Khi trung quốc tấn công- Lời cảnh báo với nước Mỹ (Bài 5)

CHƯƠNG 5 : Chiến Tranh Tâm Lý: Trung Cộng Nhào Nặn Cách Suy Nghĩ của Bạn Dùm Bạn

Đại tá Grant Newsham

Trần Quang Nghĩa dịch

Vào ngày 28/11/2020, Tiến sĩ Di Dongsheng, Phó khoa trưởng Ngành Bang gíao Quốc tế tại Đại học Nhân dân Trung Quốc ở Bắc Kinh phát một bài giảng video trong đó ông nói:

Tại sao Trung Quốc và Mỹ trước đây thường có khả năng giải quyết mọi loại vấn đề giữa những năm 1992 và 2016? Đó là bởi vì chúng ta có được những người ở chóp bu. Chúng ta có bạn bè cũ ở chóp bu giới nội bộ cốt lõi của quyền lực và ảnh hưởng.  . . trong 30, 40 năm qua chúng ta đã sử dụng quyền lực cốt lõi của Hoa Kỳ.

Ông ta tiếp tục cho biết mình phật ý khi Donald Trump lên nắm chính quyền. Những người bạn của Trung Quốc ở Washington và trên Phố Wall không thể dẫn dụ được chính quyền Trump từ bỏ các nỗ lực thách thức Trung Quốc như họ đã từng làm được với các chính quyền trước đây. “Trong cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, Phố Wall tìm cách giúp đỡ, và tôi biết rằng bạn bè bên phía Mỹ bảo với tôi rằng họ cố gắng tìm cách giúp đỡ, nhưng không thể làm được gì nhiều.”

Giáo sư Di kỳ vọng nhiều hơn vào chính quyền mới Biden. “Nhưng bây giờ chúng ta đang chứng kiến Biden đã đắc cử. Giới tính hoa truyền thống, giới tinh hoa chính trị, chính quyền, họ rất thân với Phố Wall. “

Có lẽ ông ta có lý do để lạc quan – biết rằng số người được bổ nhiệm mới (nhiều người trong số đó là cựu bình thời Obama) xuất thân từ các công ty tư vấn ” thân hữu” đã từng phục vụ cho các thân chủ CHNDTQ.

Các tác phẩm của Peter Schweizer thuật lại một cách chi tiết về ảnh hưởng của Trung Quốc tại Washington D. C. làm nổi bật mức thống trị tâm lý mà Trung Quốc đã tích lũy được nhiều năm qua. Việc này đã dẫn đến các chính sách và hành động (hoặc không hành động) của Mỹ làm lợi cho Bắc Kinh.

Chiến Tranh Quan Trọng Nhất

Rốt cục chiến tranh tâm lý là chiến tranh quan trọng nhất trong các kỹ thuật chiến tranh tranh chính trị, vì thế chúng ta bàn về loại chiến tranh này trước.

Chiến tranh tâm lý tìm cách thay đổi cách suy nghĩ và thái độ của đối thủ theo chiều hướng có lợi cho những mục tiêu của CHNDTQ. Qua các phương thức phi động lực nó làm suy yếu ý chí và khả năng kháng cự của địch. Người Trung Quốc thành công khi sử dụng  chiến tranh tâm lý khiến bên kia nhân nhượng và mất ý chí cùng khả năng chiến đấu.

Đến một thời điểm khi đó, cho dù bạn nhận thức được mối nguy và muốn “chơi động lực”, bạn nghĩ nó không thể – nó vô ích. Dù bạn có cây gậy to đến đâu, nó chẳng ích gì nếu bạn không muốn sử dụng nó.

KHI Trung Quốc nói về thắng lợi mà không cần đánh nhau, điều thiết yếu là họ muốn nói là không bị chúng ta đánh trả. Và điều đó tiêm nhiễm vào đầu óc chúng ta và vô hiệu hóa chúng ta từ bên trong.

Hầu hết mọi người đều nghe nói về tâm lý chiến. Nhiều người trong chúng ta cho rằng mình khôn ngoan, có học thức, biết phân biệt nên không thể bị ảnh hưởng bởi tâm lý chiến. Nhưng nếu bạn từng suy nghĩ hoặc nói bất cứ điều gì liệt kê dưới đây,  thì bạn đã bị tâm ly chiến Trung Quốc gây ảnh hưởng:

  • COVID-19 không thể xuất phát từ phòng thí nghiệm Trung Quốc.
  • Trung Quốc muốn thống nhất với Đài Loan.
  • Hoa Kỳ phải cần sự hỗ trợ của Trung Quốc về biến đổi khí hậu, vấn đề Bắc Triều Tiên, và vân vân.
  • Chúng ta đơn giản là phải đầu tư vào thị trường Trung Quốc.
  • Trung Quốc không thích điều đó.
  • Để biến Trung Quốc thành kẻ thù, hãy đối xử nó như kẻ thù.
  • Làm sao tôi có thể chỉ trích Trung Quốc được, khi xét những gì người phương Tây đã làm trong lịch sử?
  • Trung Quốc không còn là nước cộng sản, nó đã là nước tư bản.
  • Chỉ trích ĐCSTQ là hành động phân biệt chủng tộc.
  • Sự trỗi dậy của Trung Quốc là “hoà bình” và “tất yếu.”
  • Văn hoá Trung Quốc không phù hợp với dân chủ.
  • Trung Quốc đang quân sự hóa/gây hấn/bành trướng vì chấn thương 100 năm chịu nhục.
  • Fentanyl chỉ là món quà đáp trả các cuộc chiến tranh nha phiến.
  • Trung Quốc không hề bành trướng. Nó chưa hề tấn công một nước láng giềng nào.
  • Trung Quốc chỉ làm những gì mọi siêu cường đã làm.
  • Chúng ta chào đón một Trung Quốc hùng mạnh. Điều duy nhất tệ hơn là một Trung Quốc yếu với vũ khí hạt nhân.
  • Bạn không thể nói như vậy về Trung Quốc. Bạn có thể xúc phạm.người Trung Quốc.

Tất cả những điều nầy xem nhẹ hoặc bào chữa cho các mối đe dọa của Trung Quốc và biện minh cho sự bất động, ù lỳ và tự mãn khi đối mặt trước thái độ bất nhân và xúc pham của  ĐCSTQ. Tất cả là do bị tác động để suy nghĩ Trung Quốc không phải là một hiểm họa hoặc không thể chống cự lại, vì như thế mọi sự sẽ trở nên tồi tệ hơn.

Tâm Lý Chiến và Sức Mạnh Quân Sự

Nếu bạn không vượt qua bài kiểm tra, đừng lo. Các chiến binh cự phách của Mỹ, Quân đoàn TQLC Hoa Kỳ, cũng thế thôi.

Tại cuộc thao diễn quân sự Dawn Blitz  2013, lần đầu tiên Nhật phái một nhóm đổ bộ nhỏ đến Nam California để huấn luyện cùng vói TQLC và Hải quân Mỹ. Bắc Kinh khổ sở.

Cá nhân tôi được trích dẫn trong một bài báo:

Đại tá Grant Newsham, sĩ quan TQLC liên lạc với lực lượng Nhật, cho rằng việc huấn luyện quân sự cho Nhật Bản là thiết yếu để củng cố chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.

“Nếu thế kỷ 20 dạy chúng ta điều gì,  thì đó là khi các nền dân chủ có khả năng và ý chí phòng vệ, thì nó sẽ gìn giữ hoà bình và ổn định. Hầu hết các nước Á châu đều hoan nghênh – cho dù bày tỏ âm thầm – một nước Nhật có năng lực hơn, vốn là một đồng minh thân cận của Hoa Kỳ,” Newsham giải thích với Associated Press.

Dường như không mấy gây tranh cãi  – chỉ là một báo cáo cơ bản các sự kiện.  Vậy mà giới lãnh đạo TQLC và các “chính ủy” trong bộ phận quan hệ công chúng của Quân đoàn nhốn nháo cả lẻn.

“Anh không thể nói như vậy!”

“Người Trung Quốc sẽ điên tiết!”

“Họ sẽ nghĩ chúng ta đang kiềm chế họ!”

Nếu TQLC Hoa Kỳ mà cũng hoảng sợ làm mếch lòng người cộng sản Trung Quốc, thì bạn đã rõ là tâm lý chiến Trung Quốc rất lợi hại.

Đến cỡ nào? Năm năm trước Quân đoàn TQLC đã mắc câu lời bảo đảm của Bắc Kinh rằng họ có thiện chí hoà bình, nên phái chỉ huy TQLC Mỹ, Tướng James Conway, đến thăm Quân đoàn TQLC Trung Quốc. Vị tướng đọc một bài diễn văn cổ vũ các TQLC Trung Quốc hãy phát huy và làm chủ binh nghiệp của mình. Xui xẻo làm sao, họ nghe theo lời khuyên của ông.

Quá nhiều cơ sở phòng thủ Mỹ đã bị điều chỉnh qua nhiều năm (với sự giúp đỡ của Trung Quốc) để tin rằng nó không đối mặt với mối đe dọa nào từ CHNDTQ và sự gắn kết và thông hiểu nhau sẽ giải quyết mọi vấn đề.

Tầng lớp chính trị Mỹ không khác mấy, thậm chí còn thích còn tạo thêm điều kiện thuận lợi. Tầng lớp doanh nhân và tài chính gần như là đồ trong túi của Trung Quốc – bị ru ngủ vì hứa hẹn của người Trung Quốc sẽ được tiếp cận thị trường hốt bạc của họ.

Đáng khen, trong những năm gần đây, TQLC  (và lực lượng quân sự còn lại) đã phần đông thức tỉnh trước hiểm họa Trung Quốc. Nhưng cũng mất nhiều thời gian.

Trong khi đó, QGPNDTQ đã hoàn thành công cuộc xây dựng quốc phòng lớn nhất và nhanh nhất kể từ Thế Chiến II – và chắc chắn trong lịch sử. Và họ còn chưa dừng lại.

Điều gì dẫn đến sự thành công ngoạn mục của tâm lý chiến Trung Quốc và quá nhiều nhân vật tinh hoa trong chính quyền và doanh nghiệp Mỹ đã không thấy hiểm họa Trung Quốc đang đến?

Lý do không phải là chỉ một, nhưng CHNDTQ hiểu rõ mục tiêu của mình, và nếu nó muốn,  nó có mạng lưới tình báo rộng khắp để lợi dụng nhằm tạo ra hồ sơ về tính nhạy cảm cá nhân (việc này càng tỏ ra dễ dàng hơn khi tất cả chúng ta đều lên mạng trong mùa dịch).

Nó có thể và đã sử dụng bất kì tổ hợp các thủ đoạn nào gồm mê hoặc, dụ dỗ, lót tay, tâng bốc, đe dọa (công khai hoặc lén lút), dùng lời ngon ngọt, lòng hiếu khách tận mặt, hứa hẹn mở rộng cửa, khuyến dụ tiếp cận, cho những người bạn lôi kéo và thuyết phục rằng chỉ cần thêm một chút nỗ lực và thời gian, mọi việc sẽ ổn thoả.

Tâm lý chiến Trung Quốc đôi khi thành công đến nỗi dường như các mục tiêu của nó có các hội chứng của nạn nhân bị bạo lực gia đình  – bào chữa cho các hành động đe dọa của Trung Quốc mà đúng ra là gây tổn hại, và thậm chí tự nhận lỗi mình đã gây ra vấn đề.

Nguyên phụ tá bộ trưởng quốc phòng Giáo sư Joseph Nye là điển hình cho lối tiếp cận đó trong một bài báo đăng trong tờ New York Times năm 2013 “Cộng Tác với Trung Quốc, Đừng Kiềm Chế Họ”: “Khi tôi làm việc về chiến lược Đông Á của Lầu Năm Góc vào năm 1994, trong chính quyền Clinton, chúng tôi bác bỏ chính sách kiềm chế vì hai lý do. Nếu chúng ta đối xử với Trung Quốc như một kẻ thù, chúng ta chắc chắn sẽ có một kẻ thù tương lai. Nếu chúng ta đối xử với Trung Quốc như một người bạn, chúng ta để ngõ khả năng của một tương lai hoà bình hơn.”

Tiêm nhiễm ý tưởng này, bạn dễ dàng tự thuyết phục mình rằng nếu xử sự Trung Quốc như một kẻ thù, thì chắc hẳn nước Mỹ đã làm điều gì đó sai quấy.

Cách tiếp cận này hiện nay còn phổ biến trong giới gọi là China Hands – nhóm bè phái kín kẽ và luôn phòng vệ gồm những tên hay tỉ tê về Trung Quốc, lúc nào cũng cố thuyết phục rằng họ mới là người duy nhất xứng đáng được giải thích Trung Quốc.

Minh họa cho hiện tượng này là Henry Kissenger- từng là thầy dùi năng nổ về vấn đề Trung Quốc đối với nhiều người ở cả hai xứ sở – được trích dẫn vào năm 2022 về vấn đề bang giao Mỹ-Trung: “Chúng ta phải nhận thức tồn tại tính khác biệt ý thức hệ và lối giải thích. Chúng ta nên sử dụng nhận thức này để vận dụng nó khi phân tích về tầm quan trọng của các vấn đề  phát sinh, hơn là biến nó thành vấn đề chủ yếu của sự đối đầu, trừ khi chúng ta sẵn sàng xem việc thay đổi chế độ là mục tiêu chính của chính sách chúng ta.”

Có thể là như thế, nếu bạn đang giải quyết với Canada hay Pháp. Nhưng thế nào nếu bên kia xem sự khác biệt ý thức hệ là vấn đề đối đầu chủ yếu và tin rằng sẽ có người thắng và kẻ bại – và người thắng sẽ là CHNDTQ, bằng vũ lực, nếu cần.

Tiến sĩ Kissenger dường như khuyên Mỹ nên nhượng bộ người cộng sản Trung Quốc, nếu không chúng ta là người xấu.

Đôi khi loại phân tích này xuất phát từ một trong nhóm động lực MICE thông thường (M: money, tiền bạc; I: ideology, ý thức hệ; C: coerce, ép buộc; E: ego, cái tôi). Đôi khi nó là sự lúng túng về uy tín và nghề nghiệp vì đã hoàn toàn hiểu sai người cộng sản Trung Quốc trong nhiều thập niên.

Bất kể là gì, CHNDTQ hưởng lợi từ những ông lớn trong chính sách đối ngoại Hoa Kỳ quá sa lầy vào quan điểm xem Trung Quốc không hề là hiểm họa, bởi vì tranh luận là điều không thể trong nhiều năm trời – và vẫn còn không hề dễ dàng. Thật ra, việc thách thức sự thông thái được nhìn nhận trong truyền thông dòng chính, giới học thuật, viện nghiên cứu, hoặc bất kì lĩnh vực định hình tư tưởng nào khác đã bị ĐCSTQ thâm nhập và đầu độc hoàn toàn, có thể khiến bạn đối mặt với sự đối xử thô bạo – tốt nhất là bị cho đứng ra rìa, tệ nhất là bị hủy hoại.

Một nhà phân tích quốc phòng Mỹ đề nghị tại một buổi xê-mi-na cách đây vài năm rằng Trung Quốc có ý định xâm lăng Đài Loan. Trong giờ giải lao một cựu đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh nổi giận nhiếc móc diễn giả, kèm theo một bãi nước bọt. Quá thường, việc này được xem là tranh luận hợp lý trong thế giới China Hands.

Nhưng người cộng sản Trung Quốc cũng thường có thể nhờ cậy các bạn bè của họ ở Hoa Kỳ để giữ cho chính quyền Mỹ  không đẩy lùi họ quá đáng – và thậm chí mở toạc cửa cho Bắc Kinh, như trong trường hợp chính quyền Clinton bảo đảm tư cách thành viên của Trung Quốc trong WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) vào đầu những năm 2000.

Chỉ nội hành động đó thôi, kết quả của sự tự tin thái quá và sự.mù quáng sinh ra bởi lòng tham, đã xỉa xén vị thế chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc nhiều hơn bất kì hành động nào khác trong 30 năm qua.

Nó mở cổng xả lũ cho một mảng lớn công nghiệp Mỹ chuyển đến Trung Quốc, và sự chuyển giao gần như không được kiểm soát của công nghệ và bí quyết sản xuất các hàng hóa thương mại và quân sự.

Phần đông người Mỹ – ít nhất là trong giới tinh hoa – tự thuyết phục mình rằng không có gì sai với việc này, và hầu hết dân chúng ngoài đường phố đều hiểu rằng việc di dời này là hiểm họa. Chỉ cần hỏi một quản đốc hãng xưởng trước đây tại Baltimore.

Tâm lý chiến Trung Quốc cũng đã tạo ra một.mức độ e sợ về phía người Mỹ đã định hình nên chính sách và chiến lược của họ.

Chẳng hạn, chính sách của Mỹ về vấn đề Đài Loan nhiều năm liền đã dựa vào nỗi lo sợ sẽ khiêu khích Trung Quốc, do đó đưa đến việc Đài Loan bị tấn công hoặc rắc rối trong quan hệ Mỹ-Trung, và hậu quả là đứt gãy chuỗi cung ứng và gây khó khăn cho các công ty Mỹ ở Trung Quốc. Tuy nhiên, nỗi lo sợ và tự phê phán (kiểm duyệt) mình luôn được ngụy trang dưới những mỹ từ như “nghệ thuật quản lý nhà nước” hoặc “chủ nghĩa hiện thực nghiệt ngã.:

Nỗi lo sợ ăn sâu đối với việc thách thức Trung Quốc quá mạnh đến nỗi khi một sĩ quan cao cấp tại INDOPACOM (Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Binh Dương) năm 2015 được hỏi tại sao họ lại nhân nhượng với Trung Quốc đến vậy, ông ta trả lời, “Vậy chúng tôi phải làm sao đây? Đánh nhau với họ à?”

Thay vào đó, kế hoạch là lực lượng Hoa Kỳ phải đẩy lùi đủ xa để khiến CHNDTQ phải rẽ ra khỏi thái độ gây hấn của mình.

Nhưng điều đó chỉ có hiệu quả khi anh chàng kia quan tâm đến việc rẽ ra khỏi – và khi y không nghĩ rằng thái độ của y mang lại các kết quả tốt đẹp hơn. Cách tiếp cận này khiến các nhà lên kế hoạch quân sự tốn nhiều thời gian quý báu và cho phép CHNDTQ thu ngắn cách biệt về khả năng quân sự nhiều hơn nữa.

Tâm Lý Định Hình Sự Kiện và Sự Kiện Định Hình Tâm Lý

Lối suy tư sai lầm đến độ nguy hiểm này không mới. Vào năm 1991, 1992  tin rằng không có gì phải sợ CHNDTQ, và có lẽ cảm thấy quá tự mãn vì đã thắng Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ rút quân khỏi các căn cứ quân sự chủ chốt ở Vịnh Subic và Clark Field ở Philippin. Một nhà phân tích Á châu tôi có dịp trao đổi đưa ra nhận xét:

Việc Mỹ ra đi khỏi Philippin và buông bỏ các tài sản cứng (hữu hình) (Căn cứ Không quân Clark và Vịnh Subic) đã làm nhiều hơn bất kì sự kiện đơn lẻ nào khác khiến ĐCSTQ thêm táo bạo lao vào lộ trình hiện nay tại quốc nội cũng như quốc ngoại. Đi khỏi Philippin minh họa cho người cộng sản Trung Quốc câu thành ngữ cổ Trung Hoa, “Thật Sự Cầu Thị” (Tìm kiếm chân lý từ các sự kiện) để khẳng định cho nhận thức rằng Mỹ đã bước vào giai đoạn suy thoái không thể đảo ngược được của một nhà nước phản động.

Gần 20 năm sau, Trung Quốc áp dụng một số sức ép tâm lý và buộc Hoa Kỳ phải đáp ứng theo cách có lợi cho Bắc Kinh.

Năm 2012, các tàu Phòng vệ Bờ biển Trung Quốc đánh chiếm một bãi cạn Scarborough, vùng biển có nguồn tài nguyên cá và nằm bên trong Vùng Đặc quyền Kinh tế Philippin. Chính quyền Obama không hứng thú trong việc đánh nhau với Trung Quốc  – nước mà họ không thực sự nhìn thấy (hoặc không muốn nhìn thấy) mối hiểm họa. Nhớ, các sĩ quan cao cấp bị cấm thậm chí không cho phát biểu rằng người cộng sản Trung Quốc có thể là một vấn đề – và có quá nhiều người tha thiết muốn kết giao với CHNDCHN hơn nữa.

Bắc Kinh cảm nhận được sự yếu đuối, thậm chí sự e sợ. Vì thế nó dấn tới để xem Mỹ phản ứng thế nào đối với cuộc tấn công vào chủ quyền Philippin. Philippin là đồng minh theo hiệp ước với Mỹ mà Washington có nghĩa vụ phải bảo vệ.

Thay vì gửi tàu chiến bảo vệ lực lượng Phòng Vệ Bờ biển bị áp đảo của Philippin, chính quyền Obama giải quyết bằng cách yêu cầu hai bên rút quân.

Philippin rút quân.

Trung Quốc không rút quân.

Và người Mỹ chả làm gì.

Cuối cùng,  chúng ta đưa ra lời giải thích lý đó tại sao “một số bãi đá” này (Bãi cạn Scarborough) không nằm trong Hiệp ước Phòng thủ Chung Mỹ-Phi.

Đó là chiến thắng tâm lý to lớn cho Bắc Kinh. Đối mặt với hành động gây hấn của Bắc Kinh và coi thường một thỏa thuận công khai gần đây, Washington thực sự chỉ lên tiếng, “Ở đây không có gì đáng xem,” bỏ rơi một đồng minh theo hiệp ước, và giả bộ mọi việc đều ổn.

Trung Quốc lợi dụng việc Mỹ chẳng những không hề chớp mắt, mà còn nhắm cả hai mắt lại. Nó dấn càn tới chiến dịch xây dựng đảo nhân tạo trong Biển Đông

Trong vòng 5 năm, nó thiết lập quyền kiểm soát thực sự các vùng nước thuộc quốc tế về mặt pháp lý, qua đó những tuyến đường mậu dịch quan trọng đi lại. Nhưng luật lệ có giá trị gì khi không ai có thể,  hoặc trong trường hợp này, dám cưỡng chế nó?

Người Phi khổ sở,  còn uy tín nước Mỹ bị ăn đòn thật nặng trong khu vực – giống như tổn thất vào năm 1975 khi người Mỹ rút khỏi Miền Nam Việt Nam (và bỏ lại đồng minh Miền Nam của mình) khi lực lượng Miền Bắc đánh chiếm Miền Nam.

Và việc đó xảy ra một lần nữa với việc rút quân thảm hại khỏi Afghanistan năm 2021.

Điều này cũng góp phần cho thành công của hoạt động động tâm lý chiến của Bắc Kinh ở các nước  khác – bằng cách rỉ tai với lãnh đạo các nước đó là không thể tin cậy vào sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, vì thế tốt hơn nên thương thảo với Trung Quốc sớm như có thể.

Tâm Lý Chiến Chiêu Dụ Truyền Thông và Giáo Dục Mỹ

Người cộng sản Trung Quốc từ rất lâu đã hình dung rằng bạn có thể tăng cường kiểm soát tư tưởng của dân chúng bằng cách kiểm soát những gì họ đọc, nghe, và học. Họ đã thực hiện việc này ở Trung Quốc, và cũng đã thành công ở cả Hoa Kỳ.

Thật ra, tâm lý chiến của CHNDTQ chống lại người Mỹ dễ dàng hơn và đạt được hiệu quả, bởi vì giới truyền thông Mỹ, nhất là các tập đoàn có lợi ích ở Trung Quốc – phần lớn quay mắt đi hoặc cố ban cho ĐCSTQ phúc lợi của sự nghi ngờ.

Truyền thông Mỹ vui sướng (và thật đúng đắn) chỉ trích gay gắt sự hung hăng của Nga, nhưng đến lượt Trung Quốc, nó thường chỉ đối xử nhẹ nhàng.

KHI Donald Trump ra sức bảo vệ nền kinh tế Mỹ khỏi các hành động cướp bóc của Trung Quốc, ông thường lệ bị giới truyền thông dòng chính kích bác là phân biệt chủng tộc hoặc không ưa Trung Quốc.

Trong khi đã từng có, và vẫn còn có, một số phóng viên và người viết chuyên mục tốt  theo dõi CHNDTQ, như James Mann (Los Angeles Times vào những năm 1990), Joseph Kahn (New York Times vào những năm 2000), Austin Ramzy (trước đây ở New York Times, giờ ở Wall Street Journal), and Kathrin Hille (Financial Times) – nhưng cũng còn có loại người khác.

Người viết chuyên luận ý kiến tờ New York Times Tom Friedman ca tụng hết lời Bắc Kinh nhiều năm liền. Năm 2019 ông viết mình muốn là chính quyền Trung Quốc trong một ngày để ông có thể chỉnh đốn nước Mỹ, giải thích rằng, “Nên chuyên chế độc đảng tất nhiên có bất lợi. Nhưng khi nó được lãnh đạo bởi một bởi một nhóm người sáng suốt hợp lý, như Trung Quốc ngày nay, nó cũng có nhiều thuận lợi lớn lao.”

Vậy sao.

Các báo chí in lại những tuyên bố và dữ liệu của CHNDTQ, thường là không phê phán. Hai năm sau khi bắt đầu đại dịch, trong khi Hoa Kỳ báo cáo có hơn 825.000 người chết vì COVID, thì Trung Quốc còn báo cáo số tử vong ít hơn 5.000. Và con số này lặp lại trên truyền thông khắp nước Mỹ, thường làm cơ sở để biện minh cho lối đóng cửa cách ly kiểu Trung Quốc.

Thỉnh thoảng báo chí Mỹ nhận in bài tuyên truyền công khai được trả tiền của Trung Quốc, như tờ Washington Post đã làm trong mục China Daily. Tờ Wall Street Journal được cho là sáng suốt nhất trong vấn đề Trung Quốc, cũng làm tương tự.

Đại sứ Trung Quốc tại Hoa Kỳ gần đây xuất hiện trên trang đầu mục ý kiến của tờ Washington Post công kích Hoa Kỳ và chính sách đối với Đài Loan. Những quan chức Trung Quốc khác không khó khăn khi đi tìm chỗ in những bài viết tuyên truyền thường là độc hại của họ.

Ngoài việc xiển dương quân đội Trung Quốc, cũng có trường hợp dập tắt những bài báo có thể “xúc phạm” Bắc Kinh. Blomberg (công ty tài chính, phần mềm,  dữ liệu và truyền thông) giết chết một bài tường thuật được nghiên cứu công phu vào năm 2013 về nạn tham nhũng của giới lãnh đạo ĐCSTQ, dường như sợ gây thiệt hại cho các hoạt động kiếm ra tiền khác ở CHNDTQ.

Giờ hãy bàn đến dịch fentanyl giết chết người Mỹ mỗi năm nhiều hơn số binh sĩ Mỹ chết trong những ngày tồi tệ nhất trong chiến tranh Việt Nam. Truyền thông chính của Mỹ như New York Tmes, Washington Post chỉ thỉnh thoảng đề cập đến việc Trung Quốc là nguồn cung gốc của hầu hết các chất ma túy,  và có thể triệt nguồn cung cấp trong một phút.

Bên trong Trung Quốc,  Bắc Kinh hưởng lợi từ việc bộ máy hành pháp Mỹ quá e đè không dám thách thức Trung Quốc trong việc hạn chế và sách nhiễu các phóng viên Mỹ, trong khi các phóng viên và các công ty thông tấn Trung Quốc lại được tự do tác nghiệp ở Hoa Kỳ.

Chính quyền Trrump đã cố gắng làm điều gì đó về việc này, đơn giản đòi hỏi tính có qua có lại cho các phóng viên Mỹ. Nhưng dường như nó không còn là một ưu tiên đối với Nhà Trắng thời Biden.

Một nhân viên tình báo Mỹ lâu năm mô tả những vấn đề sâu xa hơn về việc làm phóng sự về hoặc tại Trung Quốc.

Phóng viên Tây phương có khuynh hướng tin cậy quá đáng vào các thành phần khả nghi – các “viện nghiên cứu” và các nguồn học thuật  – và sử dụng mà không hồ nghị các “nguồn tin” gửi đến họ bởi các “nhà nghiên cứu” mà họ thuê tại địa phương, hóa ra cũng là người được Phòng Dịch vụ Người Nước Ngoài do Bộ An ninh Quốc gia kiểm soát chiêu dụ để làm việc trong các văn phòng tin tức nước ngoài quanh Trung Quốc.

Hơn một thập niên qua hầu hết các cơ quan truyền thông quốc tế lớn đều tuyển mộ nhiều đội thành viên người Trung Quốc lục địa đã được huấn luyện trong ngành báo chí thuộc Cơ quan Tuyên truyền Trung ương hoặc các trường ngoại ngữ và trải qua những chuyến thực tập thành công ở nước ngoài trong hảng thông tấn Tân Hoa Xã hoăc Tân Văn Xã (nói cách khác, họ đã được đào luyện như những nhân viên tình báo.)

Tất cả bọn họ đều được Bộ An ninh Quốc gia chỉ dẫn thông tin tình báo nào cần được thu thập, và được Cơ quan Tuyên truyền Trung ương ở Bắc Kinh chỉ dẫn phải viết về những đề tài gì, theo quan điểm nào, sử dụng số liệu thống kê nào. Hơn nữa, họ có thể tiêm các thiên kiến đó vào các bài phóng sự và chính luận về Trung Quốc của các đồng nghiệp vô tư phi Trung Quốc.

Trong mùa COVID-19, chẳng hạn, họ tham gia trong một chiến dịch sâu rộng nhằm chụp mũ cho các mối nghi ngờ của chính quyền Mỹ cho rằng nguồn gốc dịch là từ Trung Quốc là luận điệu “phân biệt chủng tộc” và báo cáo mọi tình huống sử dụng bạo lực “chống người châu Á” là kết quả trực tiếp của nỗi lo âu về COVID-19 của chính quyền Triump.

 

Tính Trung Thực trong Học Thuật Có Cái Giá của Nó

Về phần các đại học Mỹ, Trung Quốc tính toán đúng đắn rằng cái giá của các nguyên tắc học thuật phải bằng với số sinh viên trả học phí toàn phần. Trước khi đại dịch COVID chặn lại dòng thác, có hơn 300.000 sinh viên Trung Quốc đang theo học tại các trường đại học và cao đẳng Mỹ.

Các món quà biếu hậu hĩnh gửi đến các “trung tâm đại học” đổ vào tiền bạc, cũng như visa, vé máy bay hạng thương gia, và thiệp mời đến dự các buổi xê-mi-na cho các giáo sư và nhà quản trị. Cho dù họ hoặc bài thuyết trình của họ có tẻ nhạt đến đâu, các giáo sư và nhà quản trị đó chưa từng đẹp lòng đến như thế khi được dịp phơi mình trong niềm vinh quang trước một khán phòng to rộng chật ních các “sinh viên ” tâng bốc.

Các ban bệ và các nhà quản trị đại học vốn đã từng cho phép săn lùng và tống cổ các diễn giả bảo thủ ra khỏi khuôn viên đại học và đứng về phe các phong trào “Tẩy chay, Rút vốn đầu tư, “Cấm vận” chống Israel thì giờ đây không nói một tiếng khi các đặc vụ Trung Quốc  – thường là sinh viên hoặc đôi khi các nhân viên lãnh sự quán – hù dọa các sinh viên Trung Quốc nào phê phán hoặc chống đối chế độ cộng sản.

Về phần các hành động tàn bạo vi phạm nhân quyền của Trung Cộng, nếu bạn ra sức lên tiếng để thức tỉnh công luận trên khuôn viên đại học, thì bạn sẽ gặp rắc rối. Thậm chí các giáo sư phát biểu ý kiến về CHNDTQ mà sinh viên Trung Quốc cho rằng xúc phạm có thể thấy mình bị các nhà quản trị khuôn viên điều tra.

Ngày xưa, các đại học Mỹ coi nhân quyền là quan trọng. Nhớ vụ apartheid (nạn phân biệt chủng tộc) ở Nam Phi không?

Viện Khổng Tử được ĐCSTQ tài trợ mọc lên như nấm từ những năm 1990 trở đi trên 100 khuôn viên đại học. Trên danh nghĩa, viện dạy ngôn ngữ và văn hoá Trung Quốc, nhưng cũng tạo một nền tảng hữu dụng để xiển dương ĐCSTQ và giám sát hoạt động trong đại học. Chính quyền Trrump tim cách đóng cửa chúng bằng cách cho các đại học chọn giữa việc làm ăn với chính phủ hay mở Viện Khổng Tử. Hầu hết đại học làm bản phân tích lợi hại và đóng cửa các Viện Khổng Tử.

Trong khi Viện Khổng Tử nhận được phần nhiều sự chú ý, thì các Lớp Khổng Tử phần nhiều tránh được rà soát của rađa, mặc dù hiệu quả của chúng còn độc hại hơn nhiều. Chúng cũng dạy ngôn ngữ và văn hoá Trung Quốc như các Viện Khổng Tử, nhưng chúng nhắm vào các trường công lập Mỹ, lứa học sinh lớp 12, và có hơn 500 lớp học như thế.

Theo quan điểm Trung Quốc đó là việc hai bên điều có lợi. Một số lớn các học sinh Mỹ lớn lên có thiện cảm với CHNDTQ và tiêm nhiễm ý tưởng rằng CHNDTQ và ĐCSTQ là những chú gấu trúc đáng yêu.

Bạn có thể tưởng tượng Bắc Kinh cho phép chính quyền Mỹ lập ra các “Lớp học George Washington” ở Trung Quốc hay không? Không, bạn không thể. Có lẽ các trường đại học Mỹ nên bắt đầu giảng dạy các khóa học về “bánh sáp đi, bánh quy lại.”

Tâm Lý Chiến và Doanh Nghiệp Mỹ

Tình hình cũng tệ hại trong các bộ phận doanh nghiệp Mỹ. Báo China Daily của CHNDTQ gần đây gáy rằng một bài báo của Phòng Thương Mại Mỹ ở Trung Quốc cho biết các công ty Mỹ kháo nhau rằng, “Nếu bạn không hoạt động ở Trung Quốc,  bạn không thể cạnh tranh toàn cầu.”

Sau 50 năm doanh nghiệp Mỹ vẫn còn tha thiết muốn vào CHNDTQ  – và Bắc Kinh vẫn tha thiết duy trì mối quan tâm của họ. Việc đó không khó. Vẫn còn miếng mồi lủng lẳng chỉ cần bán được một sản phẩm cho mỗi đầu dân Trung Quốc. Và chính quyền Trung Quốc thì lúc nào cũng hứa hẹn mở rộng hơn – lần này,  chúng tôi nghiêm túc!

Người Mỹ thường xuyên làm ăn ở Trung Quốc những ngành nghề họ sẽ không bao giờ làm ở Winconsin hoặc trong 49 tiểu bang nào khác. Chính tâm lý chiến Trung Quốc hiệu quả đến nỗi họ phớt lờ nguy cơ của một thị trường thế phẩm được kiểm soát bởi một nền độc tài thất thường  – một nền độc tài trong đó một hợp đồng không có nghĩa gì hơn điều mà nhà độc tài lý giải theo cách của y, và trong đó việc chuyển giao công nghệ then chốt là cái giá để được vào thị trường.

Người Mỹ cố tình làm ngơ trước bản chất nền tảng của chế độ và những trò tàn bạo vi phạm nhân quyền của nó, thậm chí khi các nhà đầu tư và chủ doanh nghiệp bạn bè bị tống giam vào ngục bởi bất cứ tội danh nào nhà độc tài có thể gán cho.

Nhưng ĐCSTQ hiểu rõ tâm lý liên quan và hành xử . Người Trung Quốc có một khoảng thời gian dễ dàng. Mùi tiền thường khiến người Tây phương múa may như các con sư tử biển diễn trò xiếc trong Thế giới Biển chỉ vì một miếng cá thu.

Tôi đang trao đổi thư từ với một doanh nhân Mỹ có nhiều năm kinh nghiệm trên thị trường Trung Quốc. Tôi viết,  “Như mọi chiến dịch tâm lý chiến hoàn hảo khác, người cộng sản hiểu rất rõ nhược điểm của mục tiêu họ. Họ đầu tư vào “tính tham tiền, dốt nát, ngây thơ,  tự cao, và hợm hĩnh của người Mỹ.”

Ông ta trả lời, “Tất cả các tính cách này dẫn đến việc cho đi nhiều bí quyết công nghệ của chúng ta tới Trung Quốc. Tôi chứng kiến việc đó một cách trực tiếp. Tôi cũng bổ sung tính phân biệt chủng tộc, không phải trong mọi tình huống,mà trong nhiều trường hợp, một cách âm thầm và rõ ràng. Tôi nhớ có lần một đồng nghiệp bảo tôi, ‘Tôi chuẩn bị giao cho họ cẩm nang kỹ thuật  (miễn phí). Bọn chúng Trung Quốc, chúng không mò ra được gì đâu'”.

Một yếu tố tâm lý chiến khác đối với cách thức làm kinh doanh của người Trung Quốc  là yếu tố mà bạn chắc chắn đã tự cảm nhận được và đã chứng kiến nơi người khác.

Chính quyền Trung Quốc trợ cấp cho các nhà sản xuất Trung Quốc để họ có thể tạo ra sản phẩm với giá rẻ hơn người Mỹ (hoặc người khác) có thể làm được. Và phần tốt đẹp nhất (đối với họ) là họ tạo ra sự lệ thuộc và người Mỹ dính mồi hàng hoá giá rẻ  – đến độ họ (những doanh nghiệp Mỹ nhập khẩu  sản phẩm giá rẻ) lốp-bi chính quyền Mỹ để họ cho phép người Trung Quốc tiếp tục làm những gì họ làm vì “lợi ích của dân Mỹ.”

Nhà doanh nghiệp tôi đề cập trên đây mô tả điều đó như sau:

Trung Quốc lợi dụng tối đa cơn nghiện mua đồ rẻ của chúng ta. Một người Mỹ đến siêu thị đề mua 4 ghế nhựa sân vườn. Khi đến đó họ phát hiện giá ghế quá rẻ (được sản xuất tại Trung Quốc bởi chi nhánh QGPNDTQ).

Thay vì mua 4 ghế đang cần, ông ta mua luôn 6 ghế, “bởi vì chúng quá rẻ.” Chi phí 6 ghế gần bằng giá 4 ghế chất lượng cao sản xuất tại Youngstown, Ohio.

Tiền bán, tính bằng đô-la đi đến cơ quan Quản lý Nhà nước Trung Quốc về Ngoại Hối. Chi nhánh QGPNDTQ nhận tiền trả theo mệnh giá đồng nhân dân tệ, có lẽ, từ cơ quan Quản lý về Ngoại Hối. Số tiền thường không theo tỷ lệ hối đoái chính thức của Trung Quốc mà thấp hơn. Suy cho cùng, chi nhánh của QGPNDTQ được nhà nước trợ cấp.

Trung Quốc,  và hầu hết mọi xứ sở khác trên thế giới đều biết người Mỹ có bệnh nghiện này, và họ tiếp tục nuôi dưỡng nó.

Khi tôi cố giải thích cho giới chính trị và xã hội ở Washington, họ trả lời hàng hoá giá rẻ của Trung Quốc đã cung cấp cho tầng lớp kinh-xã thấp kém hơn ở Mỹ một mức sống vật chất mà nếu khác đi họ không thế có được. Họ tiếp tục phát biểu điều này là quan trọng trong việc duy trì niềm tin của người Mỹ vào tính năng động hướng thượng.

Tôi chỉ ra rằng bỏ thêm một chút chị phí để mua hàng hoá Mỹ là cái giá của tự do cần thiết để khỏi trở nên lệ thuộc vào nhà nước và ĐCSTQ. Họ bác bỏ ý kiến đó. Họ không thể hoặc không muốn nhìn nhận MADE IN CHINA đang làm xói mòn nền kinh tế của chúng ta, và củng cố thêm, qua từng sản phẩm một, qua từng vụ mua sắm một, ảnh hưởng của ĐCSTQ và nhà nước cộng sản lên Hoa Kỳ.

Đó là thắng lợi tâm lý chiến. Nó cũng củng cố cho chiến tranh kinh tế của Trung Quốc và tăng hiệu quả của chiến tranh hoá học (fentanyl) bằng cách bảo đảm việc sản xuất (và việc làm) không quay về Mỹ. Đồng thời nó tài trợ cho việc xây dựng QGPNDTQ thêm hùng hậu chờ ngày trận chiến động lực bắt đầu.

Món lợi bất ngờ cho CHNDTQ là người Mỹ muốn chính quyền bảo đảm chính sách không thay đổi – cho dù đồng bào họ bị thiệt hại. Người Trung Quốc không cần đổ mồ hôi. Đó là mặt mũi của Quyền lực Quốc gia Toàn diện.

Kết toán cuối cùng,  tâm lý chiến Trung Quốc đã rất thành công, và kéo dài nhiều thập niên.

Dù cho CHNDTQ làm bất cứ chuyện gì – đe dọa tàu Mỹ trong vùng biển quốc tế, sách nhiễu và đánh chìm các tàu đánh cá của các nước khác, cắt đứt nguồn chăm sóc y tế sinh tử cho nhân vật bất đồng chính kiến được giải Nobel đến nỗi phải chết, nhốt hàng loạt công dân trong các trại tập trung, hoặc đánh cắp các bí mật thương mại và tài liệu mật của chính quyền  – vẫn có một bản đồng thanh amen của bộ máy quan liêu, các Tiến sĩ, các loại doanh nghiệp và tài chính, các viên chức chính quyền,  các chính trị gia, và các học giả sẽ cùng giải thích với bạn tại sao không có gì đáng lo về cộng sản Trung Quốc.

Và, họ còn nói thêm rằng ai nói khác đi là bọn phân biệt chủng tộc, ngu ngốc, diều hâu (thậm chí siêu diều hâu) – và dù gì đi nữa, thì đó cũng do lỗi người Mỹ đã đối xử người Trung Quốc như kẻ thù. Và không phải ít các sĩ quan cao cấp Mỹ và bộ hạ của họ (các đại tá mơ ước lên sao) cũng sẵn sàng nói cùng một giọng điệu.

Ta có thể tranh luận để tìm hiểu tại sao và phải đổ lỗi cho ai, nhưng ta không thể tranh luận về hậu quả. Chỉ với sự phản kháng chiếu lệ, Hoa Kỳ nhường lợi thế và cho phép – đúng ra là giúp đỡ và cổ vũ – một kẻ thù đã tuyên thệ phát triển sức mạnh kinh tế và quân sự (và sức mạnh tâm lý song song) đến mức CHNDTQ đạt đến tiềm năng có thể đánh thắng Mỹ, thậm chí không cần đánh đấm.

Nhưng cũng có một vài tin tốt lành. Như một người say xỉn tỉnh dậy sau cơn chếnh choáng, các giới quyền lực trong quân đội Mỹ và Bộ Quốc phòng đang bắt đầu nhận ra CHNDTQ là một hiểm họa.

Đây là một sự chuyển biến kể từ thời Obama khi bạn không thế dùng từ “đối thủ” để chỉ Trung Quốc. Thậm chí Đồi Capitol cũng thức tỉnh trước hiểm họa Trung Quốc hơn trước đây kể từ thời Chiến tranh Lạnh – mặc dù tầng lớp mạnh thường quân vốn làm ra tiền từ CHNDTQ còn nhiều thế lực.

Thậm chí một số doanh nghiệp Mỹ cũng bắt đầu nhận ra rằng làm ăn với Trung Quốc có nhiều nguy cơ hơn họ vẫn tưởng.

Còn những người khác phải cần một quả đấm vào mũi mới thức tỉnh, và thậm chí như thế cũng chưa chắc đủ.

Phố Wall và tầng lớp tài chính, khổ thay, vẫn còn gắn kết chặt chẽ với Trung Quốc. Suy cho cùng, đó là tiền bạc của người khác.

Đội Bóng Rỗ Quốc gia và phần đông nghệ sĩ Hollywood tha thiết với tình trạng bất công xã hội tại Hoa Kỳ. Nhưng hình như họ tự thuyết phục mình rằng những hành động tàn bạo vi phạm nhân quyền ở CHNDTQ không quan trọng. Tiền bạc sẽ làm chuyện đó.

Nhưng giờ đây ta biết rõ những gì Trung Quốc đang theo đuổi- và càng ngày càng khó hơn cho những ai giả vờ không biết.

Chúng ta cần nhìn nhận thực tế nào bảo cho chúng ta biết về người cộng sản Trung Quốc và không bị ru ngủ, không hoang mang, không sợ hãi trước những gì tâm lý chiến của ĐCSTQ tìm cách uốn nắn cách suy nghĩ của chúng ta.

Chúng ta phải giữ cho đầu óc tỉnh táo, vì còn phải đương đầu với nhiều “trận chiến” phía trước. Chúng ta chỉ có thể nhìn đúng bản chất của chúng, và để chiến thắng, trước hết chúng ta phải giải phóng mặt trận tâm trí của chúng ta.

.

 

Bình luận về bài viết này