Thái Lan giờ đây đã ghi công nhiều nhất cho CHNDTQ – chứ không phải Hoa Kỳ – vì đã kết thúc cuộc nội chiến.

Vì vậy, Trung Quốc đã đi theo con đường động lực. Và, đối với Bắc Kinh, dường như không có “lằn ranh đỏ” kiểu phương Tây giữa chiến tranh chính trị và chiến tranh động lực.

Trên thực tế, chiến tranh chính trị được sử dụng nhằm thiết lập các điều kiện cần thiết để Trung Quốc tiến hành chiến tranh động lực trong nhiều, nếu không muốn nói là hầu hết, các tương tác quốc tế của Trung Quốc.

Đối với Bắc Kinh, sự hợp nhất  giữa quân sự và dân sự không chỉ dừng lại ở biên giới Trung Quốc. Thật ra, nó không định làm vậy.

Lấy một ví dụ, và như đã đề cập trước đây, nếu Quân đội Giải phóng Nhân dân muốn triển khai sức mạnh trên toàn thế giới, thì họ cần có quyền tiếp cận các cảng và sân bay, giống như quân đội Hoa Kỳ.

Chiến tranh chính trị của Trung Quốc (đặc biệt là thương mại và ngoại giao) đã tài trợ một cách có hệ thống cho việc xây dựng hoặc tân trang mạng lưới cảng và sân bay toàn cầu. Trong một số trường hợp, chiến tranh chính trị đã đảm bảo rằng các công ty có liên kết với chính quyền Trung Quốc là những người trả giá thấp nhất cho các hợp đồng quản lý các cơ sở hiện có.

Chỉ một công ty liên kết với Trung Quốc, Hutchinson Port Holdings (HPH), quản lý 52 cảng trong 26 quốc gia. Điều này phù họp với sự hợp nhất quân sự-dân sự và Luật Tình báo Quốc gia. Nếu Trung Quốc muốn điều gì từ HPH, họ sẽ có được điều đó.

Và Trung Quốc muốn kiểm soát các cảng. Nhìn đâu cũng thấy, dưới cái cớ giả định là Sáng kiến Vành đai Con đường, Trung Quốc đang đầu tư vào những địa điểm có thể không có ý nghĩa kinh tế nhưng lại quan trọng về mặt chiến lược.

Khi nền kinh tế Hy Lạp rơi vào khủng hoảng năm 2008 và nhà nước buộc phải bán cảng Piraeus quý giá của mình, chính một công ty Trung Quốc đã nắm lấy nó.

Một công ty Trung Quốc đã giúp xây dựng cảng Vịnh Walvis ở Namibia.

Bẫy nợ tài chính đã cho Trung Quốc một hợp đồng thuê 99 năm trên Cảng Hambantota ở Sri Lanka.

Và Hành lang Kinh tế Trung Quốc-Pakistan kết thúc tại cảng Gwadar của Pakistan, nơi bắt đầu trông rất giống một căn cứ hải quân của Trung Quốc.

Các ví dụ cứ lặp đi lặp lại như thế trên toàn thế giới.

Chiến tranh chính trị gây ảnh hưởng của Trung Quốc trong vài thập niên qua đã tạo ra các khu vực bầu cử thân Trung Quốc ở nhiều quốc gia—đặc biệt là ở các khu vực kém phát triển hơn trên thế giới – phần lớn trong số đó có tiềm năng chào đón sự hiện diện của Trung Quốc.

Tất cả đều đáng lo ngại đối với Hoa Kỳ, nhưng chính mũi xâm nhập thương mại, ngoại giao và chính trị của Trung Quốc trên khắp các đảo Thái Bình Dương đáng được đặc biệt chú ý.

Khu vực Đảo Thái Bình Dương là vùng đất xa lạ đối với hầu hết người Mỹ và ngay cả các sĩ quan quân đội Hoa Kỳ cũng thường phải tra cứu bản đồ để nhắc nhở bản thân về vị trí của mọi thứ. Trên thực tế, cụm từ ‘sự phó mặc cầu may” đã được đặt ra từ nhiều năm trước để mô tả cách tiếp cận của Hoa Kỳ trong việc đối phó với các quốc gia và vùng lãnh thổ Trung tâm Thái Bình Dương.

Tám quốc đảo nhỏ ở giữa Thái Bình Dương Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đến thăm vào tháng 5 và tháng 6 năm 2022 có diện tích đất liền nhỏ nhưng có lãnh thổ biển rộng lớn – ngay giữa hệ thống phòng thủ Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.

Thật không may, CHNDTQ biết khu vực này rất rõ và hiểu tầm quan trọng chiến lược (không nói đến kinh tế) của nó.

Hầu hết các đảo ở Thái Bình Dương, với các vị trí, cảng và sân bay hữu ích về mặt quân sự, chỉ còn một cuộc bầu cử nữa là chuyển sang phe CHNDTQ.

Điều này bao gồm ba Quốc gia Liên kết Tự do – Palau, Liên bang Micronesia và Cộng hòa Quần đảo Marshall – những quốc gia mà Hoa Kỳ có các hiệp ước đảm bảo quyền tiếp cận quân sự. Hãy thử thực thi các hiệp ước đó nếu bạn được cho biết là mình đã “lạc đường”.

Trước những điều sắp xảy ra, Quần đảo Solomon (nơi diễn ra trận chiến Guadalcanal trong Thế chiến thứ hai) đã ký một thỏa thuận với CHNDTQ có khả năng sẽ dẫn đến việc QGPNDTQ thiết lập sự hiện diện thường trực tại quốc gia đó.

Washington lo sợ một cách đúng đắn rằng nhiều thỏa thuận như vậy sẽ được ký kết trên khắp khu vực – trung tâm phòng thủ của Mỹ ở Thái Bình Dương.

Và Bắc Kinh đang rất nỗ lực. Bắt đầu vài ngày sau cuộc họp của các nhà lãnh đạo Bộ tứ tại Tokyo vào ngày 24 tháng 5 năm 2021, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị bắt đầu chuyến công du 8 quốc đảo ở Thái Bình Dương và gặp gỡ trực tuyến với 3 quốc đảo khác.

Ngoại trưởng đưa ra một gói tăng cường quan hệ kinh tế và an ninh với các nước, cả với tư cách nhóm và song phương.

Phản ứng của nhóm rất đa dạng, giúp Bắc Kinh hiểu rõ hơn về việc ủng hộ ai và tấn công ai.

Các thỏa thuận song phương được giữ bí mật, kéo các nhà lãnh đạo đó đi sâu hơn vào cách làm việc của Trung Quốc.

Vì vậy, trong khi Bộ Tứ Quad phát đi thông cáo báo chí, Vương đã làm việc trên thực địa để xây dựng “chuỗi đảo” của riêng Trung Quốc – ở giữa các tuyến phòng thủ hiện có của Hoa Kỳ và nằm trên các tuyến liên lạc chính giữa Hoa Kỳ và Australia.

Bạn có thể thấy hai cách tiếp cận – chính trị và động lực – củng cố lẫn nhau như thế nào. Và chính trị không dừng lại khi trận đọ súng bắt đầu. Hãy xem xét cả hai trận chiến tranh chính trị của Nga và Trung Quốc đã được triển khai như thế nào sau khi Nga xâm lược Ukraine nhằm gây lúng túng và làm suy yếu phản ứng từ cộng đồng quốc tế rộng lớn hơn.

Ngoài ra còn có một khoảng không gian trung gian có chủ ý làm mờ nhạt giữa những gì chúng ta nghĩ là chính trị và động lực, trong đó Trung Quốc phát triển mạnh.

Cuộc Chiến “Không Hẳn Là Cuộc Chiến”

Yếu tố bất ngờ được coi là một thành tố quan trọng trong chiến lược quân sự, nhưng người cộng sản Trung Quốc đã làm tốt hơn thế. Giả sử bạn có thể bắt đầu một cuộc chiến mà kẻ thù không tin rằng bạn đã bắt đầu? Đó là những gì Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã làm -với lợi thế đáng kể của nó.

Người cộng sản Trung Quốc hiểu khá rõ kẻ thù chính của họ.

Từ lâu, họ đã nhận ra rằng người Mỹ không thể và sẽ không tin rằng họ đang có chiến tranh trừ khi ai đó bắn vào họ và đưa ra tuyên bố chính thức của chính phủ có nội dung: “Chúng ta đang trong tình trạng chiến tranh kể từ 07:00 giờ sáng nay.”

Mọi thứ khác, kể cả khi người Mỹ và những người khác nếu gặp nguy hiểm, bị thương hoặc thậm chí bị giết, chỉ là một “sự hiểu lầm” hoặc “hành vi thiếu chuyên nghiệp” mà cùng lắm là khiến một quan chức chính phủ Hoa Kỳ bày tỏ “mối quan ngại”. Hoặc, nếu nó thực sự nghiêm trọng, “quan ngại nghiêm trọng”.

Vài ví dụ? Trong 20 năm qua, CHNDTQ  đã quấy rối các tàu và máy bay của Hoa Kỳ hoạt động trong vùng biển và không phận quốc tế. Thật là một điều kỳ diệu khi không có người Mỹ nào thiệt mạng vào năm 2001 khi một máy bay chiến đấu phản lực của Trung Quốc đâm vào một máy bay giám sát EP-3 của Hải quân Hoa Kỳ trong không phận quốc tế ngoài khơi đảo Hải Nam.

Áp lực đã tiếp tục kể từ đó.

Tàu và máy bay Trung Quốc uy hiếp U.S.S. Bowditch, một tàu khảo sát của Hải quân, vào năm 2001 và 2002. Năm 2003, nó bị một tàu đánh cá Trung Quốc đâm phải. Năm 2009, các tàu Impeccable và Victorious của Hải quân Hoa Kỳ bị va chạm thô bạo. Vào năm 2013, các tàu của Hải quân QGPNDTQ đã tìm cách đâm vào tàu khu trục của Hải quân Hoa Kỳ U.S.S. Cowpens.

Năm 2016, U.S.S. Bowditch  triển khai một máy bay không người lái ngầm dưới nước ở Biển Đông. Nó đã bị đánh cắp bởi tàu Trung Quốc gần đó.

Đây chỉ là vài ví dụ. Một báo cáo của Hải quân Hoa Kỳ đã trích dẫn 18 ví dụ về hành vi “thiếu chuyên nghiệp” của Trung Quốc từ năm 2016 đến 2018.

Những người bạn của Mỹ trong khu vực cũng bị đối xử như vậy, hoặc tệ hơn.

Vào năm 2022, một máy bay chiến đấu phản lực của Trung Quốc đã phóng khí nén trước một chiếc máy bay của Lực lượng Không quân Hoàng gia Úc trên Biển Đông. Nó có thể dễ dàng bắn hạ chiếc máy bay và giết chết người Úc.

Các máy bay phản lực của QGPNDTQ cũng quấy rối một cách nguy hiểm các máy bay của Lực lượng Không quân Hoàng gia Canada đang giúp thực thi các biện pháp trừng phạt của Liên Hiệp Quốc đối với Triều Tiên – điều mà CHNDTQ đã đăng ký tham gia và được cho là sẽ thi hành.

Có rất nhiều hơn nữa. Trung Quốc đã chiếm đóng và tịch thu địa hình—trên đất liền và trên biển—thuộc về Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á—hoặc chỉ là “vùng biển quốc tế”.

Cảnh sát biển và dân quân biển Trung Quốc đã đe dọa ngư dân Nhật Bản và đẩy họ ra khỏi ngư trường truyền thống của mình trong vùng biển Nhật Bản.

Tàu Việt Nam và Philippin đã bị lực lượng dân quân biển Trung Quốc đâm và đánh chìm, thủy thủ đoàn mất tích.

QGPNDTQ đã phục kích và giết chết binh lính Ấn Độ ở biên giới phía bắc Ấn Độ.

Nó sử dụng quân đội để hù dọa và đe dọa Đài Loan-trong khi phóng tên lửa vào Vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản và gần các đảo của Nhật Bản.

Nó cũng đã bắt con tin, cả người Mỹ và đồng minh, và nhốt họ ở Trung Quốc.

Phản ứng im lặng của Hoa Kỳ là khó hiểu. Thông thường, nó bào chữa cho hành vi kiềm chế của mình là muốn “giảm căng thẳng” và tránh “khiêu khích” Trung Quốc. Các chính trị gia và lãnh đạo quân đội nói rằng không có gì phải lo lắng, đó chỉ là một chỉ huy quân sự địa phương nào đó hành động mà không có mệnh lệnh, hoặc một phi công xấc láo, hoặc một thẩm phán tham nhũng. Tội nghiệp Tập Cận Bình, ông ta không hay biết. Chúng ta cần phải cho ông ta một lối thoát.

Nhưng hãy tự hỏi, trong hệ thống cộng sản, đâu là điều lợi của việc làm điều gì đó mà “trung tâm” không muốn hoặc không bảo bạn làm? Không nhiều lắm. Còn điều bất lợi là gì? Ở tù dài hạn hoặc một viên đạn 9mm sau gáy. Bạn háy tính toán đi.

Có lẽ một đặc điểm trong cách Mỹ là họ rất muốn người nước ngoài ưa thích mình. Thật vậy, người Mỹ thường rất bối rối khi người khác không ưa thích mình, và chúng ta cho rằng đó phải là do chúng ta đã làm sai điều gì sai quấy.

Có vẻ như quá nhiều học giả và các nhà lãnh đạo chính trị, kinh doanh và quân sự của Mỹ không thể hoặc sẽ không tin rằng đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ là kẻ thù cần khuất phục và đánh bại—bằng vũ lực nếu cần thiết.

Vì vậy, Trung Quốc làm những việc mà về mặt khách quan, ít nhất, trông có vẻ hiếu chiến, và điều đó có thể đạt được kết quả tương tự như một cuộc chiến tranh “quy mô” thực sự thuộc dạng người Mỹ hiểu, kể cả việc khiến người Mỹ rút quân và nhường quyền kiểm soát các khu vực chiến lược (lãnh thổ, kinh tế và chính trị) rộng lớn cho CHNDTQ.

CHNDTQ đôi khi thậm chí còn tỏ ra bực tức vì Hoa Kỳ không coi trọng chuyện này, đến mức vào năm 2018, chuẩn đô đốc Trung Quốc Lou Yuan nói rằng Trung Quốc có lẽ phải đánh chìm một vài tàu sân bay Mỹ và giết chết mười nghìn người Mỹ.

Ông nói thêm, “Điều mà Hoa Kỳ sợ nhất là chuốc lấy thương vong…. Chúng ta sẽ xem nước Mỹ sợ hãi đến thế nào.”

Tất cả cuộc chiến không được thừa nhận này cho phép CHNDTQ kiểm tra và đánh giá kẻ thù. Nó thậm chí còn “tạo ra phản xạ có điều kiện” cho đối thủ, là chúng ta, quen với hành vi hung hăng này, khiến chúng ta ít sẵn sàng hơn khi trận chiến hoành tráng bắt đầu.

Nó cũng đặt Trung Quốc vào một vị thế hành động tốt hơn khi chiến tranh “chính quy” bắt đầu, vì nước này đã thống trị lãnh thổ chiến lược và đã mở rộng phạm vi hoạt động của Quân đội Giải phóng Nhân dân.

Điểm mấu chốt: trong khi người Mỹ khẳng định nước này không có chiến tranh mà chỉ đang “cạnh tranh” với Trung Quốc, thì nước này đang trên đường dẫn đến kết cục tương tự như nếu nước này thua trong một cuộc chiến “chính quy”.

Chúng ta gọi nó là “Vùng xám” – nhưng tốt hơn nên bắt đầu gọi nó là “Chiến tranh”

Các hoạt động nói trên của Trung Quốc đang diễn ra trong cái gọi là “vùng xám”.

Một định nghĩa về vùng xám là “đấu trường tranh chấp nằm giữa thuật trị nước thông thường và chiến tranh công khai.”

Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ dường như nghĩ rằng điều đó không có nghĩa là chiến tranh, vì vậy nó ổn, hơn là nghĩ rằng đây không phải là việc thường lệ hay thuật trị nước, vì vậy nó không ổn.

Vùng màu xám có hiệu ứng của chất kryptonite [một chất hư cấu trong truyện tranh Siêu Nhân, có tác dụng giết chóc vô hạn: ND] đối với chúng ta. Chúng ta không biết phải làm gì, và người Trung Quốc biết điều đó.

Họ cư xử hung hăng vì họ nghĩ rằng họ có thể miễn nhiễm với nó. . Rõ ràng, họ có lý do chính đáng để nghĩ như vậy.

Trung Quốc hưởng lợi từ niềm tin ở các khu vực của Hoa Kỳ cho rằng người Trung Quốc không biết họ đang làm gì – rằng họ chỉ không biết các quy tắc của thế giới “văn minh”, nhưng với một chút kiên nhẫn hơn (luôn chỉ một chút nữa thôi), họ sẽ nắm bắt kịp. Đây là một trong những lý do để mời QGPNDTQ tham dự cuộc tập trận hải quân hàng đầu Vành đai Thái Bình Dương ở Hawaii vào năm 2014 và 2016, và nói khác đi  là “tham gia” quân sự với  người Trung Quốc

Có lẽ chúng ta nên bắt đầu nghĩ rằng những người thi hành (hoặc mưu tính để thi hành) những việc có thể làm tổn thương hoặc giết chết chúng ta là tiến hành chiến tranh chứ không phải một vùng xám bí ẩn nào đó.

Chúng ta đang ra  nên nhìn nó theo cách họ nhìn nó. Nhưng chúng ta lại không. Chúng ta chủ yếu ngoảnh mặt đi, hy vọng họ sẽ đột nhiên đọc một bản sách của Hoyle [quyển bách khoa nổi tiếng về luật chơi các loại bài: ND] và bắt đầu hành động “đúng mực”.

Kết quả là, CHNDTQ có được lợi thế của một cuộc chiến tranh thử nghiệm, trong đó họ có thể kiểm tra các giới hạn và thăm dò điểm yếu.

Và khi Bắc Kinh quyết định tiến lên – thì họ đã ở một vị thế tốt hơn rồi. Nó đã phát triển toàn bộ các đoàn tàu vùng xám để giúp điều này xảy ra.

Đội Tiên phong trong Vùng Xám của Trung Quốc: Dân quân biển, Đoàn tàu Đánh cá và Cảnh sát biển

Trung Quốc có một lực lượng dân quân biển lớn. Theo chuyên gia quân sự Trung Quốc Lonnie Henley, trong trường hợp tấn công Đài Loan, các nguồn tin của Quân đội Giải phóng Nhân dân đã quy định các nhiệm vụ sau đây (trong số các nhiệm vụ khác) cho lực lượng dân quân biển:

  • Cung cấp lực lượng
  • Hậu thuẫn trên biển (hậu cần)
  • Hỗ trợ hậu cần tại bờ biển
  • Hỗ trợ y tế
  • Đặt và dọn chướng ngại vật
  • Hỗ trợ kỹ thuật
  • Trinh sát, giám sát và cảnh báo sớm
  • Che giấu lừa đảo
  • Sân đỗ trực thăng tiếp sức

Trong khi đó, đội tàu cá của Trung Quốc, thường nằm trong hoặc đi kèm với dân quân biển và Cảnh sát biển, đi khắp nơi lấy tài sản và tài nguyên cá của ngư dân nước khác.

Thật vậy, các đội tàu đánh cá, rốt cục là sự mở rộng của chính quyền Trung Quốc và sức mạnh cưỡng chế của nó, là một vỏ bọc hoàn hảo cho việc bành trướng, giám sát và đe dọa. Chúng có vẻ ngoài phi quân sự và ít đe dọa hơn (và nhờ yếu tố thương mại của chúng, chúng thậm chí còn trang trải được một số chi phí của mình.)

Bạn nhận được kết quả tương tự—chiếm lãnh thổ và khuất phục những người có thể chống cự—giống như bạn làm với một cuộc chiến súng đạn, nhưng không có bạo lực và hủy diệt gây chú ý.

Biển Đông: Trung Quốc Chiếm Lấy thông qua “Vùng xám”

Người Trung Quốc đã lợi dụng triệt để việc Mỹ không sẵn sàng coi bất cứ điều gì ngoài một cuộc chiến tranh súng đạn là “chiến tranh”, cũng như sự tê liệt của Washington khi giải quyết các hoạt động của vùng xám.

Biển Đông về mặt pháp lý là sự kết hợp của các vùng biển quốc tế và các tuyên bố chủ quyền của nhiều quốc gia có diện tích gấp một lần rưỡi Địa Trung Hải.

Trong thập niên qua, CHNDTQ đã giành được quyền kiểm soát hiệu quả đối với khu vực, phần lớn thông qua các hoạt động vùng xám.

Nước này chiếm Bãi cạn Scarborough từ Philippin, một đồng minh của Hoa Kỳ, vào năm 2012. Sau đó, nước này tiến hành một chiến dịch gây hấn nhằm xây dựng một số đảo nhân tạo, ba đảo có sân bay quân sự lớn và tất cả đều có cơ sở hải quân quan trọng – bất chấp thỏa thuận của Tập Cận Bình với Nhà Trắng vào năm 2015 là không quân sự hóa các đảo.

Và Bắc Kinh không chỉ sử dụng quân đội để mở rộng quyền kiểm soát.

Nước này đã di chuyển một giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam vào năm 2014 với sự hỗ trợ của Cảnh sát biển Trung Quốc cùng với Hải quân QGPNDTQ ở gần đó. Cuối cùng thì giàn khoan cũng di chuyển ra ngoài, và người phương Tây tuyên bố, “Trung Quốc đã nhượng bộ.” Không, họ đã chứng minh rằng họ có thể đi và chiếm bất kỳ phần nào của Biển Đông, và không ai có thể, hoặc sẽ, làm bất cứ điều gì về điều đó.

Đến năm 2015, người Trung Quốc đã kiểm soát hiệu quả Biển Đông.

Đây có vẻ như là những hành động hiếu chiến. Tuy nhiên, Trung Quốc chả gặp chuyện gì.

Trong nhiệm kỳ của Obama, hành vi lấn chiếm ở Biển Đông chưa bao giờ thực sự bị thách thức. Tổng thống Obama thậm chí còn cấm Hải quân Hoa Kỳ tiến hành Hoạt động Tự do Hàng hải (FONOPS) ở Biển Đông từ năm 2012 đến năm 2015, trước khi cho phép một số cuộc tuần tra được tiến hành một cách dè dặt vào năm 2016 (một năm trước khi rời nhiệm sở).

Thay vì thừa nhận rằng CHNDTQ đã gây chiến với Hoa Kỳ, việc xây dựng và mở rộng quân sự của Trung Quốc dường như chưa bao giờ gợi lên cảm giác nhất quán về mối đe dọa từ phía Hoa Kỳ.

Một Tư lệnh Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, Đô đốc Samuel Locklear, được cho là đã coi sự nóng lên toàn cầu là thách thức lớn nhất của ông.

Người kế nhiệm ông, Đô đốc Harry Harris, đã xếp tàu ngầm Trung Quốc vào Model T [chạy bằng đầu diesel] trong khi các phiên bản của Mỹ là Corvette [chạy bằng năng lượng hạt nhân.]

Và một chỉ huy trước đây, Đô đốc Dennis Blair đã hạ thấp tầm quan trọng của việc Trung Quốc xây đảo để chiếm Biển Đông, lưu ý rằng sẽ chỉ mất từ ​​mười đến mười lăm phút để vô hiệu hóa các đảo nhân tạo của Bắc Kinh ở Biển Đông – cái gọi là “Vạn lý trường thành bằng cát” – nếu một cuộc chiến thực sự xảy ra.

Ông ấy đã không nhận thấy rằng cuộc chiến đã xảy ra.

Hải quân, Cảnh sát biển và Dân quân biển của Trung Quốc tiếp tục bắt nạt Việt Nam, Philippin, Malaysia và Indonesia.

Nhật Bản, đồng minh chính của Mỹ ở châu Á, đang bị quấy rối và chịu áp lực không ngừng từ các tàu và máy bay Trung Quốc ở Biển Hoa Đông đang tìm cách chiếm đoạt lãnh thổ của Nhật Bản. Vào cuối những năm 2010, các sĩ quan Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản đã lặng lẽ thừa nhận rằng họ “bị choáng ngợp”.

Những ngày này, Hoa Kỳ tiến hành các cuộc tập trận ở Biển Đông bao gồm các nhóm tác chiến tàu sân bay. Nước Mỹ thể hiện mình có thể đi bất cứ nơi nào mình muốn.

Nhưng có cảm giác rằng Hoa Kỳ đang ở đó chỉ để Trung Quốc khó chịu. Nó gần tương đương với việc Sở cảnh sát New York gửi một xe cảnh sát qua Quảng trường Thời đại vào những ngày xưa tồi tệ trước khi có Thị trưởng Giuliani [Thị trưởng của New York, có tiếng khắt khe trong việc giữ gìn trật tự và bài trừ bọn tội phạm:ND.]

Bọn cặn bã sẽ tứ tán khi xe cảnh sát đi qua, chỉ để quay trở lại và tiếp tục trò bất hợp pháp một khi tàu tuần dương cảnh sát đã biến mất.

Trong khi đó, CHNDTQ tiếp tục củng cố việc chiếm đoạt và thống trị của mình. Đối với mỗi tàu Hoa Kỳ đưa vào Biển Đông, Trung Quốc có thể triển khai mười tàu. Vì vậy, có vẻ như nó đang hộ tống tàu Mỹ.

Và chẳng bao lâu nữa, Bắc Kinh sẽ yêu cầu phải được cấp phép mới được đi vào những vùng nó kiểm soát – nếu không yêu cầu người Mỹ thì yêu cầu những nước khác.

Những gì Trung Quốc đã đạt được ở Biển Đông không hoàn toàn giống với việc phóng một tên lửa vào Washington, D.C. Nhưng nó cũng có kết quả tương tự.

Các hoạt động trong vùng xám của Trung Quốc ở Biển Đông cũng nhằm mục đích tạo phản xạ có điều kiện cho người Mỹ. Ban đầu, Bắc Kinh chỉ “cảnh cáo” người Mỹ về Biển Đông. Sau đó, nó thiết lập một khu vực phòng thủ. Bây giờ là một-kèm-một, nhưng với nhiều người hơn. Trong khi đó, trên mặt trận pháp lý, họ đã tiếp tục thông qua luật xác lập Biển Đông là vùng biển của Trung Quốc.

Cuối cùng, Biển Đông sẽ đóng cửa, và Bắc Kinh sẽ thi hành luật đó.

Hoạt động quân sự đặc biệt

Tương tự, vào giữa năm 2022, Tập Cận Bình đã ban hành lệnh cho phép quân đội Trung Quốc tham gia các Chiến dịch quân sự đặc biệt ở nước ngoài.

Hoạt động quân sự đặc biệt? Nghe có vẻ giống như đang chiến đấu trong một cuộc chiến mà “thực sự không phải là một cuộc chiến.”

Gọi các hoạt động hiếu chiến bằng một cái tên khác rất hiệu nghiệm. Quá nhiều người Mỹ sẽ vặn vẹo để tin vào điều đó. Các luật sư của Bộ Ngoại giao sẽ băn khoăn về những gì Tập dự định và “tính hợp pháp” của nó.

Nhưng người ta có thể coi đây là “chiến tranh” chứ không phải một số hành vi “vùng xám” không được thách thức. Một người quan sát giải thích điều đó:

Các hoạt động quân sự đặc biệt trở thành một “cái cớ” nằm trong chính sách đã được lên kế hoạch từ lâu cho phép QGPNDTQ can thiệp  ở những nơi xa xôi trên thế giới, bỏ qua cách gọi truyền thống về các hành động như “xâm lược” hay “chiến tranh” mà Putin đã sử dụng khái niệm này với công dân Nga. Công tác tuyên truyền “bất xâm lăng” này có tác dụng tốt trong nước đối với Đảng vì không ai hoang mang. Nó cũng hoạt động tốt cho những người ở nước ngoài ngây thơ tin vào danh pháp và sự phân biệt sai lầm. Hãy nghĩ về khoảng 140 quốc gia có liên quan trực tiếp đến Trung Quốc trong Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường. Khi đó, mỗi khoản đầu tư, mỗi dự án và mỗi khoản vay là một tài sản tiềm tàng của CHNDTQ sẽ yêu cầu hoặc có thể yêu cầu sự bảo vệ phòng thủ của “Quân đội đặc biệt” của QGPNDTQ trong tương lai. Tôi dự đoán rằng chúng ta sẽ thấy việc sử dụng rộng rãi cái cớ Hoạt động quân sự đặc biệt trong tương lai gần, chẳng hạn như quần đảo Solomon và một số quốc gia được chọn. Châu Phi có lẽ, bất cứ nơi nào Trung Quốc có “lợi ích ở nước ngoài” – về vật chất, kinh tế, hoặc con người.

Và Trung Quốc có rất nhiều lợi ích ở nước ngoài.

Tất cả đều là một phần của quá trình liên tục: xác định quy mô các phản ứng, thực hành và trải nghiệm, gây ảnh hưởng và điều hòa, đồng thời chuẩn bị cơ sở hạ tầng và sự hiện diện cho ngày bắt đầu nổ súng “thực sự”, nếu điều đó là cần thiết.

Trung Quốc coi mình như đang có chiến tranh. Người Mỹ không thể tưởng tượng được điều đó, ngay cả khi chúng ta biết điều này là không tốt.

Nhưng chúng ta đã bị phản xạ có điều kiện để nghĩ rằng chúng ta không thể làm bất cứ điều gì cho đến khi “chiến tranh” bắt đầu.

Gọi nó là vùng xám nếu bạn muốn, nhưng nếu chúng ta không đối phó với nó một cách mạnh mẽ và chuẩn bị chiến đấu, chúng ta có thể thua cuộc.

Đài Loan là địa lý chiến lược. Chiếm được nó, CHNDTQ đã chọc thủng Chuỗi đảo thứ nhất và vượt qua các tuyến phòng thủ của Nhật Bản ở phía bắc. Theo quan điểm của Bắc Kinh, điều này đáng phải trả một giá rất đắt.

Nhưng có lẽ có một thỏa thuận được cắt giảm để đảm bảo “hòa bình trong thời đại của chúng ta”? Có lẽ là không, mặc dù người Mỹ tự phụ rằng mọi người đều muốn trở thành chúng ta, và nếu chúng ta có thể nói chuyện, chúng ta có thể biến đổi hành vi.

Để cho thấy cách tiếp cận này nguy hiểm như thế nào khi đối phó với một quốc gia coi Hoa Kỳ là kẻ thù cần phải đánh bại, một chuyên gia về Trung Quốc ở Mỹ (thuộc loại tốt) đã lưu ý: “Không có ‘hành động thiện chí nào chấp nhận được’ có thể được đưa ra như một bước trung gian trong khi cố gắng giải quyết một mối quan hệ gây tranh cãi quy mô lớn hơn. Cái mà chúng ta gọi là ‘thiện chí’ chỉ trì hoãn điều mà Đảng (Cộng sản) tin là kết cục không thể tránh khỏi: chấp nhận và công nhận hoàn toàn sự thông thái, hướng dẫn và lãnh đạo của Đảng. Trong tiếng Anh, điều này thường được gọi là đầu hàng.”

Nói chỉ để nói cũng cho phép CHNDTQ đánh giá chúng ta tốt hơn và câu giờ để tính toán những gì họ cần phát triển về mặt quân sự – để họ có thể đương đầu với hoặc ngăn cản chúng ta hỗ trợ bạn bè  ở châu Á.

Làm thế nào để bạn đương đầu với loại đối thủ đó? Họ có những mục tiêu và quy tắc khác với chúng ta, và không quan tâm đến những rào cản cho mối quan hệ. Nhưng họ vui mừng khi thấy chúng ta tự áp đặt những “hàng rào cản” cho chính mình.

Cứ để hoạt động “không hẳn là chiến tranh” này tiếp tục không được kiểm soát, và Hoa Kỳ có thể thức tỉnh để thấy mình đang ở trong một vòng kìm kẹp mà nước này không thể thoát ra, ngoại trừ phải trả một cái giá rất đắt.

Chúng ta đã xem phần dẫn đến chiến tranh động lực và không nhận ra nó là gì. Nhưng tại một số điểm, CHNDTQ có thể quyết định đã đến lúc chuyển từ “chiến tranh không hoàn toàn” sang chiến tranh “thực sự” theo kiểu mà người Mỹ công nhận.

Vấn Đề Đài Loan

Sự kết hợp giữa chiến tranh chính trị, các hoạt động trong vùng xám và khả năng xảy ra chiến tranh động lực rõ ràng nhất xung quanh Đài Loan, điều này mang lại triển vọng tức thời nhất của một cuộc tấn công động lực lớn của Trung Quốc. .

Đài Loan vẫn là mục tiêu chính của người cộng sản Trung Quốc và tuyên bố của Tập Cận Bình tại Đại hội ĐCSTQ lần thứ 20 vào tháng 11 năm 2022 rằng Trung Quốc sẽ sử dụng mọi biện pháp có thể (tức là vũ lực) để chiếm Đài Loan đã nhận được tràng pháo tay lớn từ khán giả. Nó được trình bày như là một công việc chưa hoàn thành của nội chiến Trung Quốc.

Nhưng hơn thế nữa, Đài Loan là chìa khóa cho sự thống trị của cộng sản Trung Quốc ở Châu Á, Thái Bình Dương và cuối cùng là Hoa Kỳ.

Đài Loan là nơi Trung Quốc đang chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh mà người Mỹ sẽ nhận ra.

Nó đã tiến hành một cuộc tập trận bắn đạn thật vào tháng 8 năm 2022. QGPNDTQ đã thành lập “các vùng cấm có bắn đạn thật” xung quanh Đài Loan sau chuyến thăm của Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi. Trung Quốc đã bắn tên lửa bao vây cả Đài Loan và các đảo phía nam Nhật Bản, đồng thời tiến hành một loạt các cuộc diễn tập hải quân và không quân về phía Đài Loan.

Đây có phải là một hành động chiến tranh?

Chính quyền chúng ta dường như không nghĩ như vậy, và người cộng sản Trung Quốc rất vui mừng để chúng ta nghĩ vậy. Với người Trung Quốc, tuy nhiên, đó là chiến tranh. Hoặc ít nhất là một bài kiểm tra chạy thử.

Một nhà quan sát Mỹ đã mô tả nó như sau:

Đây không phải là một phản ứng trẻ con đối với việc phủ nhận câu chuyện của Bắc Kinh về Đài Loan. Đây là cái mà Trung Quốc gọi là “dự án trình diễn” để kiểm tra cách Đài Loan và các đồng minh và bạn bè của họ phản ứng trước các cuộc xâm nhập trên không (và hải quân) (và các vụ phóng tên lửa). Nó mang lại cho QGPNDTQ cơ hội để đo lường và đánh giá việc thì triển ô dù phòng thủ tổng hợp Đài Loan-Mỹ  từ vệ tinh trên cao đến hoạt động dưới mặt biển. Đây là một diễn tập sa bàn (và huấn luyện thực địa) trong thời gian thực, 3D, để tiếp cận những khả năng nhất định của chiếc ô dù phòng thủ Đài Loan-Hoa Kỳ.

Đồng thời, Bắc Kinh đe dọa Đài Loan (cũng như người Mỹ, người Nhật và những người khác) và thử phản ứng. Nếu phản ứng yếu ớt hoặc sợ hãi, nó thúc đẩy suy nghĩ của Trung Quốc và khiến nhiều khả năng Tập Cận Bình sẽ ra lệnh “làm đi”.

Ngay cả trước tháng 8 năm 2022, khi Trung Quốc thử nghiệm phong tỏa Đài Loan, các cuộc xâm nhập trên không của Không lực Trung Quốc là một tiết mục thường xuyên trong không phận xung quanh Đài Loan.

Một phi công Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã mô tả cách một sự cố cụ thể liên quan đến một cuộc chiến cuối cùng:

Đây dường như là một đội  trinh sát điện tử có vũ trang đánh hơi các radar, vị trí và mảng phòng thủ trên không của Đài Loan. Đồng thời tạo phản xạ có điều kiện cho Đài Loan và thế giới trước những cuộc xâm nhập ngày càng lớn hơn, cho đến một ngày, gói xâm nhập dẫn đầu đó khơi mào hành động thù địch và loại bỏ một phần đáng kể hệ thống ngăn chận trên không chống-truy cập của [Đài Loan] trên toàn bộ khu vực. [Điều này tạo ra] một lỗ hổng để gói tấn công chính tiến vào và tấn công các vị trí radar và tên lửa còn lại từ phía sau. Điều này là không tốt, cũng không phải là hành động của một người hàng xóm đáng tôn trọng.

QGPNDTQ đã chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào Đài Loan trong 50 năm qua. Kể từ năm 2016, khi Đài Loan bầu Tổng thống Thái Anh Vân (người, không giống như tiền nhiệm của bà, không sẵn sàng khuất phục Bắc Kinh), áp lực quân sự của Trung Quốc đối với Đài Loan đã gia tăng đều đặn.

Máy bay và tàu của QGPNDTQ thường xuyên xâm phạm lãnh thổ và không gian của Đài Loan, và QGPNDTQ đã thiết lập cơ sở hạ tầng cho một cuộc tấn công vào Đài Loan – nếu Đài Bắc không nhượng bộ một cách hòa bình.

Như đã đề cập, Bắc Kinh cũng nhìn vào tình hình và sức mạnh chính trị của Mỹ – trong nước và toàn cầu. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phản ứng hiệu quả của Mỹ trước động thái của Trung Quốc đối với Đài Loan.

Vì vậy, các gián đoạn gây ra bởi các nhà hoạt động đốt phá các thành phố Mỹ, và một nửa đất nước và phần lớn tầng lớp tinh hoa của Mỹ (bao gồm cả những người của Đảng Cộng hòa luôn chống Trump) mắc phải Hội chứng Loạn trí Trump, cân nhắc lợi hại việc ủng hộ hành động chiến tranh.

Các điều kiện kinh tế và tài chính của Hoa Kỳ cũng được cân nhắc trong tính toán của Bắc Kinh. Sự lệ thuộc của Mỹ vào chuỗi cung ứng có lợi cho Trung Quốc.

Điều này hoạt động theo cả hai cách, nhưng ít hiệu quả hơn nếu Trung Quốc không bị trừng phạt, như nó đã cố gắng để làm thế. Ngành sản xuất của Hoa Kỳ, đặc biệt là cơ sở công nghiệp quốc phòng, đã suy giảm đến mức không thể sản xuất vũ khí hoặc chế tạo tàu và máy bay đủ nhanh (chứ đừng nói đến việc sửa chữa chúng) để tiến hành một cuộc chiến nghiêm trọng chống lại một đối thủ nghiêm trọng sẵn sàng gieo xúc xắc.

Từ quan điểm của Trung Quốc, tình trạng nợ nần chồng chất của Mỹ, lạm phát cao và chi tiêu phúc lợi (xã hội) ngoài tầm kiểm soát đã bóp nghẹt chi tiêu quốc phòng là một dấu hiệu thuận lợi khác cho các nhà hoạch định Trung Quốc.

Hoa Kỳ có thể thấy mình đơn giản là không đủ khả năng triển khai lực lượng để đáp trả. Kết hợp điều này với một cuộc tấn công vào đồng đô la và việc Trung Quốc bán phá giá trái phiếu Mỹ đang nắm giữ vào đúng thời điểm.

Fentanyl và các loại ma túy khác có nguồn gốc từ Trung Quốc đang tàn phá nước Mỹ và giết chết hàng chục nghìn người Mỹ mỗi năm, nhiều người trong độ tuổi quân dịch, càng làm thay đổi cán cân nghiêng về phía cộng sản Trung Quốc.

Và quan trọng theo quan điểm của Trung Quốc, là câu hỏi về ý chí của chính quyền Hoa Kỳ.

Chính quyền Trump là chính quyền Mỹ đầu tiên kể từ năm 1972 dường như có ý chí chống lại CHNDTQ và Bắc Kinh đã cảm nhận được điều này.

Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Trump vào năm 2017, các quan chức Trung Quốc đã cố gắng gây khó dễ cho các thành viên của phái đoàn Mỹ đến thăm. Tham mưu trưởng John Kelly (một tướng Thủy quân lục chiến đã nghỉ hưu) được cho là đã đụng độ với họ. Điều này có lẽ đã tạo nên tâm thế trong cách đối xử của Trung Quốc – ngần ngại, gần như tôn trọng – đối với chính quyền Trump.

Nhưng chính quyền kế nhiệm dường như ít sẵn sàng nghênh chiến hơn – mặc dù nó không hoàn toàn nghiêng về phía Trung Quốc như một số chính quyền trước đó, cả thuộc Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken đã tuyên bố trong một bài phát biểu về tầm nhìn chính sách đối ngoại của chính quyền Biden: “Mối quan hệ của chúng ta với Trung Quốc sẽ mang tính cạnh tranh khi cần thiết, hợp tác khi có thể và đối đầu khi phải vậy.  Và chúng ta sẽ giao tiếp với Trung Quốc từ một thế mạnh.”

Tuy nhiên, tuyên bố cao giọng của Ngoại trưởng Mỹ có thể không thuyết phục được Bắc Kinh.

Có lẽ họ đã đánh giá thấp ý định của Trung Quốc muốn có một kẻ thắng và một kẻ thua trong cuộc chiến giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Nó cũng có khả năng dồn người Mỹ vào chân tường. Thông thường, các chính quyền Hoa Kỳ tin rằng họ phải hợp tác giải quyết các vấn đề khác nhau với sự giúp sức của Trung Quốc: biến đổi khí hậu, Triều Tiên, tội phạm xuyên quốc gia, v.v. và điều đó có nghĩa là bỏ qua tất cả các loại hành vi sai trái của Trung Quốc.

Đồng minh của Mỹ?

Trung Quốc cũng xem xét tình trạng quan hệ của Hoa Kỳ với các đồng minh (và các đồng minh tiềm năng). Nó đang ghi chép điểm số và cố gắng đưa thêm nhiều nước hơn vào cột điểm Trung Quốc.

Cuối cùng, Nhật Bản có vẻ kiên quyết với Hoa Kỳ – nểu người Mỹ nghiêm túc trong việc chiến đấu – và Hải quân Nhật Bản là một vấn đề đối với Trung Quốc. Các bộ phận khác của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản thì ít đáng ngại hơn.

Úc, các chính phủ thậm chí cả Đảng Lao động, đã thể hiện dũng cảm và ý chí trong việc chống lại Trung Quốc kể từ năm 2015 khi phóng viên John Garnaut và Giáo sư Clive Hamilton xuất hiện và đi đầu trong việc vạch trần ảnh hưởng (chiến tranh chính trị) của CHNDTQ ở Úc.

New Zealand có rất nhiều lợi ích từ quan điểm của Trung Quốc.

Hàn Quốc dưới chính quyền Moon Jae-in thân Trung Quốc, nhưng chính quyền bảo thủ hiện tại đã ngăn cản sự chuyển hướng sang CHNDTQ và dù sao thì hầu hết người Hàn Quốc cũng không có tình yêu lớn đối với người Trung Quốc.

Các quốc gia ASEAN là một nhóm hỗn hợp, và thậm chí trên danh nghĩa là “thân Mỹ” Singapore đang cố gắng tránh chọn bên trong cuộc chiến giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ về Đài Loan – hay bất cứ điều gì khác.

Philippin đã tỏ ra khó khăn hơn dự kiến ​​cho Trung Quốc lôi kéo. Hợp tác quốc phòng Philippin-Mỹ đã tỏ ra bền bỉ hơn những gì Bắc Kinh có thể mong đợi sau khi Tổng thống Duterte đắc cử. Và mọi thứ đã thay đổi theo hướng có lợi cho Washington sau cuộc bầu cử Tổng thống Marcos vào năm 2022.

Đồng thời, CHNDTQ đã đạt được thành công đáng kể trong việc phát triển bạn bè trên khắp Châu Mỹ Latinh và Châu Phi, đến mức gần như mọi chính phủ ở Nam Mỹ hiện đều là cánh tả và nghiêng về Trung Quốc.

Và cho đến khi đại dịch COVID xảy ra, Châu Âu (bao gồm cả Vương quốc Anh) đã nghiêng nhiều về Trung Quốc.

Ví dụ, thủ tướng Anh David Cameron (đảng Bảo thủ) hoan nghênh đầu tư không kiểm soát của Trung Quốc vào nước này và ngành công nghiệp hạt nhân nhạy cảm, chưa kể đến việc phản đối các cảnh báo về Huawei. Cameron thiết lập một chính sách tập trung vào quỹ đầu tư Trung Quốc ngay sau khi rời nhiệm sở. (Bạn sẽ nghĩ ông ta là một chính trị gia Úc trước năm 2015.)

Tuy nhiên, cuộc chiến Ukraine và sự ủng hộ của Trung Quốc đối với Nga đã làm thay đổi đáng kể suy nghĩ của châu Âu.

Hầu hết các quốc gia châu Âu hiện nay coi Trung Quốc là một mối đe dọa, nghi ngờ về mối quan hệ kinh tế với CHNDTQ, mặc dù ở các mức độ khác nhau, với Đức là một trường hợp điển hình.

Vì vậy, số điểm của CHNDTQ có xu hướng dao động khi nó tính toán các triển vọng giải quyết một thứ gì đó mang tính động lực.

Khi nào Trung Quốc sẽ tiến hành  chiến tranh động lực?

“Khi thời cơ chín muồi.”

Năm 1974 sau Cách mạng Bồ Đào Nha, chính phủ mới của Bồ Đào Nha đề nghị trao trả Ma Cao cho Trung Quốc. Câu trả lời: “Không phải bây giờ. Khi đúng thời điểm.” Điều này phù hợp với chủ trương “chờ thời cơ” của Đặng.

Người Trung Quốc là người cơ hội. Họ sẽ hành động khi có sơ hở cho phép họ cướp lấy những gì họ muốn trong khi kẻ thù (hoặc những kẻ thù) không thể hoặc không sẵn sàng đáp trả một cách hiệu quả.

Nhưng theo chủ nghĩa cơ hội không có nghĩa là người Trung Quốc không theo thời biểu. Điều đó cũng không có nghĩa người Trung Quốc là trẻ con. Họ cũng thông minh như chúng ta.

Thuyền trưởng Hải quân Hoa Kỳ đã nghỉ hưu James Fanell, trước đây là người đứng đầu cơ quan tình báo tại Hạm đội Thái Bình Dương thuộc Hải quân Hoa Kỳ, là người đầu tiên đưa ra mốc thời gian này vào giữa những năm 2010 liên quan đến một cuộc tấn công động lực để chiếm Đài Loan.

Thuyền trưởng Fanell đánh giá rằng thập niên bắt đầu từ năm 2020 sẽ là “Thập niên Quan Ngại”. Đây là lúc Trung Quốc nghĩ rằng họ có khả năng quân sự để tấn công Đài Loan, chiếm giữ hòn đảo tự trị (một xứ sở có tất cả trừ tên gọi), và vẫn còn gần hai thập niên để thế giới tự do làm quen với điều đó trước năm 2049 – kỷ niệm một trăm năm thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vì vậy, những nhân vật ở Trung Nam Hải có thể tuyên bố rằng “sự phục hưng vĩ đại” của Trung Quốc đã hoàn tất.

Vì vậy, có lẽ công bằng khi nói rằng trong khung thời gian chung này Trung Quốc đang chờ đợi cơ hội để tiến công.

Đồng thời, nó tiếp tục các nỗ lực chiến tranh chính trị của mình để làm dịu bớt sự phản đối tiềm ẩn—và thậm chí tập hợp một số quốc gia ủng hộ Bắc Kinh, hoặc ít nhất là câm miệng—về thực chất là những điều giống nhau.

Trong khi đó, kẻ thù chính của Trung Quốc – Hoa Kỳ – dường như mất cân bằng. Xã hội bị rạn nứt. Mọi người đang xiết họng nhau. Nền kinh tế dễ bị tổn thương. Ngay cả quân đội Hoa Kỳ cũng không còn như trước đây. Các vấn đề tài chính không ở trong tình trạng tốt hơn.

Tuy nhiên, đồng đô la Mỹ vẫn còn mạnh do chưa có sự thay thế nghiêm trọng nào.

Từ quan điểm của Bắc Kinh, nó có khả năng chiến đấu, và đối thủ chính của nó có vẻ bối rối và mất tập trung.

Chờ đợi lâu hơn nữa, chẳng hạn như 5 năm, người Mỹ (và bạn bè của họ, đặc biệt là người Nhật) có thể tích lũy trí tuệ của mình và trở nên năng lực hơn và sẵn sàng chiến đấu hơn.

Đài Loan chưa tỏ ra có dấu hiệu đầu hàng.

Vì vậy, nếu phải sử dụng động lực,  hãy tiến nhanh, đánh mạnh và khiến kẻ thù của bạn phải đối mặt với một sư thể đã rồi.

 

 


Bình luận về bài viết này