
Tác giả: Evan Andrews
Đinh Tỵ biên dịch
Chúng ta hãy tìm hiểu xem vì sao một trong những đế chế lẫy lừng nhất dần suy vi
1.Bị các bộ tộc Man Di xâm lược
Lý thuyết nhất quán nhất lý giải sự sụp đổ của Tây Roma là một chuỗi các thất bại quân sự liên tiếp trước ngoại bang. Các bộ tộc Đức khiến Rome gặp khốn đốn suốt hàng thế kỷ, tuy nhiên khoảng những năm thập niên 300, các nhóm “man di” như Goths (còn gọi là bộ tộc Đông German) đã xâm lấn vùng biên giới Đế chế. Người Roma đã hóa giải thành công một cuộc nổi dậy của người Đức vào cuối thế kỷ thứ 4, nhưng vào năm 410, Alaric, vị vua đầu tiên của người Visigoth (dân tộc Đức thuộc đế chế Roma đương thời) đã xua quân cướp phá tan hoang thành phố Roma. Trong nhiều thập kỷ sau đó, thần dân Đế chế thường sống trong nỗi nơm nớp lo sợ khi “Thành phố Vĩnh hằng” lại bị cướp phá lần nữa vào năm 455, lần này kẻ thủ chính là người Vandals (thuộc bộ tộc Đông German). Cuối cùng, năm 476, Odoacer, lãnh tụ người Đức đã phát động cuộc nổi dậy và Hoàng đế Romulus Augustulus bị soán ngôi. Từ đó trở về sau, không hoàng đế Roma nào giành lại hào quang Italy lừng lẫy một thời, nhiều sử gia dẫn cột mốc năm 476 là năm Đế chế Đông La Mã bị giáng đòn chí tử vĩnh viễn không gượng dậy nổi.
2.Các bất ổn kinh tế và trông cậy lực lượng lao động nô lệ quá mức
Kể cả khi La Mã bị kẻ thù ngoại bang tấn công tứ phía, cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng đã khiến đế chế lâm vào cảnh xất bất sang ban. Các cuộc chiến liên tu bất tận cùng sự phung phí quá mức đã khiến ngân khố đế chế càng thêm mục rỗng, cộng thêm chính sách thu thuế hà khắc và lạm phát đã khiến khoảng cách giàu nghèo càng nới rộng thêm. Để trốn thuế, giới nhiều tiến lắm của, thậm chí kiếm nơi hẻo lánh để nương náu và lập nên các lãnh địa độc lập. Đồng thời, nạn khan hiếm lao động khiến đế chế rúng động. Kinh tế La Mã phụ thuộc vào lực lượng nô lệ để cấy cầy và sản xuất thủ công, đội quân hùng mạnh của đế chế, theo lệ thường đã cưỡng bức các thanh niên trai tráng khỏe mạnh tại các vùng bị chiếm đóng để làm nô dịch. Tuy nhiên, vì lý do bành trướng lãnh thổ trong nửa đầu thế kỷ thứ 2, nguồn cung lao động và các ngân khố dành cho các chiến tranh khác của đế chế cạn kiệt dần. Vào thế kỷ thứ 5, đế chế bị giáng bị đòn chí mạng khác khi người Vandals chiếm đóng Bắc Phi và luôn rình rập quấy phá vùng biển Địa Trung Hải khiến các hoạt động mậu dịch của đế chế bị gián đoạn. Khi nền kinh tế bắt đầu lao đao và ngành sản xuất thương mại và nông nghiệp sụt giảm, Đế chế dần đánh mất quyền thống trị Châu Âu.
3.Sự trỗi dậy của Đông La Mã
Vào cuối thế kỷ thứ 3, vận mệnh Đông La Mã dần khép lại khi Hoàng đế Diocletian quyết định chia đôi Đế chế – thành phố Milan là thủ phủ Tây Đế chế, và Đông Đế chế đóng đô ở Byzantium, sau đổi là Constantinople. Sự chia đôi này có cái lợi là đế chế điều hành thuận tiện hơn trong ngắn hạn, nhưng về lâu về dài hai phần lãnh thổ này dần đối địch nhau. Đứng trước mối đe dọa của ngoại bang, cả Tây lẫn Đông Đế chế không hợp tác một cách tương xứng, và cả hai thường cãi nhau chí chóe về các khoản viện trợ nguồn lực và quân sự. Khi mối hiềm khích ngày càng lớn dần, dân chúng Đế chế Đông La Mã – vùng chủ yếu nói tiếng Đức ngày càng ăn nên làm ra trong khi Tây La Mã việc làm ăn ngày càng thất bát vì tình hình kinh tế ngày càng sa sút. Điều quan trọng nhất, sức mạnh của Đông Đế chế đã đánh bật các cuộc xâm lăng của quân Mọi Di về phía Tây. Các vị hoàng đế như Constantine muốn bảo đảm thành phố Constantinople được phòng thủ kín kẽ, nhưng Italy và thành phố La Mã – vốn chỉ mang giá trị biểu tượng cho phần nhiều Đông Đế chế – ở vị trí dễ bị tổn thương. Cấu trúc chính trị Tây Đế chế, rốt cuộc bị phân rã vào thế kỷ thứ 5, nhưng Đông Đế chế vẫn vận hành trơn tru trong một số phương diện cả ngàn năm sau trước khi bị Đế chế Ottoman nuốt trọn trong thập niên những năm 1400.
4.Ham bành trướng và chi tiêu quân sự thái quá
Vào thời đỉnh điểm, Đế chế La Mã trải dài từ Đại dương Atlantic, từ đây mọi ngã đường cùng chảy về Sông Euphrates tại Trung Đông, nhưng từ đỉnh cao chói lọi này nó đã lộ ra mầm móng băng hoại. Để cai quản một lãnh thổ khổng lồ như thế, đế chế bị bộ máy quản trị và hậu cần hành cho tã tơi. Thậm chí với một hệ thống giao thông hoàn hảo, người La Mã đã bất lực không thể truyền thông nhanh chóng hoặc đủ hiệu quả trong việc quản lý lãnh địa của mình. La Mã khốn khổ tập hợp đủ quân số cùng các nguồn lực để bảo vệ các vùng biên viễn trước các cuộc nổi loạn tại địa phương hoặc các cuộc xâm nhập từ bên ngoài, và vào thế kỷ thứ 2, để bảo vệ các cuộc tấn công của kẻ tử thù từ bên ngoài, hoàng đế Hadrian buộc phải xây dựng bức tường thành lưu danh hậu thế tại Anh quốc. Để duy trì một đội quân hùng hậu bắt buộc phải hao tổn nhiều tiền của, do đó trình độ phát triển công nghệ và cơ sở hạ tầng dân sự La Mã dần dà xuống cấp một cách thảm hại.
- Chính quyền tham nhũng và bất ổn chính trị
Nếu như quy mô lãnh thổ quá rộng lớn khiến La Mã quản lý vất vả, năng lực lãnh đạo kém hiệu quả và thiếu nhất quán đã đẩy vấn đề trầm trọng thêm. Ngôi vàng hoàng đế La Mã luôn lành ít dữ nhiều, tuy nhiên trong suốt thế kỷ thứ 2 và thứ 3 đầy biến loạn, tước hiệu hoàng đế không khác nào án tử. Cuộc nội chiến đã đẩy đế chế chìm vào hỗn hoạn, và hơn 20 hoàng đế ngồi trên ngai vàng trong thời gian vỏn vẹn 75 năm, thông thường kẻ ám sát hoàng đế hôm nay sẽ xưng vương vào ngày mai. The Praetorian Guard – Đội Cận vệ Hoàng đế La Mã – ám sát rồi dựng tân vương theo ý họ, thậm chí rao bán ngai vàng cho người ngã giá cao nhất. Bạo động chính trị cũng lan sang cả Viện Nguyên lão La Mã, sở dĩ các vị này lấy mũ che tai các hành động thái quá của các hoàng đế vì họ cũng là những kẻ bất tài và tham nhũng hạng nặng. Khi tình hình càng tồi tệ dần, niềm kiêu hãnh công dân lụi tàn dần và nhiều thần dân La Mã dần bất tín nhiệm lãnh tụ họ.
- Rợ Hung vùng dậy và sự di dân của các bộ tộc Man Di
Các vụ tấn công của người Man Di một phần bắt nguồn từ một cuộc di dân quy mô lớn bởi cuộc xâm lăng của rợ Hung vào lãnh thổ Châu Âu trong cuối thế kỷ thứ 4. Khi vó ngựa của các chiến binh Âu Á này giày xéo vùng Bắc Âu, họ đã đẩy lùi nhiều bộ tộc Đức ra khỏi biên giới Đế chế La Mã. Người La Mã ngần ngại cho phép các thành viên bộ tộc Visigoth vượt hướng nam sông Danube và tiến vào lãnh thổ La Mã an toàn, nhưng họ đối đãi với các người này vô cùng tàn bạo. Theo sử gia Ammianus Marcellinus, các viên quan La Mã thậm chí đã bỏ đói người Goths chết dần chết mòn, nếu như họ chịu sung con họ vào đội quân nô lệ họ sẽ được cứu đói bằng thức ăn của chó. Bằng cách đối xử tàn tệ người Goths, người La Mã đã tạo nên kẻ thù nguy hiểm bên trong lãnh thổ họ. Khi sự trấn áp ngày càng hà khắc, họ vùng nổi dậy và rốt cuộc đánh tan tát một đội quân La Mã và giết chết hoàng đế Đông Đế chế Valens trong trận chiến Adrianople diễn ra vào năm 378 sau công nguyên. Buộc phải thương lượng qua cuộc hòa đàm mong manh với tộc Man Di đã khiến người La Mã bị sốc nặng, tuy nhiên năm 410, cuộc đình chiến bị xổ tung khi vua của người Goths là Alaric xua quân về hướng Tây và cướp phá thành Rome. Đông Đế chế yếu dần yếu mòn, các tộc người Đức chẳng hạn như Vandals và Saxons dễ dàng tràn sang biên giới và chiếm đóng các nước Anh, Tây Ban Nha và Bắc Phi.
7.Ki tô giáo và giá trị truyền thống bị đánh mất
Song hành với sự suy tàn của La Mã là sự bành trướng Ki tô giáo, và một số người lập luận rằng sự trỗi dậy của đức tin mới chính là tác nhân góp phần sự đổ đế chế. Sắc chỉ Milan năm 313 đã hợp pháp hóa Ki tô giáo và gần 70 năm sau (năm 380) đế chế này trở thành quốc giáo. Các sắc lệnh đó không chỉ đặt dấu chấm hết hàng thế kỷ bức bại mà còn làm cùn mòn các giá trị truyền thống của hệ thống La Mã. Ki tô giáo đã thế chỗ một đa thần giáo La Mã, vốn xem hoàng đế là vị thần tối cao nhà nước vinh quang đã đoạn tuyệt và biến thành một Chúa trời độc nhất. Nghĩa là, các giáo hoàng và giới giáo sĩ cấp cao khác ngày càng lấn sân vào địa hạt chính trị khiến việc điều hành đất nước thêm rối rắm. Edward Gibbon, sử gia sống vào thứ kỷ 18 là người cổ xúy nhiệt thành nhất lý thuyết này, nhưng chủ trương đó khiến ông bị hứng nhiều búa rìu dư luận. Trong khi sự truyền bá của Ki tô giáo có thể đóng một vai trò nhỏ cho sự băng hoại đạo đức công dân La Mã, hầu hết các học giả ngày nay đã đưa ra biện giản rằng đó chỉ là sự ảnh hưởng nhạt nhòa so với các yếu tố quân sự, kinh tế và quản trị đất nước.
8.Sự suy yếu của các binh đoàn La Mã
Suốt chiều dài lịch sử của mình, quân đội La Mã bị tị hiềm nhiều nhất trong thế giới cổ đại. Tuy nhiên trong suốt giai đoạn suy vi, diện mạo của đội quân lừng lẫy một thời bắt đầu biến cải. Nguồn công dân La Mã không tuyển mộ đủ, để bổ sung quân số, các hoàng đế như Diocletian và Constantine bắt đầu mướn những tay lính đánh thuê nước ngoài. Dần dà trong quân ngũ tràn ngập người Goths Đức cùng các tộc Man Di khác, nhiều đến nỗi người La Mã bắt đầu dùng từ “barbarous” tiếng Latin để chỉ từ “người lính”. Trong khi các lính tráng người Đức ăn nên làm ra nhờ thiện chiến, họ rất ít hoặc chẳng trung thành với hoàng đế và nhóm sĩ quan cuồng quyền lực này thường quay lại cắn chủ La Mã đã thuê họ. Trên thực tế, phần đông người Man Di đã cướp phá thành Rome và đạp đổ Tây La Mã chính là những người đã kiếm chác khấm khá trong quân đội trong khi phục vụ trong các binh đoàn La Mã.