Khi trung quốc tấn công- Lời cảnh báo với nước Mỹ (Bài 6)

Chương 6 : Chiến Tranh Pháp Lý: Luật Lệ cho Bạn, Không Phải cho Tôi

Đại tá Grant Newsham

Trần Quang Nghĩa dịch

Một chiến tranh khác mà Đảng Cộng sản Trung Quốc làm chủ là chiến tranh pháp lý. Đối với ĐCSTQ, mục đích của luật lệ là giúp ĐCSTQ duy trì quyền lực và củng cố lợi ích của Đảng. Công lý, ít nhất theo nghĩa của phương Tây,  không liên quan gì với họ.

Thỉnh thoảng CHNDTQ giả vờ tuân thủ luật pháp, đặt ra các sắc luật mới để biện minh cho các hành động vô pháp trắng trợn, phớt lờ luật khi nó muốn, và thường sử dụng hệ thống pháp lý của nước khác để nhắm vào, làm chậm lại, ngăn cản các phán quyết có thể gây trở ngại cho các hoạt động của nó. Tôi sẽ chỉ cho bạn xem một vài ví dụ.

Sử Dụng Hệ Thống Pháp Lý Mỹ để Làm Suy Yếu An Ninh Mỹ

Vào tháng 6, 2020, QGPNDTQ phục kích và giết chết 20 lính biên phòng Ấn Độ tại vùng Hy Mã Lạp Sơn. Hai tuần sau New Delhi đáp trả bằng cách cấm 59 ứng dụng Trung Quốc, bao gồm WeChat và Tiktok. Các chuyên gia an ninh Ấn giải thích các ứng dụng có thể được sử dụng để thu thập thông tin nhạy cảm qua điện thoại di động, bao gồm vị trí, mối tiếp xúc, hình ảnh,  âm thanh, và hơn nữa, rồi lén lút gửi về các máy chủ bên ngoài Ấn Độ.

Điều đó khiến người dùng có nguy cơ bị do thám, bị tác động ảnh hưởng, bị thao túng về sinh lý, bị tống tiền, bị gián điệp công nghệ, và nhiều nữa. Hơn nữa, các siêu dữ liệu thu thập được có thể,  biết rằng Trung Quốc có học thuyết hợp nhất quân sư-dân sự, được dùng để cải tiến hệ thống vũ khí AI (trí tuệ nhân tạo)

Mối quan tâm được chia sẽ với các chuyên gia an ninh ninh Mỹ, và trong tháng 8, 2020, chính quyền Trump ban hành các sắc lệnh cấm Tiktok và WeChat. Họ thấy rõ các nguy cơ đặt ra. Sắc lệnh về Tiktok có đoạn viết:

Tiktok tự động nắm bắt một lượng lớn thông tin về người dùng, bao gồm các thông tin về hoạt động Internet và các mạng lưới khác, như là dữ liệu địa điểm, tìm tài liệu và lịch sử tìm kiếm. Việc thu thập thông tin này có nguy cơ cho phép Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp cận thông tin cá nhân và quyền sở hữu của người Mỹ – có tiềm năng cho phép Trung Quốc theo dõi các địa điểm của các viên chức Liên bang và các nhà thầu, thiết lập hồ sơ thông tin cá nhân để tống tiền, và tiến hành gián điệp tập đoàn.

Tiktok cũng được cho là kiểm duyệt các nội dung mà ĐCSTQ xét thấy nhạy cảm về mặt chính trị, như nội dung liên quan đến các hoạt động phản kháng ở Hồng Kông và cách Trung Quốc đối xử với người Duy Ngô Nhĩ và các thiểu số Hồi giáo khác. Các ứng dụng di động này cũng có thể được sử dụng trong chiến dịch tuyên truyền có lợi cho ,ĐCSTQ, chẳng hạn khi các clip video Tiktok lan truyền các thuyết âm mưu bị vạch trần về nguồn gốc của COVID-19.

Sắc lệnh hành pháp về WeChat nhấn mạnh rằng

Ứng dụng này thu thập thông tin cá nhân và tài sản của người quốc tịch Trung Quốc đến thăm Mỹ, do đó cho phép ĐCSTQ một cơ chế để theo dõi các công dân Trung Quốc lần đầu tiên trong đời được hưởng những lợi ích của một xã hội tự do. Chẳng hạn,  vào tháng 3, 2019 một nhà nghiên cứu báo cáo là đã phát hiện được một cơ sở dữ liệu gồm hàng tỷ thông điệp WeChat gửi không chỉ từ Trung Quốc mà còn từ Mỹ, Đài Loan,  Hàn quốc, và Úc.

Để đặt việc này đúng với bối cảnh, giả sử CIA hoặc Cục An ninh Quốc gia có thể triển khai một ứng dung tương tự được hàng trăm triệu dân ở CHNDTQ sử dụng. ĐCSTQ hẳn sẽ không tán thành.

Để có một nhận thức tất cả điều này đáng sợ như thế nào, hãy xét trải nghiệm của một phóng viên BBC đặt căn cứ tại Trung Quốc đến Hồng Kông để viết bài kỷ niệm 30 năm vụ thảm sát Thiên An Môn.

Ông lấy một vài bức ảnh chụp cảnh biểu tình phản kháng và gửi đến những người bạn ở Trung Quốc qua WeChat.

Ông ta lập tức bị WeChat đóng cửa. Khi ông cố đăng nhập lại, một thông báo xuất hiện: “Tài khoản WeChat này đã bị nghi là lan truyền tin đồn độc hại và bị tạm thời phong tỏa.”

Khi ngày hôm sau ông được phép đăng nhập lại, ông được cho biết, “Yêu cầu chụp ảnh gương mặt vì lý do an ninh,” và được hướng dẫn đặt máy di động “với camera phía trước ngay mặt,” và đọc to các con số bằng tiếng Quan thoại.”

Phóng viên ghi nhận, “Bắt hình ảnh và giọng nói của mọi người bị án treo do đề cập đến lễ tưởng niệm vụ đàn áp Thiên An Môn . . . được xem là rất hữu ích cho chính quyền muốn giám sát bất kì ai có tiềm năng gây bất ổn.”

Đó chính xác là điều Bắc Kinh muốn làm, và họ không gặp nguy cơ nào. Một lần nữa, Hồng Kông cho ta một cái nhìn thoáng qua về suy nghĩ của ĐCSTQ cho bất cứ ai muốn thách thức Đảng.

Năm 2015, ĐCSTQ bố ráp và tống giam hơn 300 luật sư, phụ tá pháp lý, và những người bảo vệ nhân quyền vì xem các sắc luật của Trung Quốc về nhân quyền hơi quá nghiêm túc và ra sức sử dụng các tòa án Trung Quốc để bảo vệ những quyền chỉ có trên danh nghĩa này. Nhiều người bị bắt bị kết tội âm mưu lật đổ quyền lực nhà nước. Đến 2020 nhiều người vẫn còn trong nhà tù.

Trở Lại Hồng Kông

Đảng cũng sử dụng Luật An ninh Quốc gia mới như một hình thức che đậy để dập tắt tự do của Hồng Kông cách đây một vài năm – và cùng với chúng, dập tắt các lực lượng chống đối tiềm năng ĐCSTQ. Trong tiến trình,  các phóng viên, biên tập viên, các nhà làm luật trước đây, và các nhà hoạt động vì dân chủ bị bắt và tống giam. Một hệ thống bầu cử mới kiểu cộng sản được đưa vào nhằm bảo đảm người của Bắc Kinh, nam hay nữ, luôn thắng cử.

Các quan chức nhà nước gáy rằng Luật An ninh Quốc gia đã phục hồi trật tự cho Hồng Kông, một điều kiện giờ đây sẽ tạo phồn vinh cho thành phố. Hoàn toàn thay đổi từ một thành phố cổ kính thuộc Anh nơi một người chỉ bị kết tội khi đã vi phạm thực sự và được chứng minh là có tội. Giờ đây chỉ cần chọc giận Đảng là bạn liền thấy mình đứng trước vành móng ngựa, cặp kè hai bên là hai tên công an to cỡ Yao Mình (cầu thủ bóng rỗ nổi tiếng người Trung Quốc, cao hơn 2 mét) và một trăm phần trăm bị kết án. 

Một chứng cứ cho việc chiến tranh kinh tế hỗ trợ cho chiến tranh pháp lý hiệu quả như thế nào, một luật sư nổi tiếng của Mỹ ở Hồng Kông ca tụng bộ luật trong một video được quay tại một nghi lễ nhà nước vào năm 2021.kỷ niệm một năm ngày bộ luật ra đời: “Tôi tin rằng Luật An ninh Quốc gia là một phần tích cực và quan trọng trong khung pháp lý và điều chỉnh để duy trì vai trò lãnh đạo của Hồng Kông như một trung tâm tài chính thương mại và đầu tư. Tại sao nó quan trọng? Tại trung tâm của mọi thứ, thành công của chính quyền Hồng Kông là việc pháp trị.”

Và vào tháng 11, 2022, trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm ngấm ngầm về sự kiện đàn áp của cộng sản Hồng Kông, các ông lớn tài chính phương Tây và Phố Wall đến dự Hội nghị Thượng đỉnh Đầu tư Các Nhà Lãnh đạo Tài chính Toàn cầu.

Diễn giả chủ đạo, Lý Gia Siêu, là Đặc khu trưởng Hồng Kông lúc đó. Lý, nguyên một sĩ quan cảnh sát, là một trong những người đại diện cho Bắc Kinh khi nó dập tắt nền tự do của Hồng Kông.

Chỉ cần cho phương Tây ngửi hơi hám tiền bạc, và thường thường họ phát ngôn cho Đảng.

Và việc này liên quan trực tiếp đến nước Mỹ. Bộ An ninh Trung Quốc rất tích cực – cùng với băng đảng của nó – ở Hoa Kỳ. Nó hù dọa cộng đồng người Mỹ gốc Hoa hãy câm mồm và không được chỉ trích hoặc phê phán ĐCSTQ , và ngoan ngoãn nghe theo mệnh lệnh của nó

Trong năm 2020, Giám đốc FBI Chistopher Wray thông báo đã bắt giữ 8 người vì có “vai trò trong một chiến dịch sách nhiễu, theo dõi, và cưỡng chế một số cư dân phải trở về Trung Quốc như một phần trong nỗ lực hồi hương bất hợp pháp, có dự tính, có phạm vi toàn cầu, được biết dưới tên Chiến dịch Săn Cáo.” Ông giải thích:

Săn Cáo là một chiến dịch càn quét, do Tổng Bí thư Tập và Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ đạo nhằm đến các người có quốc tịch Trung Quốc sống ở Mỹ và trên khắp thế giới, được coi là đe dọa cho chế độ.

Trong trường hợp khác như trường hợp này, khi không thể định vị một mục tiêu, chính quyền Trung Quốc phái một người đưa tin đến thăm gia đình nạn nhân ở Hoa Kỳ. Và họ đưa cho gia đình một thông điệp để chuyển đến cho nạn nhân, cho biết:

Mục tiêu có hai lựa chọn: Trở về Trung Quốc ngay hoặc phải tự tử. Và chuyện gì sẽ xảy ra khi mục tiêu của Săn Cáo từ chối trở về Trung Quốc?

Các thành viên trong gia đình  họ ở Mỹ và ở Trung Quốc đã bị đe dọa và cưỡng chế; những người ở Trung Quốc thậm chí bị bắt để khai thác. Đây không phải là những hành động mà chúng ta mong đợi ở một nhà nước có trách nhiệm. Thay vào đó, chúng giống hành động mà chúng ta chờ đợi từ một nghiệp đoàn tội ác có tổ chức.

Một quan sát viên tôi biết mô tả trải nghiệm của các bà con bên vợ mình, người Mỹ gốc Hoa, sống ở New York: “Họ là những người bất đồng chính kiến trước đây đã trải qua hơn 20 năm nằm trong các trại cải tạo ở Trung Quốc. Họ bảo với tôi bọn băng đảng phò Trung Cộng hoạt động rất tích cực ở New York. Nhiều cư dân Á châu ở New York tin rằng các băng đảng phò Trung Cộng hành động gần như là không bị trừng phạt và có thể kích động các vụ tấn công vào người Á châu để hy vọng cô lập cộng đồng.”

Một chuyên gia khác về Trung Quốc tôi có dịp nói chuyện, đã từng là một nhân chứng, xác nhận việc này: “Bà con bên vợ của anh nói rất đúng về bọn băng đảng New York. Tôi đã làm chứng trong một vụ án. Bọn Trung Cộng có một luật sư hắc ám, từ một công ty luật có uy tín. Tôi là một trong số những người đã tham gia quần thảo với y. Chúng tôi thắng. . . Nhưng bọn Trung Cộng cũng giỏi thuê mướn luật sư. . . Đó là một cuộc chiến đấu không cân sức. Bộ Ngoại giao Mỹ chả giúp đỡ gì.”

Một khía cạnh khác về chuyện này là Trung Cộng dùng luật của mình để buộc các tổ chức Trung Quốc (như Tiktok, WeChat) và người sử dụng có bổn phận phải hợp tác.

Luật Tình báo Quốc gia 2017 của Trung Cộng phát biểu: “Mọi tổ chức và công dân đều có bổn phận hậu thuẫn, trợ giúp và cộng tác trong hoạt động tình báo nhà nước. . . Nhà nước khen thưởng tổ chức và cá nhân nào đã có những đóng góp có ý nghĩa cho hoạt động tình báo nhà nước.”

Xét tất cả những điều này, việc cấm các ứng dụng, như người Ấn đã làm, dường như là một tình huống khá rõ ràng để bảo vệ cho các công dân Mỹ khỏi các hành vi bất hợp pháp và trấn lột của một quyền lực đen tối, có đúng không?

Vâng, không đúng, theo đơn khởi kiện do một nhóm người sử dụng WeChat tiến hành, theo đó họ nói làm như vậy là vi hiến. Họ được sự hậu thuẫn của ACLU (Liên đoàn Tự do Dân sự Mỹ), cho rằng như vậy là vi phạm Tu chính án Thứ Nhất. Giải thích của ACLU có đoạn nói:

Đối với người sử dụng WeChat, ứng dụng này là nguồn liên lạc chính yếu và duy nhất với bạn bè và người thân ở Trung Quốc, nơi chính quyền phong tỏa các nền tảng nhắn tin phổ biến như Facebook, WhatsApp và Instagram.

Vào tháng 8,2020, chính quyền Trump ban hành Sắc lệnh hành pháp tuyên bố WeChat là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia. Như chúng ta giải thích tại thời điểm đó, WeChat, cũng như nhiều mạng xã hội và ứng dụng nhắn tin do người Mỹ sở hữu, trong đó có Facebook và Instagram, chắc chắn có thu thập các phạm trù rộng lớn về dữ liệu người dùng. Mối quan tâm về cách thức dữ liệu này được sử dụng và bảo vệ được bảo đảm. Trong trường hợp WeChat, cũng nổi lên mối quan tâm hợp pháp về việc liệu dữ liệu người dùng có thể bị chính quyền Trung Cộng truy cập hay không.

Cho dù chính chính quyền Trung Quốc hạn chế quyền tự do ngôn luận và theo dõi người dùng, ACLU lại trút tội dưới chân chính quyền Mỹ.

Ở đây chính quyền đã ngăn cấm một nền tảng duy nhất không thể phủ nhận và quý giá đối với người dùng nhằm bày tỏ cảm xúc của mình. Như tòa án khu vực đã nhận thấy,  WeChat là một công cụ không thể thay thế cho người dùng tại Hoa Kỳ, đặc biệt trong các cộng đồng nói tiếng Hoa và người Mỹ gốc Hoa. Vì vậy hành động của chính quyền chống lại WeChat sẽ dập tắt tự do ngôn luận nhiều hơn cần thiết: chúng vi phạm Tu chính án Thứ Nhất.

Vì thế, hiển nhiên, ĐCSTQ chỉ cho phép một ứng dụng được giám sát, kiểm soát, dễ thao túng để liên lạc với một dân số Trung Quốc bị cầm tù. Ứng dụng đó cũng được sử dụng để giám sát, kiểm soát, và thao túng những người dùng có ứng dụng đó trên các di động tại Hoa Kỳ, nhưng ra sức che chở những người Mỹ khỏi trở thành nạn nhân, trừ khi là các người hợp tác tích cực, của nhà nước tình báo Trung Quốc là chống lại Tu chính án Thứ Nhất sao?

Nếu ngăn cấm ứng dụng cứ kiểm soát và do thám bạn, rồi nhìn xem liệu Trung Quốc có quan tâm đủ đến việc duy trì kết nối với Mỹ để cho phép các hình thức liên lạc khác thì sao? Đó là vấn đề của Trung Quốc không phải của Mỹ.

Vụ việc kết quả thế nào? Chính quyền Biden hủy bỏ sắc lệnh về Tiktok và WeChat và trả 900.000 đô-la án phí cho nhóm người dùng WeChat.

Và, thưa quý ông và quý bà, đó là cách chúng ta tiến hành chiến tranh pháp lý.

Xiaomi và 43 Công Ty Khác

Kiểu sự kiện này xảy ra thường xuyên. Không lâu trước khi rời nhiệm sở,  Tổng thống Trump ban hành một sắc lệnh khác ngăn cấm đầu tư vào một số công ty Trung Quốc có liên hệ với quân đội Trung Quốc.

Việc đầu tiên các công ty đó làm là kêu réo các luật sư Mỹ và gửi đơn kiện. Có bao giờ nghe nói một công ty Mỹ khởi kiện ra tòa án Trung Quốc trong trường hợp tương tự chưa? Tôi không nghĩ thế.

Các công ty viễn thông Huawei và ZTE cũng bị chính quyền Trump cấm vận trong thời gian đầu nhiệm kỳ của ông vì là cánh tay nối dài của nhà nước giám sát của ĐCSTQ, không nói đến các hoạt động mậu dịch bất công của chúng.

Không công ty nào gặp khó khăn để tìm được các chính trị gia trước đây để vận động hành lang, hoặc tìm các công ty luật Mỹ, kể cả các công ty nổi tiếng nhất – để xử lý vụ án của họ.

Đó là hệ thống của chúng ta, tất nhiên. Nhưng cần ghi nhận rằng những người mà lợi ích của họ tình cờ ăn khớp với ĐCSTQ thì lại thuê mướn cố vấn pháp luật dễ dàng hơn nhiều so với nhiều người tham gia cuộc phản kháng ngày 6 tháng giêng (Những người tấn công Đồi Capitol vì bất mãn trước kết quả tổng thống khiến Trump mất ghế tổng thống ở nhiệm kỳ 2).

Có một câu hỏi mở liệu chính quyền Trung Cộng có tài trợ cho các thủ đoạn pháp lý này không. Trong một số trường hợp,  có; trong một số trường hợp,  không. Nhưng có những người khác chỉ xem ĐCSTQ mắc tội diệt chủng chỉ là một thân chủ như những thân chủ khác – đó là hiệu quả của một cuộc chiến tranh chính trị mở rộng trong việc tạo hình nên nhận thức và lối suy nghĩ.

Và không chỉ có Donald Trump mới thấy mình thua trong cuộc chiến pháp lý của Trung Cộng. Thậm chí Joe Biden cũng phàn nàn về những nỗ lực của Trung Quốc sử dụng nhiều bọn vận động hành lang (nhiều người trong số đó các luật sư) và làm việc với hệ thống Mỹ – đặc biệt đầm lầy D. C. – để can thiệp vào việc thông qua điều gọi là Sắc luật Cạnh tranh nhằm củng cố công nghiệp bán dẫn của Mỹ.

Tổng thống Biden phát biểu công khai: “Về cơ bản,  đây là vấn đề an ninh quốc gia. Đó là lý do tại sao ĐCSTQ lốp bi những người chống đối dự luật này. Đó là vấn đề đoàn kết Dân chủ và Cộng hòa. Vậy hãy làm cho xong.”

Bạn có thể nghe bọn luật sư đang nuốt nước bọt.

Trong khi đó, vào năm 2020, Trung Cộng thông qua một sắc luật phản cấm vận ngăn cấm các công ty Trung Quốc và bất kì công ty nào khác không được tuân theo lệnh cấm vận của nước ngoài (đó là Hoa Kỳ). Bạn có thấy vấn đề, chẳng hạn, với Apple và Ford hoạt động ở Trung Quốc chưa? Phần nào tôi không nghĩ là họ sẽ mướn luật sư khởi kiện ĐCSTQ.

Và đó chính là trong văn cảnh mà người phát ngôn Trung Cộng Triệu Lập Kiên phát biểu “Trung Quốc phản đối hành động áp đặt cấm vận đơn phương lên các nước khác mà không có thẩm quyền của luật quốc tế và Liên Hiệp Quốc.”

Điều này, tất nhiên,  là không đúng. Chỉ cần nhìn vào những gì Bắc Kinh làm với dứa của Đài Loan và rượu vang của Úc.

Đó là lý do tại sao Trung Quốc đang ra sức kiểm soát nhiều hơn luật quốc tế và Liên Hiệp Quốc – để nó có thể nhận được các ủy nhiệm hậu thuẫn cho phiên bản luật của mình.

Các Thỏa Ước Quốc Tế

Trung Quốc hoàn toàn vui sướng đi qua các vòng đàm phán vô tận các hiệp ước quốc tế, chẳng hạn Hiệp ước Paris. Chúng giúp Bắc Kinh tìm hiểu các nước khác và, một cách lý tưởng, lắp đặt đúng chỗ các nguyên tắc, chuẩn mực, và pháp lý để phong tỏa các nước khác và làm lợi cho Bắc Kinh.

Nhưng chỉ cần phong tỏa các nước khác đã là thắng đậm cho QLQGTD, nhất là khi Bắc Kinh không có ý định tuân thủ bất cứ các cam kết có thể cản trở nó.

Chẳng hạn,  về khí hậu,  nó phô trương rằng mình đã cam kết chính thức việc cắt giảm khí thải nhà kính, giả vờ đó là các nghĩa vụ quốc tế hợp pháp phải tuân theo trong khi gọi tên các nước như Úc dường như vẫn chưa nhượng bộ.

Tuy nhiên, nếu xem xét kỷ hơn, cam kết của Bắc Kinh là thuộc tương lai xa xôi và không liên kết với sự chứng thực nào cả. Nó không dự  định làm theo các hứa hẹn này vì sẽ làm mếch lòng ĐCSTQ, và nó hớn hở để các quốc gia đi trước trong công cuộc dịch chuyển về cái gọi là năng lượng xanh và có thể tái tạo – và hứng các sát thương kinh tế đi kèm với một động thái như thế.

Trong khi đó, Trung Quốc tăng gấp đôi số lượng than,  xây dựng các nhà máy mới chạy bằng than và ợ ra lượng khí thải gần như bằng với tổng số các nước còn lại. Một cách hợp pháp. Không thành vấn đề gì cả.

Một minh họa khác về việc Trung Quốc tạo ra ảo tưởng là mình tuân thủ luật lệ quốc tế, là việc gần đây nó ký Thỏa ước La Haye về Đăng ký Quốc tế Kiểu dáng Công nghiệp bao gồm 94 quốc gia.

Ma Yide, một giáo sư về sở hữu trí tuệ tại Đại học Học viện Khoa học Trung Quốc, nói:

Làm việc với cộng đồng quốc tế,  Trung Quốc đang giải quyết các thách thức về việc bảo vệ và quản lý quyền sở hữu trí tuệ. . . Hơn nữa, theo Thỏa ước La Haye, việc bảo vệ Đăng ký Sở hữu Trí tuệ càng được tăng cường và việc bảo vệ các kiểu dáng công nghiệp càng được mở rộng, làm lợi cho những người sở hữu Đăng ký Sở hữu Trí tuệ và sẽ giúp Trung Quốc bảo vệ tốt hơn nữa Đăng ký Sở hữu Trí tuệ theo đúng chuẩn mực quốc tế.

Nghe thì hay, đúng không? Và Trung Quốc tuyên bố đã củng cố sự bảo vệ Đăng ký Sở hữu Trí tuệ trong vài năm qua – đã rà soát các luật về thương hiệu được bảo hộ,  luật về bằng sáng chế,  luật về quyền tác giả, và đã thiết lập một hệ thống bồi thường thiệt hại theo đúng chuẩn mực quốc tế cao nhất.

Điều đó sẽ cho phép nguồn đầu tư tiếp tục ồ ạt chảy vào Trung Quốc (hãy nghĩ về chiến tranh kinh tế và tài chính).

Tuy nhiên,  hãy đọc báo cáo thường niên của Đại diện Thương Mại Hoa Kỳ về cách thực hành quyền sở hữu trí tuệ của Trung Quốc, hoặc hãy nói chuyện với một doanh nghiệp nước ngoài mà Đăng ký Sở hữu Trí tuệ của họ đã biến mất ở Trung Quốc (hoặc đối với Trung Quốc), và bạn có thể xét đoán các luật như thế có ý nghĩa nhỏ như thế nào đối với ĐCSTQ.

Trung Quốc thậm chí sử dụng chiến tranh pháp lý quốc tế để nắm quyền kiểm soát vũ trụ. Đúng vậy đó. Khi QGPNDTQ cảnh báo về “quân sự hóa không gian,” nó đang tiến hành một hoạt động tâm lý dựa vào pháp lý giả hiệu chống lại phương Tây. Nó được hỗ trợ về việc này bởi những nhà theo chủ nghĩa lý tưởng khăng khăng cho rằng bất kì việc quân sự hóa hoặc sử dụng quân sự vào không gian ngoài thiên thể là điều xấu xa.

Hoa Kỳ,  vốn nhạy cảm với việc phá vỡ luật lệ hoặc bị mang tiếng xấu, đã đi chậm lại trong các nỗ lực tự bảo vệ trên tầng không gian cao (cũng là bảo vệ tai mắt  từ xa của mình.) Trong khi đó, Trung Quốc đẩy hết tốc lực về hướng quân sự hóa.

Điều này nảy sinh vấn đề của những cá nhân và tổ chức biện hộ,  đôi khi qua tòa án, cho những vị thế tưởng như giá trị nhưng tình cờ ăn khớp với các mục tiêu của ĐCSTQ.

Chẳng hạn,  theo một số nhà phân tích và quan sát viên địa phương,  từ những năm 2020 trở đi các nhóm môi trường do Trung Cộng tài trợ đã chống đối và đâm đơn kiện chống lại các nỗ lực của quân đội Mỹ trong việc xây dựng trung tâm huấn luyện phối hợp vũ khí và đổ bộ trên một hòn đảo của quần đảo Mariana. Đó là căn cứ duy nhất ở phía tây California – và có tầm quan trọng cực kì về mặt huấn luyện. Cuối cùng, người Mỹ bỏ cuộc.

Hành động này tương đương với việc một tổ chức kiểu Hòa Bình Xanh đệ đơn kiện Hải Nam hãy đóng cửa các trung tâm huấn luyện của QGPNDTQ trên Đảo Hải Nam. Hoa Kỳ và Trung Quốc có hai hệ thống và các cách tiếp cận rất khác biệt đối với.luật pháp. ĐCSTQ lợi dụng tối đa sự khác biệt này.

Trung Quốc sẽ phát ngôn, ký tên, hoặc đồng ý với bất cứ thứ gì bôi trơn đường đi của nó. Nhưng điều đó không có nghĩa gì cả, chỉ là Trung Quốc không quan tâm đến việc bị bắt tại trận.

Chúng ta có thể tin cậy và kiểm tra mọi thứ chúng ta thích, nhưng nếu chúng ta không bắt cưỡng chế tuân thủ, thì có ích gì chứ? Trung Quốc đã cho thế giới thấy là chúng ta không bắt họ tuân thủ. Không còn nữa.

Phán Quyết của Tòa Án ư? Phán Quyết nào? Và, tiện thể Tòa Án nào?

Một mánh khóe khác trong chiến tranh pháp lý mà Trung Quốc sử dụng là phớt lờ các phán quyết, sử dụng lập luận pháp lý cổ xưa, “Thế thì các anh làm được gì nào?”

Trường hợp cổ điển liên quan đến phán quyết 2016 của Tòa án Trọng tài Thường trực vốn là một phó phẩm của vụ chiếm Bãi cạn Scarborough ô nhục. Tôi đã đề cập việc này trong phần chiến tranh tâm lý, nhưng cũng đáng để nhìn lại dưới góc độ chiến tranh pháp lý.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần như trọn khu vực Biển Đông trước phản đối của các nước láng giềng và một phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc.

Nhắc lại để nhớ, tình hình phát triển vào năm 2012, khi các tàu đánh cá Trung Quốc được sự hậu thuẫn của các tàu Phòng vệ Bờ biển Trung Quốc chiếm vùng có sản lượng cá phong phú tại Bãi cạn Scarborough – thuộc lãnh hải của Philippin tại Biển Đông cách bờ biển Philippin khoảng 120 dặm, và 200 dặm từ nơi gần nhất của Trung Quốc.

Các căn cứ đảo nhân tạo của Trung Quốc ở giữa Biển Đông, rất xa lãnh thổ Trung Quốc. Điều này cho phép QGPNDTQ có thể khống chế địa hình thủy chủ chốt qua đó một số lượng lớn hàng hoá thương mại chảy qua và làm dễ dàng các hoạt động quân sự trên khắp vùng. Bản đồ của Bộ Quốc Mỹ.

Bị vượt trội, lực lượng Phòng Vệ Bờ biển Philippin đành rút lui sau khi Mỹ đứng ra làm môi giới giải quyết kêu gọi hai bên rút quân. Người Philippin giứ lời, nhưng người Trung Quốc thì không. (Người Mỹ cũng không, vì vấn đề đó.)

Đây là hành động mới nhất sau một loạt quấy nhiễu và lên gân cốt kéo dài của Trung Quốc trên lãnh hải của Philippin – và Trung Quốc đòi gần như toàn bộ vùng Biển Đông dựa vào một hư cấu về pháp lý đó Bắc Kinh bịa ra, cái gọi là đường chín đoạn. Ngược về năm 1992, nó thông qua một đạo luật tuyên bố làm chủ Biển Đông.

Vì vậy,  vào năm 2023, với sự khuyến khích của Mỹ, chính quyền Philippin nộp đơn lên Tòa Trọng tài Thường trực dựa vào Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS). Tòa Trọng tài dự tính giải quyết vấn đề về thái độ của Trung Quốc đối với Philippin và lời tuyên bố trơ trẽn rằng mình sở hữu gần như toàn bộ Biển Đông.

Trung Quốc không tham dự phiên xét xử mặc dù nó gắn kết với quyết định của ban Trọng tài vì là đã ký tên vào UNCLOS.

Những loại phán quyết quốc tế này thường thường chia đôi chênh lệch, và mỗi bên được hướng một phần nó muốn. Thường thường,  không ai rời đi mà hoàn toàn thỏa mãn.

Tuy nhiên,  dựa vào các sự kiện quá rõ ràng trong vụ án, phán quyết này hoàn toàn đứng về phía Philippin và Trung Quốc thua tơi tả. Đường chín đoạn theo đòi hỏi của Trung Quốc ở Biển Đông bị bác bỏ, và thái độ của Trung Quốc đối với Philippin cũng bị khiển trách.

Đáp ứng của Trung Cộng ư? Nó bác bỏ phán quyết coi nó như “một miếng giấy lộn” và phớt lờ nó.

Người Mỹ chỉ biết đưa ra những phát biểu nhạt nhẽo về tầm quan trọng của việc tuân thủ luật lệ. Và khi Susan Rice,  cố vấn an ninh quốc gia của Obama, và chỉ huy trường hoạt động hải quân lúc đó, Đô đốc John Richardon, đến Bắc Kinh không lâu sau đó, họ không đề cập gì đến phán quyết của Tòa Trọng tài. Suy nghĩ là người Trung Quốc sẽ trân trọng tính kiềm chế và có đi có lại.

Nhưng họ không. Họ bỏ túi sự nhượng bộ, ngửi thấy sự yếu đuối hoặc sự ngu ngốc (hoặc có thể cả hai), và tiến tới hết tốc lực với nỗ lực đóng cửa Biển Đông.

Chính quyền Mỹ đã khuyến khích Philippin khởi kiện. Vì thế phản ứng của họ đối với phán quyết của Tòa dường như là một hành động phản bội. Phản bội lần thứ hai. Lần đầu là thất bại hành động khi Trung Quốc không tuân thủ thỏa ước 2012 rút lực lượng khỏi Bãi cạn. Một lần có thể là sai lầm. Hai lần được xem như là rập khuôn.

Thế là chính quyền Obama đã biến thảm bại của Bắc Kinh tại tòa án trọng tài  trong chiến tranh pháp lý nhức nhối của nó thành một thắng lợi của Trung Cộng trong thực tế.

Manilla nản lòng, và mọi người trong khu vực đều nhận ra uy tín của Mỹ với tư cách một đồng minh đáng tin cậy đã bị hủy hoại. Bắc Kinh tiến tới kế hoạch xây dựng đảo, đẩy mạnh quân sự hóa hơn nữa với các căn cứ trên đảo nhân tạo, và càng ngày càng hung hăng với các hoạt động quân sự nước ngoài ở Biển Đông.

Nó cũng tiếp tục cuộc tấn công pháp lý, biết rằng nếu bạn muốn đóng băng người phương Tây trên lộ trình của họ, bạn chỉ cần buộc tội họ phá vỡ luật lệ,  cho dù lời buộc tội có quá đáng đến đâu.

Bắc Kinh thông qua những sắc luật mới khẳng định quyền kiểm soát hành chính đối với một số tàu qua lại khu vực, cũng như một sắc luật cho phép tàu Phòng vệ Bờ biển Trung Quốc quyền hợp pháp được bắn vào các con tàu xâm nhập vào vùng nước mà Bắc Kinh tuyên bố sở hữu. Và bởi vì, theo Trung Quốc, không chỉ Biển Đông, mà cả Biển Hoa Đông cũng thuộc về họ, như đã thuộc về họ từ các thời kỳ lịch sử – kể cả những phần được Nhật Bản tuyên bố chủ quyền – nó cũng tuyên bố được quyền khai hỏa tại khu vực đó.

Bắc Kinh cũng đã làm việc về Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông với các nước ASEAN trong hơn 20 năm. Gần đây Trung Cộng đưa ra một đề xuất trao cho nó quyền phủ quyết với các quốc gia ASEAN tiến hành việc huấn luyện quân sự với các nước ngoài (đó là Hoa Kỳ,  và có thể Nhật Bản).

Những việc này không phải là chuyện đùa. Chúng có mục đích tạo một khung sườn cho một cuộc gây hấn được biện minh.

Và Trung Quốc đang bắt đầu,  như thói quen của nó, kiểm tra các giới hạn. Vào tháng 5, 2022, một tiêm kích của Không Lực QGPNDTQ phóng mảnh kim loại và pháo sáng phía trước chiếc máy bay P-8 của Không Lực Hoàng gia Úc đang tuần tra trong không phận quốc tế phía trên Biển Đông. Hành động có thể gây chết chóc.

Chính quyền Trung Quốc coi việc đó trong quyền hạn của mình để biện minh cho hành động của họ. Tất nhiên,  họ không đề cập đến việc tuyên bố của mình đã bị Tòa Trọng tài Thường trực hầu như bác bỏ hoàn toàn qua phán quyết 2016, trong một vụ án dựa vào UNCLOS – một quy ước mà chính Trung Quốc đã góp phần soạn thảo, đã ký tên, và đã đồng ý tuân thủ.

Lẽ ra nó phải xen thêm mệnh đề “một số điều kiện áp dụng.” Ít ra như thế cũng lương thiện hơn một chút.

Thỏa Ước Song Phương

Chúng ta đã thấy rằng Bắc Kinh bất cần luật lệ nhưng yêu thích chiến tranh pháp lý. Một cách thức khác chiến tranh pháp lý có thể được triển khai là bằng cách dụ các nước ký các thỏa ước song phương không mập mờ.

Chẳng hạn, vào đầu năm 2022, có tin vỡ òa là Trung Cộng đã ký kết hiệp ước an ninh với Quần đảo Solomon. Các điều khoản được giữ bí mật, kể cả với nghị viện Solomon. Người phát ngôn Trung Cộng phát biểu, mà không đưa ra bằng chứng nào, “Hiệp ước là một sự hợp tác bình thường nhằm thực thi pháp luật và an ninh, và phù hợp với luật pháp quốc tế và tập quán quốc tế.”

Người phát ngôn nói thêm rằng hợp tác an ninh giữa hai nước là công khai, minh bạch, và không nhắm vào nước thứ ba. Nó tiến hành song song với hợp tác hiện hành của Quần đảo Solomon với các đối tác và cơ chế vùng miền khác và phù họp với lợi ích của Quần đảo Solomon và khu vực Nam Thái Bình Dương.

Chứng minh điều đó đi.

Nhưng họ sẽ không chứng minh. Và chính đó là thắng lợi pháp lý, bởi vì tỉnh mập mờ của thỏa ước và thực thi đầy đủ sẽ tạo ra mối hoài nghi và mất lòng tin bên trong Solomon và giữa Solomon với các đối tác khác. Điều này khiến cho nhà lãnh đạo chuyên quyền đã ký vào thỏa ước, Thủ tướng Manaseh Sogaware, cô lập hơn về mặt quốc tế và quốc nội,  và như thế càng lệ thuộc vào các bạn bè mới tốt nhất ở Bắc Kinh.

Nhớ chiến tranh entropy (tiêu hao) không? Đó là cách bạn dùng chiến tranh pháp lý đẩy nhanh đến sự phân rã nội bộ và tình trạng nhà nước chư hầu. Bạn có thể nhìn thấy các yếu tố của nó ở Sri Lanka, Pakistan, Kenya, Uganda, Zambia, và nhiều nơi khác. Bắc Kinh sử dụng nó vì nó hiệu quả.

Dọn Sẵn Khung Pháp Lý Để Tấn Công Đài Loan

Mình họa đáng ngại nhất về chiến tranh pháp lý là việc ĐCSTQ sử dụng luật pháp trong nước để biện minh cho việc tấn công Đài Loan – và được một Hoa Kỳ thích tuân thủ luật pháp phải tránh ra khi Trung Quốc tấn công.

Một yếu tố cốt lõi của việc này là Bộ Luật Chống Ly Khai 2005 của Trung Quốc. Các điều khoản nòng cốt trong Mục 8 viết:

Trong sự cố các lực lượng ly khai Đài Loan hành động dưới bất cứ danh nghĩa nào và với bất cứ phương tiện nào nhằm gây ra tình trạng ly khai Đài Loan khỏi Trung Quốc, hoặc có các sự cố chủ yếu xảy ra tiếp sau sự ly khai của Đài Loan khỏi Trung Quốc, hoặc những khả năng cho sự thống nhất hoà bình hoàn toàn cạn kiệt, thì nhà nước có toàn quyền sử dụng các phương thức không hoà bình, và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc.

Quốc vụ viện và Ủy ban Quân ủy Trung ương sẽ quyết định về và thì hành các phương thức không hòa bình và các biện pháp cần thiết khác được ghi trong đoạn trên và sẽ báo cáo với Ủy ban Thường vụ của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc.

Một chính khách trước đây từng có trải nghiệm lâu dài với và trong Trung Quốc giải thích: “Trung Quốc đã luôn suy nghĩ tạo dựng cớ về nền  độc lập Đài Loan cho những hành động quân sự chống lại  Đài Loan mà ngăn cản được Hoa Kỳ không nhúng tay vào. Đột phá chủ yếu của Bộ Luật Chống Ly Khai 2005 là làm sao để làm bất cứ điều gì Đài Loan làm trông như là do họ tự nguyện và do đó không cho người Mỹ cái cớ để hành động.”

Đây là điều mà chiến tranh pháp lý trong khu vực đang hướng đến. Nhưng nó không là chiến tranh pháp lý ở nơi nó kết thúc.

Nhưng nếu người Mỹ sử dụng luật rừng của Trung Quốc như cái cớ để không bảo vệ một đồng minh dân chủ độc lập trước cuộc xâm lăng, cuộc chơi sẽ kết thúc đối với người Mỹ ở Ấn Độ-Thái Binh Dương  – và có thể trên toàn thế giới.

Trong bài diễn văn ngày 26/5/2022 về chiến lược của Hoa Kỳ nhằm đối phó với Bắc Kinh, Ngoại trưởng Anthony Blinken nói Hoa Kỳ sẽ không cản trở sự phát triển kinh tế của Trung Quốc, nhưng muốn Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế. Hoa Kỳ sẽ không thay đổi hệ thống chính trị của Trung Quốc, nhưng sẽ bảo vệ luật pháp quốc tế và các định chế duy trì hoà bình và an ninh và có thể khiến các quốc gia cùng tồn tại. 

Hai bình luận: May mắn nếu có Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế. Và thưa bộ trưởng Blinken, ngài đã nhận một nhiệm vụ cực kì khó khăn rồi đó.

Nếu Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh pháp lý, nó sẽ luồn lách để thông qua một đạo luật quy định việc Hoa Kỳ không ngoan ngoãn nghe lời Bắc Kinh là hành động bất hợp pháp.

 

 

.

 

 

 

 

Bình luận về bài viết này