Nguyễn Văn Nghệ
Trong sách Đại cương Lịch sử Việt Nam tập I do Giáo sư Trương Hữu Quýnh chủ biên cùng cộng tác có Giáo sư Phan Đại Doãn và Phó Giáo sư Nguyễn Cảnh Minh, chương XIV do Giáo sư Trương Hữu Quýnh biên soạn ghi: “Cao Bá Quát vốn là một nhà nho giỏi, nổi tiếng, vì phạm húy khi làm bài thi mà chỉ đỗ tú tài”[1]
Bài viết “Cáo Bá Quát- Con người tài năng và phẩm hạnh” của tác giả Thu Nhuần (tổng hợp): “Cao Bá Quát nổi tiếng là có cá tính mạnh mẽ, cương trực, không luồn cúi, sống vượt ra ngoài khuôn phép của lễ giáo phong kiến (…) Chính vì sự vượt ra ngoài khuôn phép đó mà mãi đến năm 22 tuổi (1831) ông mới đậu đầu ở kỳ thi hương, sau đó ông vào Huế thi tiếp nhưng không đậu”.[2] Tác giả Thu Nhuần thì khẳng định là Cao Bá Quát đỗ Giải nguyên (đỗ đầu) kỳ thi Hương năm 1831.
Không biết Giáo sư Trương Hữu Quýnh dựa vào tài liệu nào mà khẳng định như vậy? Nếu đã “phạm húy” thì dẫu văn hay cũng bị đánh rớt. Ví dụ trường hợp Đặng Huy Trứ đỗ cử nhân vị thứ 3 khoa Quý Mão (1843) ở trường thi Hương Thừa Thiên, năm sau là năm Giáp Thìn (1844) ông dự khoa thi Hội dự hàng trúng cách và được vào thi Đình để xếp vị thứ mà thôi, nhưng dùng chữ thiếu nghiêm cẩn: “…Gia miêu chi hại” (cỏ năn làm hại cây lúa), lỡ phạm vào tên làng Gia Miêu
(Thanh Hóa) là quê hương của nhà Nguyễn. Bởi thế Đặng Huy Trứ không những bị đánh hỏng mà còn bị tước cả học vị cử nhân. Khoa Đinh Mùi (1847) ông lại lều chõng dự thi Hương, lần này ông đỗ Giải nguyên (đỗ đầu) trường thi Hương Thừa Thiên.[3]
Đại Nam thực lục ghi: Tháng 9 năm Tân Mão (1831) mở khoa thi Hương ở Thanh Hoa, Bắc Thành (Thăng Long) và Nam Định. Trường Bắc Thành lấy đỗ 20 cử nhân: Đào Huy Phác, Cao Bá Quát, Phan Cơ, Nguyễn Huy Tôn, Nguyễn Thế Hanh, Đặng Kham, Lê Danh Nguyên, Hoàng Văn Thiện, Nguyễn Văn Đạt, Ngô Quang Tuấn, Phan Huy Chân, Ngô Đặng Quang, Lê Đình Công, Cao Xuân Nguyên, Phạm Gia Chuyên, Nguyễn Văn Đôn, Nguyễn Mậu Trạch, Nguyễn Danh Côn, Kiều Năng Thân, Nguyễn Tiên Trạch.[4]
Theo danh sách Đại Nam thực lục, Cao Bá Quát xếp vị thứ 2/20, nhưng trong Quốc triều hương khoa lục xếp Cao Bá Quát vị thứ 20/20 với ghi chú: “Nguyên đậu thứ hai, bị bộ duyệt truất xuống”[5]
Sau khi đỗ cử nhân, Cao Bá Quát nhiều lần vào kinh đô Huế dự thi Hội nhưng không đỗ.
Cao Bá Quát dùng muội đèn chữa bài thi.
Khoa thi Hương Tân Sửu (1841) Cao Bá Quát được cử làm sơ khảo trường thi Hương Thừa Thiên. Khoa này trường Thừa Thiên lấy đỗ 40 cử nhân: Thân Văn Nhiếp, Phạm Thanh Chân, Phùng Văn Hổ, Đinh văn Kiên,, Nguyễn Ngôn, Văn Thế Hiến, Nguyễn Duy Cần, Trương Đăng Trinh, Nguyễn Hàm Nghi, Hồ Danh Dương, Trần Hữu Thụy, Nguyễn Tường Phổ, Phạm Quang Cư, Lê Văn Chấn, Lê Trọng Vận, Nguyễn Duy, Nguyễn Doãn Văn, Trương Minh Đức, Đỗ Đăng Đệ, Phan Văn Trị, Dương Phúc Vịnh, Đặng Văn Thái, Nguyễn Thành Châu, Trần Văn Lập, Nguyễn Hữu Văn, Lê Thiều, Lê Hữu Thường, Ngô Doãn Thái, Nguyễn Hữu Tường, Thái Công Quang, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Thiên Tuấn, Đặng Văn Tá, Lê Độ Lượng, Hoàng Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Tĩnh, Trần Văn Kế, Võ Doãn Thanh, Đào Văn Tú.[6]
“Đến khi ra bảng, dư luận sĩ phu sôi nổi”. Lý do nào khiến “dư luận sĩ phu sôi nổi”? Do “Có hai viên sơ khảo là Cao Bá Quát và Phan Nhạ ngầm lấy muội đèn làm mực chữa văn bài thi của học trò gồm 24 quyển, đỗ được 5 tên”. Việc này giao cho bộ Lễ và viện Đô sát tra xét nghị tội và “Bọn Bá Quát thú nhận là sính bút làm càn, chứ không có ai dặn dò gửi gắm gì cả. Án xử Quát, Nhạ đều phải tội xử tử”.[7]
Theo như bản Phụng dụ Nội các ngày 21 tháng 12 năm Thiệu Trị 1 (1841): “Cao Bá Quát và Phan Thời Nhạ đã thú nhận cả hai cùng bàn bạc lấy nhọ nồi (khói đèn) để thêm chữ, sửa chữa ở quyển thi của các thí sinh gồm 24 quyển. Trong đó Cao Bá Quát thêm chữ, sửa chữ 12 quyển, số dự trúng là 5 quyển; Phan Thời Nhạ thêm chữ, sửa chữ 12 quyển, số dự trúng 4 quyển”.[8]
Bản Phụng dụ của Nội các tâu ngày 7/9 năm Thiệu Trị 1 (1841): “Lại nghe sơ khảo Phan Thời Nhạ nói rằng Cao Bá Quát phân duyệt các quyển thi, có viết thêm 9 chữ vào chỗ bỏ sót, nhận dạng đó là chữ của Cao Bá Quát. Quyển thi đó trường ngoài đã xếp vào hạng cử nhân”.[9]
Bản Phụng dụ của Nội các tâu ngày 16/9 năm Thiệu Trị 1 (1841): “Căn cứ viên sơ khảo Phan Thời Nhạ nói rằng Cao Bá Quát người cùng Viện khi duyệt quyển thi có viết thêm các chữ vào bài thi, nhận thấy giống nét chữ của Cao Bá Quát”.[10]
Bản Phụng dụ của Nội các ngày 16/9 năm Thiệu Trị 1 (1841) cho biết : “Phan Thời Nhạ khai Cao Bá Quát viết thêm chữ vào văn quyển thi hạng cử nhân là Nguyễn Văn Chương, hạng tú tài là Nguyễn Hưng Lễ, Nguyễn Đức Tân, Nguyễn Tam Tích, Nguyễn Công Xuyên tổng cộng 5 người thì trên văn quyển cũng có thêm chữ”.[11]
Những quyển dự trúng không chỉ riêng hạng cử nhân mà còn có cả hạng tú tài: “còn các tên lấy trúng cử nhân, tú tài là bọn Nguyễn Đức Tân gồm 9 tên truyền giao cho bọn Thự Tả Tham tri bộ Hình Ngô Văn Địch ra đủ đề thi của 3 trường, công minh phúc thí và xét tùy văn chương, phân hạng tâu lên đầy đủ rồi chờ chỉ”.[12]
Năm người được Cao Bá Quát và Phan Nhạ viết thêm chữ vào và đậu cử nhân là: Nguyễn Duy Cần, Lê Thiều, Nguyễn Lập, Hoàng Minh và Nguyễn Khánh và “cho gọi cả 5 tên ấy đến họp ở viện Tả đãi lậu, ra đủ đầu bài cả 3 kỳ để thi lại. Khi quyển thi của 5 người ấy được dâng lên, văn đều khá, đáng lấy đỗ được cả, lại thưởng trả lại cho vào hạng cử nhân”.[13]
Thự Đông các Đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn tâu vua: “Phép trường rất nghiêm, mà bọn Quát lại dám tự tiện làm việc tư túi, ngầm chữa quyển văn, nguyên là bản tâm chỉ cốt lấy đỗ có mấy tên, nhân thể mà làm tràn cả sang các quyển khác, làm cho lờ mờ lẫn lộn để che giấu cái gian của mình. Lập tâm như thế, phải nên xét cho rõ ràng. Các tên ấy, xin đều cách bỏ cử nhân đi, để cho nghiêm quy luật của trường thi”.[14]
Vua phán rằng: “Đại học sĩ nói phải lắm. Song ân điển buổi ban đầu, đã cho tăng thêm số lấy đỗ, không nỡ khắc nghiệt quá. Gia ơn cho bọn học trò, là ý của ta, đặc cách khoan rộng cho họ”.[15]
Cao Bá Quát và Phan Nhạ được bộ Lễ và viện Đô sát tra xét nghị tội và phải tội xử tử. Vua Thiệu Trị phán: “Chọn người tài giỏi là một điển lễ long trọng, bọn Quát lại dám làm trái phép như thế, khép vào tội nặng cũng đáng. Song ta nghĩ: bọn Quát chữa văn đến 24 quyển, tự mình hoặc phê lấy đỗ, hoặc phê bỏ đi, cũng có chỗ câu văn chữa vào lại không bằng câu văn của người làm trước, hoặc giả là do sự khờ dại mà làm ra, chứ không có tình tiết gì khác, còn có thể khoan tha cho tội xử tử. Vậy đều cho đổi làm giảo giam hậu”.[16]
Riêng với thí sinhTrương Đăng Trinh- cháu ruột của đại thần Trương Đăng Quế, tác giả Hồng Nhung viết: “có quyển văn thứ 2 bị nội trường đánh hỏng, phần khảo là Nguyễn Văn Siêu đánh giá bài thi tốt đã nói với quan Ngoại trường là Cao Bá Quát liệt vào hạng lấy đỗ. Cao Bá Quát đồng ý”.[17]
Không biết tác giả Hồng Nhung tìm được chi tiết “Cao Bá Quát đồng ý” ở đâu? Đại Nam thực lục ghi: “Lại Trương Đăng Trinh là cháu gọi Trương Đăng Quế bằng chú, bác, quyển văn kỳ thứ hai bị Nội trường đánh hỏng, phần khảo là Nguyễn Văn Siêu cho là văn lý có thể lấy được, nói với quan Ngoại trường liệt vào hạng lấy đỗ”.[18]
Bản Phụng dụ của Nội các tâu ngày 16/9 năm Thiệu Trị 1 (1841) ghi: “Quyển văn của Trương Đăng Trinh tuy có sự quan ngại nhưng văn khá thông, cũng để vào hạng lấy đỗ. Duy có cử nhân thứ 20 là Phan Văn Trị vì bài phú trùng vần, bị đánh hỏng”.[19] Như vậy việc Trương Đăng Trinh được lấy đỗ không có liên hệ gì đến Cao Bá Quát.
Theo Đại Nam thực lục thì cử nhân thứ 20 là Phan Văn Trị vì bài phú trùng vần bị đánh hỏng, nhưng trong Quốc triều hương khoa lục, Phan Văn Trị được xếp vị thứ 40/40.[20]
Cao Bá Quát tử trận hay là bị bắt rồi xử tử?
Một số người đọc tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân đều đinh ninh hình tượng nhân vật Huấn Cao chính là hình tượng của Cao Bá Quát, bởi họ ảnh hưởng Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim khi đề cập đến Cao Bá Quát: “Tháng chạp năm ấy quan phó Lãnh binh tỉnh Sơn Tây là Lê Thuận đi đánh bắt được cao Bá Quát đem về chém tại làng”.[21]Hoặc những câu đối cho là của Cao Bá Quát sáng tác khi bị tù và trước khi ra pháp trường: “Một chiếc cùm lim chân có Đế/ Ba vòng xích sắt bước thì Vương”; “Ba hồi trống giục đù cha kiếp/ Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời”. Theo suy nghĩ của nhiều người, Cao Bá Quát bị bắt sống thì trước khi xử chém phải bị gông cùm, tù đày.
Gần đây có tài liệu cho rằng Cao Bá Quát “bị bắt và bị tử hình cùng các con là Cao Bá Phùng và Cao Bá Phong lúc đấy ông 45 tuổi”[22]
Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép như thế nào về cái chết của Cao Bá Quát?
Tháng 8, Giáp Dần, Tự Đức năm thứ 7 (1854): “Cao Bá Quát ở Bắc Ninh, họp ngầm bọn lũ, mưu khởi nghịch (hẹn ngày tới thành Hà Nội khởi loạn) bị người tố giác”.[23] (336). Đến tháng chạp cũng năm Giáp Dần (1855): “Phó Lãnh binh Sơn Tây là Lê Thuận cả phá được bọn giặc ở huyện Yên Sơn, Cao Bá Quát thua bị chết (…) Vua hạ lệnh đem thủ cấp của nghịch Quát, do trạm đem đi giao cho các tỉnh Bắc Kỳ đem bêu cho mọi người biết rồi băm nhỏ quăng xuống sông. Suất đội là Đinh Thế Quang có công bắn giết được Quát, thưởng thăng Cai đội”.[24]
Như vậy Cao Bá Quát bị tử trận chứ không phải bị bắt rồi xử tử như một số tài liệu đã ghi chép! Tuy là nghịch thần của triều Nguyễn nhưng Cao Bá Quát cũng được chép riêng thành một truyện trong Đại Nam liệt truyện.[25]
Gần đây theo Cao Bá Hưng, hậu duệ của Cao Bá Quát cho biết: “Ông Cao Bá Nghiệp, con trai cố nhà văn Thao Thao (Cao Bá Thao) đã từng bỏ ra nhiều công sức tìm hiểu sự thực về cái chết của Cao Bá Quát cho biết, sau khi cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương 1855 (mà Cao Bá Quát là một trong những người lãnh đạo) thất bại. Cao Bá Quát không chết ở trận tiền”.[26]Cao Bá Hưng cho rằng ông là trực hệ của Cao Bá Quát nhưng không có tài liệu nào minh chứng cả!
Nhận xét về Cao Bá Quát của người đương thời và người đời sau
Đại Nam thực lục ghi: “Quát người huyện Gia Lâm, nhà ngụ ở trong thành Đại La, Hà Nội, đỗ Cử nhân, đã bổ làm Giáo thụ Quốc Oai. Quát là người kiêu ngạo, tự phụ có tài, danh, mà phải khuất làm chức vị thấp, mới mưu làm loạn”.[27]
Đại Nam liệt truyện ghi: “…cùng với anh là Bá Đạt đẻ sinh đôi nên đặt tên như thế; nhỏ kháu khỉnh thông minh đều có văn tài (…) Minh Mạng năm thứ 12 (1831) về khoa Tân Mão thi Hương đỗ Á nguyên, khi bộ duyệt đánh vào hạng chưa được Á nguyên mà thi tiến sĩ thường bị hỏng. Bá Quát tức giận ngày thêm dùi mài, văn càng tiến mạnh, cùng với phó bảng huyện Thọ Xương là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đều nổi tiếng. Bấy giờ nhiều người hâm mộ có câu: “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán”, nghĩa là: Văn của Siêu Quát vượt cả danh nho đời tiền Hán”.[28]
Quốc triều hương khoa lục nhận xét: “Nguyên đậu thứ hai, bị bộ duyệt truất xuống. Rất có tiếng về văn học. Làm quan tới chức Giáo thụ Quốc Oai, bị bệnh về nghỉ. Năm Giáp Dần (1854) nổi loạn, bị quan quân bắn chết”[29]
Trần Trọng Kim nhận xét: “Cao Bá Quát có tiếng là người văn học giỏi ở Bắc Kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, bỏ quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc sư để dấy loạn ở vùng Sơn Tây và Hà Nội”.[30]
Trong dân gian có giai thoại là Cao Bá Quát từng tuyên bố: Thiên hạ có bốn bồ chữ. Riêng mình ta giữ hai bồ chữ, còn một bồ chữ thì dành cho anh ta là Bá Đạt và bạn ta là Nguyễn Văn Siêu, bồ chữ còn lại phân phát cho thiên hạ.[31]
Giai thoại ấy chỉ đúng phần nào về văn tài của Cao Bá Quát vào thời điểm ấy, còn về kiến thức xã hội hoặc khoa học thì có nhiều vấn đề Cao Bá Quát chưa hề biết đến. Tháng 6 năm Ất Mùi (1835- năm này nhuận 2 tháng 6) nhân dịp thi Đình vua Minh Mạng ngự ra nhà Duyệt thị nói: “Ra đầu bài dễ, làm bài văn khó. Vì quan trường ra bài thì có sách để tra cứu, mà học trò làm văn chỉ nhờ ký ức mà thôi. Trước đây, có câu hỏi “Phó Nê Trường Lệ là vật gì” người bị hỏi không biết là vật gì cả (Trước đây, đầu bài sát hạch cử nhân Cao Bá Quát có hỏi: “Phó Nê Trường Lệ hà vật”. Cao Bá Quát không trả lời được. Phó Nê, Trường Lệ là tên ngôi sao, xuất xứ ở sách Sự vật dị danh). Vì sách vở ở nước ta có ít, tuy người có tài học rộng, cũng không lấy đâu mà đọc được. Từ nay về sau, hễ có phái người đi sang nhà Thanh, nên mua nhiều sách ban bố cho các người đi học, để họ mắt thấy tai nghe rộng ra mới được”.[32]
Kết luận
Theo Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép: Cao Bá Quát là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm. Ông đỗ cử nhân khoa thi 1831. Khoa thi Hương 1841 ông được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên và do thêm chữ, sửa quyển thi của vài thí sinh nên ông bị kết án xử tử nhưng sau đó giảm xuống thành án giảo giam hậu. Tháng chạp năm Quý Mão (1844) theo phái đoàn Đào Trí Phú đi “dương trình hiệu lực” ở Giang Lưu Ba ( Indonesia- Đại Nam thực lục tập 6, Nxb Giáo dục, tr.552). Sau làm Giáo thụ Quốc Oai, rồi xin nghỉ bệnh. Năm Giáp Dần (1854) tham gia khởi nghĩa chống lại triều đình. Tháng chạp năm Giáp Dần (1855) trong khi giao chiến với quân triều đình Cao Bá Quát bị Suất đội Đinh Thế Quang bắn chết.
Chú thích:
[1]- Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1, Nxb Giáo dục, t.460
[2]- baitaplichsu.vn/vi/Articles/3098/14632/cao-ba-quat-con-nguoi-tai-nang-va-pham-hanh.html
[3]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 6, Nxb Giáo dục, t.995; 1010
– Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, Nxb TP.HCM, t.233; 261
– Tuyển tập Cao Xuân Dục tập 2, Quốc triều khoa bảng lục, Nxb Văn học, t.108
[4]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 3, Nxb Giáo dục, t.211
– Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, Nxb TP.HCM, t.169-171
[5]- Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, Nxb TP.HCM, t.170-171
[6][7]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 6, Nxb Giáo dục, t. 216. Danh sách tên các cử nhân trường Thừa Thiên khoa 1841 giữa Đại Nam thực lục và Quốc triều hương khoa lục vẫn là 40 cử nhân nhưng lại có đôi chỗ không giống nhau.
[8][9][10][11][12]- archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/vu-an-‘chua-bai-thi”-nghiem-trong-duoi-trieu-nguyen.htm
[13][14][15][16]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 6, Nxb Giáo dục, t. 216-217
[17]- Bài viết “Vụ án Cao Bá Quát suýt bị tử hình vì chữa hàng loạt bài thi” của tác giả Hồng Nhung (Vnexpress)
danviet.vn/vu-an-cao-ba-quat-suyt-bi-tu-hinh-vi-chua-hang-loat-bai-thi-7777860031.htm
[18]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 6, Nxb Giáo dục, t. 216
[19][20]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 6, Nxb Giáo dục, t.217
– archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/vu-an-“chua-bai-thi”-nghiem-trong-duoi-trieu-nguyen.htm
– Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, Nxb TPHCM, t. 211
[21]- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa Thông tin, 1999, t. 530
[22]- timdapan.com/tai-lieu/tieu-su-cuoc-doi-va-su-nghiep-sang-tac-cua-danh-nhan-cao-ba-quat
– Đại Nam thực lục tập 6, Nxb Giáo dục, trang 613 ghi vào tháng 5 năm Kỷ Mùi (1859) vua Tự Đức treo giải thưởng ở các tỉnh, ai mà “bắt sống được Cao Bá Phùng, Cao Bá Nhạ thưởng 30 lạng, chém được 20 lạng”. Cao Bá Phùng là con của Cao Bá Quát; Cao Bá Nhạ là con của Cao Bá Đạt. Sau khoản 8 năm lẩn tránh Cao Bá Nhạ bị bắt nhốt và theo lời truyền tụng là ông bị đày lên mạn ngược và chết ở trên đó.
[23][24]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 7, Nxb Giáo dục, t.336; 349
[25]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện tập 3-4, Nxb Thuận Hóa, t.757-758
[26]- tuoitre.vn/cao-ba-hung-toi-dung-la-hau-due-cua-nha-tho-cao-ba-quat-1238707.htm
[27]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 7, Nxb Giáo dục, t.336
[28]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện tập 3-4, Nxb Thuận Hóa, t. 757
[29]- Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, Nxb Giáo dục, t. 170-171
[30]- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa Thông tin, 1999, t.530
[31]- Cao Bá Đạt cùng Cao Bá Quát là cặp song sinh, Bá Đạt là anh. Thân phụ của hai ông vốn là nhà nho, nên đặt tên con theo sách Luận ngữ, câu 11, chương Vi tử đệ thập bát: “Chu hữu bát sĩ: Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quý Tùy, Quý Oa” (Nhà Chu có 8 vị sĩ hiền tài: Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quý Tùy, Quý Oa). Thời nhà Chu, có bà mẹ sinh đôi 4 lần: lần đầu sinh Bá Đạt, Bá Quát; lần kế sinh Trọng Đột, Trọng Hốt; lần 3 sinh Thúc Dạ, Thúc Hạ, lần thứ 4 sinh Quý Tùy, Quý Oa. Cao Bá Quát đỗ cử nhân khoa 1831, Cao Bá Đạt đỗ cử nhân khoa 1834 với vị thứ 5/23. Quốc triều hương khoa lục trang 183 chú thích về Cao Bá Đạt: “Anh tên giặc Cao Bá Quát. Có tiếng hay chữ. Làm quan tới chức Tri huyện Nông Cống, giỏi về chính sự. Do bị làm án mà chết, dân trong huyện lập đền thờ”. Câu “Do bị làm án” được chú thích: “Nguyên văn là ‘diên tọa tử’. Khi Cao Bá Quát khởi nghĩa, Cao Bá Đạt bị bắt giữ về kinh để tra xét, dọc đường ông tự tử”
Nguyễn Văn Siêu đỗ cử nhân khoa Ất Dậu (1825), đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất (1838). Làm quan tới chức Án sát Hưng Yên, bị giáng làm Thị độc (Quốc triều hương khoa lục, trang 114)
[32]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 4, Nxb Giáo dục, t.674-675