
Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ của Jean Louis Taberd, năm 1838. Phía tây trấn Bình Hòa là vùng đất Mọi Bồ Nông
Nguyễn Văn Nghệ
Năm 2023, nhân dân tỉnh Khánh Hòa kỷ niệm 370 năm ngày thiết lập các đơn vị hành chính trên vùng đất Khánh Hòa. Theo sử liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn thì vào tháng 3 năm Quý Tỵ (1653) “Bắt đầu đặt dinh Thái Khang. Bấy giờ có vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm xâm lấn Phú Yên, sai Cai cơ Hùng Lộc (không rõ họ) làm Thống binh, Xá sai Minh vũ (không rõ họ) làm tham mưu, lãnh 3000 quân đi đánh. Quân đến Phú Yên, các tướng muốn dừng lại để dụ địch. Hùng Lộc nói: ‘Ra quân lúc không ngờ, đánh giặc lúc không phòng bị, là mưu hay của nhà binh. Nay quân ta từ nơi xa đến, lợi ở sự đánh chóng, cần gì phải dụ’. Bèn tiến quân vượt đèo Hổ Dương núi Thạch Bi, đánh thẳng vào thành, nhân đêm phóng lửa đánh gấp, cả phá được. Bà Tấm trốn chạy. Lấy được đất đến sông Phan Rang. Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân mang thư xin hàng. Hùng Lộc đem việc báo lên.Chúa [Nguyễn Phước Tần] y cho, khiến lấy sông Phan Rang làm giới hạn, từ phía đông sông đến địa đầu Phú Yên chia làm hai phủ Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Phủ Thái Khang có 2 huyện: Quảng Phước và Tân Định; phủ Diên Ninh có 3 huyện: Phước Điền, Vĩnh Xương và Hoa Châu. Đặt Dinh Thái Khang (nay là Khánh Hòa) cho Hùng Lộc trấn giữ. Phía tây sông Phan Rang vẫn về Chiêm Thành, bắt giữ lệ chức cống”[1]
Dinh Thái Khang được đổi thành dinh Bình Khang, năm Gia Long thứ 2 (1803) đổi dinh Bình Khang thành dinh Bình Hòa, năm Gia Long thứ 7 (1808) đổi dinh Bình Hòa thành trấn Bình Hòa, năm Minh Mạng thứ 13 (1832) đổi trấn Bình Hòa thành tỉnh Khánh Hòa và danh xưng Khánh Hòa tồn tại cho đến nay[2]
Trải qua 370 năm (1653-2023) địa giới giữa vùng đất nay gọi là Khánh Hòa và các tỉnh lân cận luôn có sự thay đổi chứ không phải giữ cố định như lúc ban đầu.
1-Địa giới Khánh Hòa và Phú Yên thay đổi qua 370 năm (1653-2023)
Trước năm 1653 ranh giới giữa dinh Trấn Biên (sau đổi dinh Phú Yên) với đất Chiêm Thành là núi Thạch Bi. Sau khi dinh Thái Khang được thành lập thì núi Thạch Bi (nằm trong dãy núi Đại Lãnh) vẫn là địa giới giữa 2 dinh (ngày xưa nếu gặp núi thì dùng đường phân thủy[chia nước] để định địa giới giữa các vùng với nhau, nếu gặp sông suối thì dùng sông suối làm giới hạn).
Dãy núi phân chia Phú Yên và Khánh Hòa gọi theo âm Hán Việt là Đại Lãnh, gọi theo âm Nôm là Đèo Cả. Khoảng trước năm 1920 đường Thiên lý từ bắc vào nam, điểm khởi đầu để vượt qua dãy Đại Lãnh để sang đất Khánh Hòa, bắt đầu từ miếu Thiên Y A Na ở thôn Hảo Sơn, Phú Yên, sau đó vượt dốc lên đến eo núi thấp nhất trong dãy Đại Lãnh (khoảng bên trên nóc hầm Đèo Cả hiện nay). Nơi eo núi này có trạm Phú Hòa. Đây là ranh giới đường bộ giữa Phú Yên và Khánh Hòa.
Hoàng Việt nhất thống chí ghi: “Trạm Phú Hòa, đóng ngay giữa đỉnh Đèo Cả, nơi địa giới của 2 dinh Phú Yên và Bình Hòa, vậy nên đặt tên trạm là Phú Hòa” (Phú Hòa dịch, kiến tại Đèo Cả đính trung, thử vi Phú Yên Bình Hòa nhị dinh giáp giới chi sở, cố danh Phú Hòa). Trạm Phú Hòa được người dân Khánh Hòa gọi là “Trạm Đảnh” (Trạm trên đảnh núi) hoặc “Trạm Địa đầu” (Trạm Phú Hòa là trạm địa đầu của Khánh Hòa tính từ ranh giới Phú Yên và Khánh Hòa trở vào)
Ngoài ra Hoàng Việt nhất thống chí cũng ghi cương giới của dinh Bình Hòa: “Phía đông giáp biển, tây liền với núi động, nam giáp Bình Thuận ở Truông Rễ, bắc giáp Phú Yên ở Đèo Cả” (Cương giới: đông tiếp hải tân, tây liên sơn động, nam giới Bình Thuận Truông Rễ, bắc giới Phú Yên Đèo Cả)[3]
Đại Nam nhất thống chí (bản Duy Tân) ghi: “Trạm Phú Hòa ở trên núi Đại Lãnh là chỗ giao giới tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa, nên gọi tên ấy”[4]
Sách Đại Nam dư địa chí ước biên ghi về cương giới tỉnh Phú Yên: “Tỉnh Phú Yên phía đông đến biển, phía tây đến động Man, phía nam đến Đại Lãnh” và “Núi Đại Lãnh là ranh giới giữa Phú Yên và Khánh Hòa. Vạc Tuyên khắc hình, điển thờ ghi tên, là ngọn núi nổi tiếng”[5a]
Đại Nam nhất thống chí (bản Tự Đức & Duy Tân) ghi chép Vũng Rô (Bản Tự Đức dịch là “Đầm Ô Rô”và Hòn Nan gọi là “Hòn Cột”; bản Duy Tân dịch là “Đầm Ô Sô” và Hòn Nan gọi là “Đảo Trụ”) thuộc về tỉnh Khánh Hòa [5b]. Bản đồ huyện Quảng Phước (Quảng Phước huyện đồ) trong Đồng Khánh dư địa chí vẽ Bàn Sơn (núi Bàn) tục gọi Mũi Lớn che chắn Vũng Rô thuộc về Khánh Hòa[5c]
Sau khi Pháp thiết lập nền đô hộ trên nước ta, họ tiếp tục xác định ranh giới giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa vẫn là trạm Phú Hòa trên đỉnh Đèo Cả.
Năm 1886 Étienne Aymonier (1844-1929) theo chân đoàn quân viễn chinh Pháp ra Khánh Hòa đánh dẹp Phong trào Cần vương đã ghi chép về địa giới giữa Phú Yên và Khánh Hòa: “Après trois heures d’ascension et de marche pénible dans le défilé, on atteint le dixième et dernier trạm de la province, le trạm de Phú Hòa, vulgairement appelé trạm Đảnh (relai du sommet” ou trạm Địa Đầu “le relai de la frontière”, par ce qu’il est stitué à la limite des deux provinces du Phú Yên et du Khánh Hòa, on peut-être parce que fut longtemps la frontière entre Annamites et Tjams”[6] (Sau 3 giờ leo dốc và bước đi nặng nhọc trong dãy núi, người ta đến được trạm thứ 10, cũng là trạm cuối cùng của tỉnh: Trạm Phú Hòa, dân chúng thường gọi là Trạm Đảnh “relai du sommet- trạm trên chót” hay Trạm Địa Đầu (le relai de la frontière- trạm của ranh giới”, bởi trạm nằm ở ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, hay có thể bởi vì trước kia, thời gian lâu đó là ranh giới giữa người An Nam và Chàm)
Ranh giới bờ biển phía bắc của tỉnh Khánh Hòa được Aymonier xác định: “Enfin, la province est borne au nord par la grande chaine qui va plonger son dernier contrefort au cap dit de Varella” (Và cuối cùng tỉnh Khánh Hòa được giới hạn về phía bắc bởi dãy núi lớn đâm ra bờ biển như pháo đài ở mũi gọi là Varella). Mũi Varella là nơi chấm dứt đường bờ biển Khánh Hòa về phía bắc: “A ce cap Varella ou cap de la Pagode, le Mũi Nại des Annamites finit la cote de la province du Khánh Hòa”[7] (từ cái mũi Varella này hay là Mũi Chùa, Mũi Nại[8] của người An Nam là chấm dứt đường bờ biển của tỉnh Khánh Hòa)
Năm 1892 ông J.Brien, Phó Thanh tra Trạm và Bưu điện (Sous-Inspecteur des Postes et des Télégraphes) đã được phép Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ là De Lanessan làm một chuyến khảo sát đường trạm từ Qui Nhơn vào đến ranh giới giữa 2 tỉnh Bình Thuận và Biên Hòa. Ông J.Brien đã xem miếu Thiên Y ở Hảo Sơn phía bắc chân Đèo Cả là mốc cây số đầu tiên của đoạn đường vượt qua Đèo Cả, ông cho biết: “Entre troisième et le quatrième kilomètre on arrive au trạm de Phú Hòa qui marque à peu près la limite des provinces du Phú Yên et du Khánh Hòa. Deux misérables cases en paillotes à peine fermées, forment le seul abri des voyageurs et de coolies trams”[9] (Giữa cây số thứ 3 và thứ 4 người ta đến trạm Phú Hòa, trạm này gần như là đánh dấu giới hạn các tỉnh Phú yên và Khánh Hòa. Hai cái nhà lá tồi tàn, cửa khép hờ làm nên chỗ trú ngụ khách đi đường và của phu trạm).
Tác phẩm “L’Annam en 1906” phần viết về “Province de Phu Yen” (tỉnh Phú Yên): “Le Deo Ca celui-ci très difficile et bien connu par indigènes a la limite de cette dernière province et de celle du Khanh Hoa”[10] (Đèo Cả, đèo này quá khó, dân bản xứ ai cũng biết, ở ranh giới của tỉnh sau này[Phú Yên] với tỉnh Khánh Hòa)
Annuaire Général de l’Indochine 1910 ghi chép về tỉnh Khánh Hòa từ trang 530-534, mục Orographie (Sơn hình học) đã viết về mũi Varella và vụng Vũng Rô: “Au pied du Varella, se trouve également la baie de Vung Ro, merveilleusement abritée contre les deux moussons. Elle a 3 milles de longeur sur deux milles de largeur, avec des profondeurs de 11 à 16 mètres. Elle est entourée et dominée de toutes parts par de hautes montagnes, qui forment de massif du cap Varella (Mui Nai). C’est au Varella que se termine la province du Phu Yen et que commence celle du Khanh Hoa” (Dưới chân Varella có vụng Vũng Rô, nó tuyệt mỹ được che chắn chống lại hai đợt gió mùa. Vịnh có 3 dặm chiều dài với 2 dặm chiều rộng, sâu từ 11-16 mét. Nó được bao bọc và khống chế mọi phía bởi những rặng núi cao làm thành hệ thống núi mũi Varella (Mũi Nại). Chính ở Varella mà kết thúc tỉnh Phú Yên rồi bắt đầu tỉnh Khánh Hòa.
Khoảng năm 1916-1920 thực dân Pháp mở con đường men theo biển để thay thế đoạn đường qua trạm Phú Hòa. Sau khi đoạn đường Đèo Cả hoàn thành, trạm Phú Hòa được dời đến địa điểm mới, cũng nơi đường phân thủy giữa Phú Yên và Khánh Hòa trên quốc lộ I, nơi đỉnh Đèo Cả ở Km 1360,815 (nơi Ngã Ba đường rẽ xuống cảng Vũng Rô). Tại đây thực dân Pháp đặt một trạm bưu điện gọi là Trạm Phú Hòa, người Pháp gọi là Petit Poste, dân địa phương gọi là Bót Bơ tí. Do đó có câu ca: “Trạm Phú Hòa, Pháp Lang sa/ Đổi ra Bót Bơ tí/ Anh gặp em rày/ Cho anh xin chút xí tình thương/ Để nữa rồi/ Lỡ Nam Bắc đôi phương/ Nghĩa non tình biển/ Còn vấn vương tơ lòng”.
Ngày 19/1/1904 Nghị định của Toàn quyền Đông Dương: “Bãi bỏ Đại lý Hành chính Củng Sơn (huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên). Đem phần đất đai ở về phía nam và về phía tây của huyện Sơn Hòa là vùng dân tộc thiểu số thuộc Đại lý này sáp nhập vào tỉnh Khánh Hòa và thành lập một Đại lý mới, trụ sở đặt tại Ma-đơ-rác (Pháp viết là M’Drack)[11]
Ngày 6/9/1923 Nghị định Toàn quyền Đông Dương “Tạm thời đặt Đại lý Mơ-đơ-rác được thành lập do Nghị định ngày 19/1/1904 dưới quyền chính trị và hành chính của Công sứ Đắc- lắc”[12]
Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa địa giới giữa tỉnh Khánh Hòa và tỉnh Phú Yên vẫn duy trì như dưới triều Nguyễn và thời Pháp thuộc. Vào năm 1962 ông Nguyễn Đình Tư là công chức của Ty Điền địa tỉnh Phú Yên, ông đã viết tác phẩm “Non nước Phú Yên”, xuất bản lần đầu vào năm 1965. Trong đó ông viết về địa giới phía nam của tỉnh Phú Yên: “phía nam giáp tỉnh Khánh Hòa ở cây số 1360,815” và trên đỉnh đèo Cả nơi Quốc lộ I xuyên qua: “xưa kia là trạm Phú Hòa, nơi phân giới giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Ngày nay địa phận tỉnh Phú Yên chấm dứt ở cây số 1360,815”. Còn bờ biển: “Từ cửa Đà Nông vào đến Vũng Rô giáp Khánh Hòa có dãy núi Đá Bia nằm sát biển, nên bờ biển cao và dốc, ghềnh đá ngổn ngang rất nguy hiểm cho việc thủy vận, nên ở Mũi Nạy có thắp hải đăng. Bờ biển Phú Yên chấm dứt tại đây”[13]
Trong tác phẩm “Non nước Khánh Hòa” cũng của tác giả Nguyễn Đình Tư đã viết địa giới phía bắc của tỉnh Khánh Hòa: “phía bắc giáp hai quận Hiếu Xương và Phú Đức thuộc tỉnh Phú Yên ở cây số 1360,815 trên quốc lộ 1”[14].
Sau ngày đất nước thống nhất, địa giới giữa hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên vẫn duy trì như cũ.
Thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/TW ngày 20/9/1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ khu, hợp tỉnh và Nghị quyết số 19/NQ ngày 20/12/1975 của Bộ Chính trị về việc điều chỉnh việc hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam, tháng 2/1976 Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo Nghị định này, hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa hợp nhất làm một tỉnh và lấy tên là tỉnh Phú Khánh.
Ngày 13/9/1985 theo Quyết định số 230-HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng chia xã Vạn Thọ thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Phú Khánh thành hai xã lấy tên là xã Vạn Thọ và xã Đại Lãnh.
Xã Đại lãnh gồm có 3 thôn: Đông, Tây và Vũng Rô. Địa giới xã Đại Lãnh: phía đông giáp Biển Đông, phía tây, phía bắc giáp huyện Tuy Hòa, phía nam giáp xã Vạn Thọ. Như vậy thôn Vũng Rô về phía Bắc giáp đất huyện Tuy Hòa[15]
Ngày 30/6/1989 theo Nghị quyết của Quốc Hội khóa VIII kỳ họp thứ 5 phân chia tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh là tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa. Trong lần phân chia này, địa giới giữa 2 tỉnh không còn như thời Việt Nam Cộng Hòa trở về trước nữa, mà có sự dịch chuyển về phía nam và không phân chia không theo đường phân thủy nữa.
Việc phân chia địa giới lần này giữa tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa không được êm thấm và việc tranh chấp địa giới giữa 2 tỉnh kéo dài gần 5 năm (30/6/1989-18/4/1994).
Quốc hội khóa IX họp từ ngày 6-30/12/1993 có Nghị quyết địa giới hành chính giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa tại khu vực Vũng Rô – Đèo Cả:
“Tuyến ranh giới được cắt từ đỉnh cao nhất 580-600m xuống mỏm phía nam núi Đá Đen theo kinh độ 1090 23’24” đông, vĩ độ 120 50’28” bắc, tới chân mép nước cực phía nam của đảo Hòn Nưa (lúc thủy triều thấp nhất) phía bắc thuộc huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên quản lý…Chuyển thôn Vũng Rô thuộc xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa sáp nhập vào xã Hòa Xuân, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
“Thi hành Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, ngày 20/1/1994 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 26/TTg về việc điều chỉnh địa giới hành chính hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Ngày 15/4/1994 Thủ tướng Chính phủ có công điện 194/CP gửi lãnh đạo hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa về việc tiến hành bàn giao địa giới hành chính khu vực Đèo Cả- Vũng Rô vào ngày 18/4/1994 và công việc bàn giao đã hoàn tất”[16].
Tuy nói là công việc bàn giao hoàn tất, nhưng vấn đề ranh giới biển, đảo giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa chưa giải quyết dứt điểm. Ngày 18/4/2018 tại thành phố Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa tổ chức Hiệp thương phân định ranh giới quản lý hành chính trên biển, đảo giữa hai tỉnh.
“Theo phương án do Trung tâm biên giới và địa giới (đơn vị tư vấn) trình bày tại hội nghị, ranh giới giữa tỉnh Phú Yên với Khánh Hòa là từ điểm cuối cùng trên đất liền giữa xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên với xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa đến đường mép nước thấp nhất (tính mực nước thủy triều lúc thấp nhất tại Hòn Nưa, cách điểm phân định ranh giới 72,0 m về hướng Đông Bắc). Từ điểm phân định ranh giới giữa hai tỉnh, theo hướng Đông Nam đường ranh giới đi thẳng và kết thúc tại điểm giao nhau giữa đường ranh giới hành chính của huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên và huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa với đường cơ sở”[16a].
Sau lần Hiệp thương ấy, Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam “dự kiến trong Quý III/2021 sẽ phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, đề xuất phương án giải quyết 8 cặp tỉnh chưa thống nhất ranh giới quản lý hành chính trên biển, đó là: Thành phố Hải Phòng với tỉnh Thái Bình; … ; tỉnh Phú Yên với tỉnh Khánh Hòa; tỉnh Khánh Hòa với tỉnh Ninh Thuận;…” và cũng “dự kiến trong Quý II/2022 Cục cũng sẽ chủ trì, phối hợp với cán bộ, cơ quan Trung ương và UBND cấp tỉnh có biển hoàn thiện bộ hồ sơ, bản đồ xác định ranh giới quản lý biển, đảo để bàn giao cho các địa phương hoàn thiện hồ sơ bản đồ địa giới hành chính”[16b].
Như vậy địa giới hành chính giữa Phú Yên và Khánh Hòa lấy đường phân thủy dãy Đại Lãnh làm địa giới được tồn tại từ 1653- 1994.
2- Những thay đổi địa giới hành chính giữa Khánh Hòa và Ninh Thuận trong quá khứ
Địa giới hành chính giữa Khánh Hòa và Ninh Thuận không cố định mà có sự dịch chuyển qua lại nhiều lần. Năm 1653 địa giới phía nam của dinh Thái Khang (sau là Bình Khang, Bình Hòa, Khánh Hòa) và vương quốc Champa là sông Phan Rang. Năm Nhâm Thân(1693) Chúa Nguyễn Phúc Chu chiếm phần đất còn lại của Champa và đặt làm trấn Thuận Thành, sau đổi làm dinh Bình Thuận. Trước thời vua Đồng Khánh vùng đất Ninh Thuận hiện nay trước đây là một phần đất của dinh Bình Thuận.
Sau khi thành lập trấn Thuận Thành thì địa giới của Khánh Hòa không còn tại sông Phan Rang nữa, mà lui về phía bắc lấy Truông (Giồng) Rễ làm giới hạn. Ngay Truông Rễ có trạm Hòa Thuận (Truông Rễ ở phía nam thôn Suối Đá, xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận hiện nay): “…đến Suối Đá rộng 6 tầm, suối này nước ngọt và trong, mùa xuân hè thì nước cạn, thu đông do mưa lụt nên sâu, tục gọi là Suối Đá. Đến Giồng Rễ trạm Hòa Thuận, phía bắc thuộc phủ Diên Khánh, phía nam thuộc phủ Bình Thuận, tức là nơi giáp giới của hai dinh Bình Hòa và Bình Thuận” (…chí Suối Đá tuyền, quảng lục tầm, thử tuyền thủy thanh đạm, xuân hạ thủy thiển, thu đông vũ lạo thủy thâm, tục danh Suối Đá. Chí Giồng Rễ Hòa Thuận dịch, bắc thuộc Diên Khánh phủ, nam thuộc Ninh Thuận phủ, tức Bình Hòa, Bình Thuận nhị dinh giáp giới chi sở)[17].
Trước tháng giêng năm Mậu Tý (1888), thôn nằm ở cực nam duyên hải của tỉnh Khánh Hòa là thôn Vĩnh Hy thuộc tổng Xương Hà, huyện Vĩnh Xương, phủ Diên Khánh[18a]
Tháng giêng năm Mậu Tý (1888) trích phần đất huyện An Phước thuộc phủ Ninh Thuận (trước đó phủ Ninh Thuận lãnh 2 huyện An Phước và Tuy Phong) nhập vào tỉnh Khánh Hòa: “…vậy phủ Ninh Thuận, nguyên vẫn lệ thuộc ở tỉnh Bình Thuận, nên trích ra cho lệ thuộc vào tỉnh Khánh Hòa, mà huyện Tuy Phong, nguyên vẫn lệ thuộc vào phủ Ninh Thuận thống hạt, cho đổi thuộc phủ Hàm Thuận thống hạt, lệ thuộc vào tỉnh Bình Thuận”[18b].
Như vậy từ tháng giêng năm Mậu Tý (1888) địa giới phía nam của tỉnh Khánh Hòa mở rộng cho tới Cà Ná.
Đến tháng 3 năm Tân sửu (1901) trích phần đất phủ Ninh Thuận sáp nhập vào Khánh Hòa để thành lập đạo Ninh Thuận: “Bắt đầu đặt đạo Ninh Thuận (trích phủ Ninh Thuận và huyện An Phước tỉnh Khánh Hòa thành lập một đạo, lỵ sở đặt tại xứ Phan Rang), lấy Tri phủ Nguyễn Văn Thụy thăng lãnh Quản đạo (lúc bấy giờ Công sứ tỉnh Khánh Hòa vì phủ Ninh Thuận địa thế xa cách, công vụ bận rộn, nghĩ nên đặt riêng làm một đạo để tiện quản trị, tư cho Khâm sứ đại thần bàn bạc với bề tôi Cơ mật viện tâu lên, chuẩn cho thi hành)19]
Đơn vị hành chính “Đạo” thấp hơn đơn vị hành chính “Tỉnh”. Người Việt gọi là “Đạo Ninh Thuận” nhưng người Pháp không có từ tương đương với “Đạo” nên vẫn gọi là “Province de Phan Rang- tỉnh Phan Rang”: “Les limites de la province de Phan rang sont: la province de Khanh hoa au Nord…” (Đường ranh giới của tỉnh Phan Rang: tỉnh Khánh Hòa ở phía Bắc…)[20]
Nhiều người đọc Đại Nam nhất thống chí (bản Duy Tân) về đạo Ninh Thuận đều thắc mắc “Đạo Ninh Thuận làm gì có cửa tấn Cam Ranh” khi đọc những dòng sau: “Cửa tấn Cam Ranh: Ở cực giới phía bắc huyện An Phước, một nửa thuộc hạt Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa. Bề ngang 4000 thước tây, sâu 18 thước đến 29 thước”[22]
Tháng 5 năm Nhâm Dần (1902) : “Định ranh giới đạo Ninh Thuận và tỉnh Khánh Hòa (chia vùng đất từ vịnh Cam Ranh tới sống núi, hai phần rưỡi quy về phía nam thuộc đạo ấy, nửa phần quy về phía bắc thuộc tỉnh ấy. Dịch trạm Hòa Hợp cho nhập vào đạo Ninh Thuận, còn dân ở thôn Thủy Triều giữa đường trạm rút về chịu thuế)[22]. Như vậy từ Dốc Sạn thẳng ra cửa biển Cam Ranh trở về phía nam của Khánh Hòa được tách ra sáp nhập vào đạo Ninh Thuận.
Tháng 6 năm Giáp Dần (1914): “Đổi đạo Ninh Thuận làm phủ Ninh Thuận (quy vào tỉnh hạt Khánh Hòa)”[23]. Như vậy vùng đất Ninh Thuận lần thứ 2 sáp nhập vào tỉnh Khánh Hòa.
Tháng chạp năm Giáp Dần (1914): “Chuẩn cho Thổ huyện An Phước lệ vào tỉnh Khánh Hòa (Thổ huyện An Phước vốn thuộc đạo Ninh Thuận, đến lúc ấy đổi đạo làm phủ, huyện ấy thuộc huyện cũ, chiểu lời Nghị định của Toàn quyền đại thần ngày 10-5-1914 Tây lịch, huyện cũ sáp nhập vào tỉnh Khánh Hòa, vì thế bộ Lại bèn tâu chuẩn sáp nhập vào tỉnh Khánh Hòa để tiện công vụ)[24] Huyện Thổ là huyện của người Chàm và Rắc lây.
Đến tháng 7 năm Nhâm Tuất (1922): “Trích phủ Ninh Thuận và huyện An Phước tỉnh Khánh Hòa đặt lại đạo Ninh Thuận (đạo Ninh Thuận trước đây đã đổi làm đạo, về sau có việc đổi lại làm phủ. Đến lúc ấy địa giới ngày càng mở mang, việc xây dựng đang mở ra, nên đặt lại làm đạo để trọng sự quyền)”[25]
Địa giới giữa tỉnh Khánh Hòa và đạo Ninh Thuận ra đến Dốc Sạn (phía nam Dốc Sạn là thôn Hòa Diêm) của thành phố Cam Ranh hiện nay. Điều này được ghi rõ trong sắc phong cho đình Hòa Diêm, đình Hiệp Mỹ (nay thuộc xã Cam Thịnh Đông, thành phố Cam Ranh: Sắc phong Khải Định nhị niên, tam nguyệt thập bát nhật(ngày 18/3/Khải Định năm thứ 2- tức năm Đinh Tỵ[1917]) được mở đầu: “Sắc Ninh Thuận đạo, Mỹ Tường tổng…”; Sắc Khải Định cửu niên, thất nguyệt nhị thập ngũ nhật (ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9- tức năm Giáp Tý[1924]) được mở đầu: “Sắc Ninh Thuận đạo…”[26]
Thời điểm phần đất từ Hòa Diêm vào đến Suối Đá của Khánh Hòa được sáp nhập vào đạo Ninh Thuận trở về lại với Khánh Hòa chưa tra cứu được tài liệu. Các bản đồ sau năm 1954 cho thấy địa giới Khánh Hòa ngay phía nam Suối Đá xuống tận phía nam thôn Vĩnh Hy (Vũng Găng).
Ngày 6/4/1960 thành lập một quận gọi là quận Du Long đặt thuộc tỉnh Ninh Thuận. Do đó cắt các xã Cam Thọ, Cam Ly, 2 thôn Ma Dú và Sông Cạn của xã Cam Lục cũ, thôn Trại Láng của xã Cam Lương, một phần đất thôn Hòa Diêm thuộc xã Cam Lộc (tất cả các phần đất được cắt thuộc quận Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa) nhập vào quận Du Long. Quận lỵ Du Long đặt tại Karom xã Cam Ly (vịnh Cam Ranh, đảo Bình Ba và bán đảo Cam Ranh vẫn thuộc Khánh Hòa)[27]
Năm 1965 thành lập thị xã Cam Ranh, cho nên ngày 3/1/1967: các ấp Hòa Diêm, Mỹ Thanh, Trại Láng, Ma Dú, Sông Cạn (nay thuộc xã Cam Thịnh Đông, thành phố Cam Ranh) đã sáp nhập vào quận Du Long nay lại sáp nhập vào thị xã Cam Ranh[28]
Từ đây tỉnh Ninh Thuận: “Bắc giáp quận Cam Lâm, ở cây số 1525 trên Quốc lộ số 1” và “Bờ biển Ninh Thuận bắt đầu từ mũi Cà Tiên giáp giới Cam Ranh ở phía Bắc”[29]
Như vậy địa giới đất Khánh Hòa và Ninh Thuận ngay tại trụ Km phía bắc cầu Cây Da (thôn Mỹ Thanh, xã Cam Thịnh Đông hiện nay) xuống cho tới mũi Cà Tiên và địa giới ấy vẫn duy trì cho đến nay.
**********Riêng đảo Hòn Chút (đảo Bình Hưng) nằm về phía đông nam của mũi Cà Tiên khá xa, nhìn trên bản đồ rất nhiều người nhầm tưởng đảo ấy thuộc về xã Công Hải, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận, nhưng thực tế đảo Hòn Chút thuộc về xã Cam Bình, thành phố Cam Ranh.
Sáng ngày 10/4/2018 tại thành phố Cam Ranh, UBND tỉnh Khánh Hòa và UBND tỉnh Ninh Thuận tổ chức Hội nghị Hiệp thương phân định ranh giới quản lý hành chính trên biển, đảo giữa hai tỉnh.
“Theo phương án do Xí nghiệp Tài nguyên và Môi trường 5 (đơn vị tư vấn cho Khánh Hòa) trình bày tại Hội nghị, ranh giới giữa tỉnh Khánh Hòa với Ninh Thuận là từ điểm cuối cùng trên đất liền thuộc mũi Cà Tiên cắt thẳng đến đường mép nước thấp nhất (khi thủy triều xuống) kéo về phía thôn Bình Hưng (đảo Hòn Chút) xã Cam Bình. Riêng tại vùng đảo Hòn Chút, do bị chồng lấn ranh giới biển, đảo với phần đất liền huyện Thuận Bắc, Ninh Thuận nên khu vực này được chia đều mỗi tỉnh quản lý một nửa. Từ đây ranh giới tiếp tục được xác định theo đường vuông góc với đường cơ sở.
Tuy nhiên Xí nghiệp Tài nguyên và Môi trường 1, đơn vị tư vấn phân định ranh giới cho Ninh Thuận lại có một phương án hoàn toàn khác. Cụ thể đường ranh giới được tính từ đường mép nước thấp nhất mũi Cà Tiên kéo thẳng ra hướng đông, cắt qua thôn Bình Hưng rồi hướng thẳng ra đường cơ sở”[29a]
Sau Hội nghị Hiệp thương giữa hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận vẫn chưa giải quyết dứt điểm về đường ranh giới biển, đảo giữa hai tỉnh[29b]************
3- Địa giới Khánh Hòa với các tỉnh Đắk Lắk và Lâm Đồng trong hơn 100 năm qua
Từ đầu thế kỷ 20 trở về trước phía tây của tỉnh Khánh Hòa không có đường ranh giới chính thức. Hoàng Việt nhất thống chí ghi: “tây liền với núi động” (tây liên sơn động). Đại Nam nhất thống chí (bản Tự Đức và bản Duy Tân) cũng như Đồng Khánh Dư địa chí đều ghi: “Đông tây cách nhau 58 dặm” và từ tỉnh thành Khánh Hòa đến “phía tây đến Man động 37 dặm…phía tây nam đến Man động 71 dặm…phía tây bắc đến Man động 97 dặm”[30].
Khu vực “Man động” phía tây của Khánh Hòa được An Nam đại quốc họa đồ của Jean Louis Taberd 1838 ghi vùng đất của “Mọi Bồ Nông”
Thời xưa những khu vực tương đương với xã hiện nay như: xã Ninh Sim, Ninh Tân (thị xã Ninh Hòa), xã Diên Xuân, Diên Đồng (huyện Diên Khánh), xã Cam Phước Đông (thành phố Cam Ranh) trở về phía tây đều gọi là “Man động”, những buôn làng của người dân tộc thiểu số sống gần người Kinh được triều đình gọi là “Hạ đê Man sách” (Sách của người Man ở vùng thấp. Triều đình gọi buôn làng của người dân tộc thiểu số là “Sách”. Trong Đồng Khánh dư địa chí Tập 2, trang 1629 dịch giả không hiểu từ “Hạ đê” nên đã bỏ qua: “Tự tỉnh thành chi tây chí hạ đê man đẳng sách, thông trường tam thập bát lý” được dịch là “Một đường nhỏ từ tỉnh thành đi về phía tây đến tận cùng các sách Man, dài 38 dặm”).
Từ những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thiết lập các tỉnh Đồng Nai Thượng (sau đổi Lâm Viên, rồi Lâm Đồng), Darlac (người Pháp gọi Darlac, sang thời Việt Nam Cộng Hòa cũng sử dụng từ này. Từ năm 1979 cách viết Đắk Lắk chính thức sử dụng và có tính pháp lý theo thông tin số liệu của Tổng cục Thống kê công bố (Ban hành theo Quyết định số 121-TCTK/PPCĐ ngày 2/3/1979)” thì địa giới giữa Khánh Hòa và hai tỉnh trên mới rõ rệt.
Từ ngày thành lập tỉnh Darlac 22/11/1904 cho đến ngày 1/2/1929 Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ là Pierre Pasquier ký Nghị định sửa đổi đường ranh giới giữa 2 tỉnh Darlac và Khánh Hòa. Nghị định ghi: “Article premier.- La frontière entre les deux provinces du Darlac et du Khanh hoa telle qu’elle figure sur les cartes du Service Géographique édtion de mai 1927 (feuille n0 194 Nha trang et n0 183 Hon-Cohé est reportée sur la route locale n0 157 (Ninh hoa à Ban-mé thuot par M’Drack) au kil. 28 près l’ancien tram de Suoi trinh. De là d’une part, vers l’Ouest, elle suit la ligne de crête qui au Nord du Suoi about it à quelque distance de là à la ChuBli (956m); d’autre part vers l’Est, passe par le sommet 847 (S.E. de B. AiThi) coupe la EaSa à 2 kilomètres environ au Sud de B.Deo et par la ligne de crête de la ChuRa, gagne le massif de la Mère et de l’Enfant puis le sommet 1802 (à l’Ouest du Dai-Da-Da) suivant la ligne de partage des eaux des bassins Phu yen- Khanh hoa”[31] (Điều 1.- Ranh giới giữa 2 tỉnh Darlac và Khánh Hòa như được thể hiện trên các bản đồ của Nha Địa lý phát hành tháng 5/1927 (tờ số 194 Nha Trang và số 183 Hon-Cohé (Hòn Khói-T/g) được tham chiếu trên đường địa phương số 157 (Ninh Hòa đi Ban Mê Thuột qua đèo M’Drack) tại cây số 28 gần trạm cũ Suối Trình (gọi đúng tên là Suối Chình- T/g). Từ đó một nhánh theo hướng tây đi theo đường phân thủy (chia nước) ở phía bắc của Suối và kết thúc ở cách đó một đoạn tại núi ChuBli (956m); nhánh khác theo hướng đông đi ngang qua đỉnh 847 (đông nam của Buôn AiThi) cắt EaSa ở khoảng 2 cây số về phía nam của Buôn Đeo và qua đường phân thủy (chia nước) ChuRa, nó chạy đến khối núi Mẹ Bồng Con[32] rồi đến đỉnh 1802 (ở phía tây của Đại Đa Đa)[33] đồng thời đi theo đường phân thủy (chia nước) của các bồn địa (đồng bằng) Phú Yên-Khánh Hòa).
Ngày 17/4/1959 Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh: “Nay lập một cơ sở hành chính gọi là Khánh Dương và đặt thuộc quận Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa” và “Trụ sở cơ sở hành chính đặt tại Khánh Chỉ”[34]
Như vậy tỉnh Darlac cắt 2 tổng: Krong-Jing (gồm các xã Ea Ksung, Ea Pal) và Krong Hing (gồm các xã Cư Pai, Ea Trang, Ea M’dual) thuộc quận M’Drack nhập vào quận Ninh Hòa.
Ngày 21/12/1960 Cơ sở hành chính Khánh Dương thuộc quận Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa được cải thiết thành quận Khánh Dương. Quận lỵ Khánh Dương đặt tại Ea Ksung[35].
Từ năm 1976 phần đất quận Khánh Dương được trả lại cho tỉnh Đắk Lắk, nhưng tại khu vực giáp ranh giữa xã Ea Trang, huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk và xã Ninh Tây, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa việc phân định địa giới không rõ ràng nên còn tồn tại khu vực chồng lấn về địa giới hành chính giữa hai tỉnh tại khu vực nói trên với tổng diện tích là 9300 ha, dẫn đến việc chưa xác định đường chỉ giới hành chính giữa hai tỉnh, gây ra một số khó khăn, vướng mắc cho các địa phương trong việc quản lý đối với địa bàn này. Thực hiện Chỉ thị số 364-CT ngày 6/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính tỉnh, huyện, xã, lãnh đạo hai tỉnh và các cơ quan liên quan ở trung ương đã nhiều làn tổ chức các cuộc họp, nghiên cứu khảo sát thực tế để đưa ra các phương án giải quyết nhưng vẫn chưa tìm được sự thống nhất chung.
Tại cuộc làm việc chiều ngày 20/6/2017 vừa qua, trên cơ sở phương án do liên ngành trung ương đề xuất, lãnh đạo hai tỉnh Đắk Lắk và Khánh Hòa đã thống nhất giải quyết dứt điểm việc xử lý khu vực địa giới hành chính chồng lấn, theo đó tỉnh Khánh Hòa sẽ quản lý 5341,4 ha/9300 ha (trong đó có hồ thủy điện Ea Krông Rou), tỉnh Đắk Lắk sẽ quản lý 3958,6 ha/ 9300 ha (trong đó có Hòn Vọng Phu và núi Mẹ Bồng Con). Phương án giải quyết này đã đạt được sự đồng thuận cao giữa lãnh đạo hai tỉnh Đắk Lắk, Khánh Hòa và các cơ quan liên quan, là cơ sở để tiến hành cắm mốc phân định địa giới hành chính chính thức giữa hai địa phương[36].
Riêng địa giới giữa tỉnh Khánh Hòa và tỉnh Lâm Đồng (trước năm 1976 gọi là tỉnh Tuyên Đức) vẫn ổn định như lâu nay.
4- Vùng đất cực đông của tỉnh Khánh Hòa.
Nói đến tỉnh Khánh Hòa không thể không nhắc đến vùng đất cực đông của tỉnh, đó là huyện đảo Trường Sa.
Trước ngày 9/12/1982 quần đảo Trường Sa thuộc huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Ngày 9/12/1982 Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ký Quyết định số 193/HĐBT thành lập huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai.
Ngày 28.12/1982 Quốc hội khóa VII ra Nghị quyết sáp nhập Huyện Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh. Ngày 1/7/1989 chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, huyện Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Huyện đảo Trường Sa trải dài với tọa độ địa lý từ 60 50’00”đến 120 00’00”vĩ độ bắc và từ 1110 30’00” đến 1170 20’00” kinh độ Đông, cách thành phố Cam Ranh 248 hải lý
5- Địa giới Khánh Hòa hiện nay.
Trải qua 370 năm, địa giới của vùng đất Khánh Hòa với các tỉnh lân cận có sự thay đổi, hiện nay về cơ bản địa giới đã được ổn định không có sự chồng lấn địa giới với các tỉnh lân cận.
Theo tác phẩm Địa chí Khánh Hòa, vị trí địa lý giới hạn của tỉnh Khánh Hòa giáp với các tỉnh lân cận: “Phía bắc giáp tỉnh Phú Yên, điểm cực bắc: 120 52’15” vĩ độ bắc. Phía nam giáp tỉnh Ninh Thuận, điểm cực nam: 110 42’50” vĩ độ bắc. Phía tây giáp tỉnh Đắk Lắk, Lâm Đồng, điểm cực tây: 1080 40’33”[37]

Bản đồ năm 1889 của Adrien Lau nay. Ranh giới phía bắc Khánh Hòa tại Cap Varela (Mũi Đại Lãnh), ranh giới phía nam tại Baie Gang (Vũng Găng/ Vịnh Vĩnh Hy)

Bản đồ phía bắc tỉnh Khánh Hòa giáp Phú Yên trong Đồng Khánh địa dư chí

Bản đồ tỉnh Khánh Hòa thời vua Duy Tân

Bản đồ 1881 tại Cape Varela ghi: “Limite Nord de la Province de Khanh Hoa” (Ranh giới phía bắc của tỉnh Khánh Hòa); tại Baie de Gang (Vũng Găng/ vịnh Vĩnh Hy) ghi: “Limite Nord de la Province de Binh Thuan” (Ranh giới phía bắc của tỉnh Bình Thuận- nơi giáp giới với tỉnh Khánh Hòa)

ranh giới giữa Phú Yên và Khánh Hòa ngay tại khu vực Đèo Cả

.Bản đồ thời Việt nam Cộng Hòa: phía nam tỉnh Khánh Hòa giáp với quận Du Long , tỉnh Ninh Thuận (ranh giới từ đất liền kéo xuống tận mũi Cà Tiên)
Chú thích
[1]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục Tập 1, nxb Giáo dục, tr.62
[2]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí Tập 3, Nxb Thuận Hóa, tr.89
– Văn hóa Tùng thư, Đại Nam nhất thống chí Quyển 10&11 tỉnh Phú Yên-Khánh Hòa, Nha Văn hóa- Bộ Văn hóa Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa 1964, tr.61
[3]- Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa, tr.269. Phần chữ Hán không có phiên âm trang 1157
[4]- Văn hóa Tùng thư, Đại Nam nhất thống chí Quyển 10&11 tỉnh Phú Yên- Khánh Hòa, Nha Văn hóa-Bộ Văn hóa Giáo dục Việt nam Cộng Hòa 1964, tr.103
[5a]- Tuyển tập Cao Xuân Dục tập 4, Đại Nam dư địa chí ước biên, Nxb Văn học, tr. 135&138
[5b]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí Tập 3, Nxb Thuận Hóa, tr. 105
-Văn hóa Tùng thư, Đại Nam nhất thống chí Quyển 10 &11 Tỉnh Phú Yên- Khánh Hòa, Nha Văn hóa- Bộ Văn hóa Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa 1964, tr.88
[5c]- Đồng Khánh dư địa chí Tập 3, Nxb Thế giới, trang 335
– Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí Tập 3, Nxb Thuận Hóa, tr. 95
– Văn hóa Tùng thư, Đại Nam nhất thống chí Quyển 10 &11 Tỉnh Phú Yên- Khánh Hòa, Nha Văn hóa- Bộ Văn hóa Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa 1965, tr.74
[6]- Étienne Aymonier, Notes sur l’Annam II le Khanh Hoa, Saigon Imprimerie Coloniale, 1886, p. 33-34
[7]- Étienne Aymonier, Notes sur l’Annam II le Khanh Hoa, Saigon Imprimerie Coloniale, 1886, p.6 &14
[8]- Dân địa phương gọi là Mũi Nạy. Sự thực Mũi Nạy nằm về phía bắc của mũi Varella cách nhau bởi Bãi Môn.
[9]- J.Brien, De Qui Nhon en Cochinchine Explorations dans le Binh Thuan (Sud Annam), Hanoi, Imprimerie Typo-Lithographique F.-H Schneider, 1893, p.13
[10]- L’Annam 1906 Géographique- Histoire- Administration- Commerce- Agriculture- Industrie ouvrage préparé parle Chambre Consultative Mixte de Commerce et d’Agriculture de l’Annam, Marseille, Imprimerie SAMAT et Cte. 15 Quai du Canal, 1906, p. 93
[11]- Vũ Văn Tỉnh, Những thay đổi về địa lý hành chính các tỉnh Trung Kỳ trong thời kỳ Pháp thuộc, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 142 tháng 1&2/ 1972 tr. 26 và Tạp chí số 143 tháng 3&4/1972 trang 30 (tác giả dẫn nguồn: Journal officiel de l’Indochine 1904, p.119)
[12]- Vũ Văn Tỉnh, Những thay đổi về địa lý hành chính các tỉnh Trung Kỳ trong thời kỳ Pháp thuộc, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 143 tháng 3&4/1972, tr. 30 (tác giả dẫn nguồn: Journal officiel de l’Indochine 1923, p.1726)
[13]- Nguyễn Đình Tư, Non nước Phú Yên (In lần thứ hai), Nxb Thanh niên, tr. 12, 30, 56
[14]- Nguyễn Đình Tư, Non nước Khánh Hòa, Nxb Thanh niên, tr. 15
[15]- Nguyễn Quang Ân, Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị hành chính 1945-1997, Nxb Văn hóa-Thông tin Hà Nội 1997, tr. 393
[16]- Bài viết: “Thay đổi địa danh hành chính thời nhập tỉnh và tái lập tỉnh”
baophuyen.com.vn/413/212861/thay-doi-dia-danh-hanh-chinh-thoi-nhap-tinh va-tai-lap-tinh.html
-Bài viết: “Nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính giữa tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa tại khu vực Đèo Cả- Vũng Rô”
thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-dieu-chinh-dia-gioi-hanh-chin-giua-tinh-Phu-Yen-va-tinh-khanh-hoa-tai-khu-vuc-Deo-Ca-Vung-Ro-42828.aspx
[16a]- phuyen.gov.vn/wps/portal/home/trang-chu/chi-tiet/tin-tuc-su-kien/hd-lanh-dao/hiep+thuong+phan+dinh+ranh+gioi+bien%2C+dao+giua+phu+yen+voi+khanh+hoa
[16b]- baotainguyenmoitruong.vn/phan-dinh-19-tuyen-ranh-gioi-quan-ly-hanh-chinh-bien-cap-tinh-321028.html
[17]- Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa, tr. 56. Phần chữ Hán không có phiên âm, tr. 1663
[18a]- Đồng Khánh dư địa chí Tập 2, Nxb Thế giới, tr.1633, phần chữ Hán không phiên âm, trang 1645. Thôn Vĩnh Hy nay là thôn Vĩnh Hy, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận
[18b]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục Tập 9, Nxb Giáo dục, tr. 381
-Nguyễn Đình Tư, Non nước Ninh Thuận, Nxb Thanh niên, tr. 84
[19]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, tr. 394
-Nguyễn Đình Tư, Non nước Ninh Thuận, Nxb Thanh niên, tr.84
[20]- Annuaire Général de l’Indochine 1910, p.527
[21]- Văn hóa Tùng thư, Đại Nam nhất thống chí Quyển 12 tỉnh Bình Thuận, Phụ: Đạo Ninh Thuận, Nha Văn hóa-Bộ Văn hóa Giáo dục, Việt Nam Cộng Hòa, 1965, tr.92
[22][23][24]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, tr. 418-419; 670; 680
– Vũ Văn Tỉnh, Những thay đổi về địa lý hành chính các tỉnh Trung Kỳ trong thời kỳ Pháp thuộc, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 143 tháng 3&4/1972 tr.30&31 (Tác giả dẫn nguồn: Journal officiel de l’Indochine 1913, p.316; 1914, p.854)
– Annuaire Administratif de l’Indochine 1915, p 254; 1917, p.246; 1918, p.248; 1920, p 263; 1921, p. 270; 1922, p. 276 (lưu trữ tại phòng Tra cứu Thư viện Khánh Hòa)
[25]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục Chính biên Đệ thất kỷ, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, tr. 390
-Vũ Văn Tỉnh, Những thay đổi về địa lý hành chính các tỉnh Trung Kỳ trong thời kỳ Pháp thuộc, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 143 tháng 3&4 /1972, tr.30 (Tác giả dẫn nguồn: Journal officiel de l’Indochine 1922, p.1488)
-Nguyễn Đình Tư, Non nước Ninh Thuận, Nxb Thanh niên, tr. 84
[26]- Youtube: Di tích lịch sử Quốc gia, 2 sắc phong đình Hòa Diêm, xã Cam Thịnh Đông, thành phố Cam Ranh, Khánh Hòa
youtube.com/watch?=AliDRed_n9E
[27][28]- Nguyễn Quang Ân, Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị hành chính 1945-1997, Nxb Văn hóa-Thông tin Hà Nội 1997, tr.132; 199
[29]- Nguyễn Đình Tư, Non nước Ninh Thuận, tr.13 &14
[29a]- tinhuykhanhhoa.vn/tin-bai/chinh-tri-xa-hoi/phan-dinh-ranh-gioi-bien-dao-giua-Khanh-Hoa-va-Ninh-Thuan-van-chua-thong-nhat-684
-baoninhthuan.com.vn/news/99769p0c24/hoi-nghi-hiep-thuong-duong-ranh-gioi-quan-ly-hanh-chinh-tinh-khanh-hoa-va-ninh-thuan.htm
[29b]- baotainguyenmoitruong.vn/phan-dinh-19-tuyen-ranh-gioi-quan-ly-hanh-chinh-bien-cap-tinh-321028.html
[30]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí Tập 3, Nxb Thuận Hóa, tr.26
-Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa, tr. 269. Phần chữ Hán không phiên âm tr.1157
-Văn hóa Tùng thư, Đại Nam nhất thống chí Quyển 10&11 tỉnh Phú Yên-Khánh Hòa, Nha Văn hóa-bộ Văn hóa Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa 1964, tr 87
–Đồng Khánh dư địa chí Tập 2, Nxb Thế giới, tr. 1627. Phần chữ Hán không có phiên âm tr. 1640
[31]- Journal officiel de l’Indochine Francaise (Lưu trữ tại phòng Tra cứu Thư viện tỉnh Khánh Hòa mang ký hiệu:
TV Khánh Hòa/959.7031/E207T/1929/C1/600000810
[32][33]- Quách Tấn, Xứ trầm hương, Nxb Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa, tr.29; 46
[34]- Công Báo Việt Nam, Các Nghị định của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tháng 3 và tháng 4 năm 1959, trang 158 (lưu trữ tại Phòng Tra cứu Thư viện tỉnh Khánh Hòa)
[35]- Nguyễn Quang Ân, Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị hành chính 1945-1997, Nxb Văn hóa- Thông tin Hà Nội 1997, tr.137
[36]- Bài viết “Giải quyết phân định địa giới hành chính giữa hai tỉnh Đắk Lắk và Khánh Hòa” đăng trên trang Cổng thông tin điện tử Ủy ban Pháp luật
quochoi.vn/uybanphapluat/tintuc/Pages/tin-hoat-dong.aspx?ItemID=145
[37]- Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa, Địa chí Khánh Hòa, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2003, tr. 13