Sự khủng hoảng của Hồi giáo

b-315595-Mekke_Kabe

“The  Crisis  of Islam”của Bernard Lewis 

Võ Văn Lượng dịch

Dẫn nhập   

      Tổng thống Bush và các chính khách phương Tây đã khá  chật vật  để chỉ ra  rằng  cuộc chiến mà nước Mỹ đang tham gia  là  cuôc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố –   chứ không phải là   chống người À  rập  , hoặc nói rộng hơn là  chống  lại người   Hồi giáo  , là  những người  được khuyến  khích  cùng  chung sức  với  chúng ta   trong  cuộc chiến chống   kẻ thù   chung .  Nhưng thông điệp của Usama bin Ladin  thì  khác hẳn . Đối với bin Ladin   và những người theo ông ta  đây là  1  cuộc  chiến  tôn giáo ,  1 cuộc chiến  của người   Hồi giáo chống lại những  kẻ vô đạo , và  vì thế đương nhiên là chống  lại nước Mỹ , cuờng quốc lớn nhất  trong thế giới  của những  kẻ vô đạo .

      Trong   các  tuyên bố của mình , bin Ladin  luôn  luôn  dẫn chứng lịch sử . Một trong những  dẫn chứng  gây  ấn tượng nhất   được nêu trong  cuốn  băng video  ngày 7/10/2001 , về”sự ô nhục  và  tủi  hổ”mà đạo Hồi   đã  phải gánh chịu  trên 80 năm  qua”. Đối với   bối cảnh  Trung đông  , đa số   các nhà  quan sát người Mỹ –  và đương nhiên , có người Âu – bối rối  bắt đầu tìm hiểu  cái gì  đã  xảy ra”trong  hơn 80  năm trước”  và  cuối cùng đưa ra  nhiều câu trả lời  khác nhau . Chúng ta có thể tin phần nào  là  những đối tượng  của bin Ladin hiểu rõ   ngay  ý nghĩa   những lời  nói  bóng gió  này  . 

arabie

Vào năm  1918 , đế quốc  Ottoman , là  đế quốc cuối cùng của   các đế quốc  Hồi giáo hùng mạnh   bị đánh bại –  thủ đô Constantinople bị chiếm đóng ,  quốc vương  bị   bắt giữ và  phần  lớn  lãnh thổ bị các đế quốc thắng trận (Anh  và Pháp )  xâu  xé .  Các tỉnh  nói tiếng  A-rập thuộc  đế quốc Ottoman trước kia  ở vùng Lưỡi liềm  phì  nhiêu   bị   phân chia ra thành các thực thể mới ,  với  tên gọi  và biên giới mới . 2 trong   số những tỉnh này , Iraq và Palestine,  được đặt   dưới  quyền  ủy trị   của Anh ,  còn   tỉnh thứ 3 , Syria , thì giao cho Pháp . Sau  này , nước Pháp lại chia nhỏ Syria  ra làm  2  phần , một phần  gọi là Liban , còn phần  kia  vẫn giữ tên Syria . Ngưòi  Anh cũng chia Palestine ra làm  2  vùng   nằm vắt 2  bên bờ sông  Jordan  ; bờ tây  thì  vẫn giữ lại  tên Palestine , còn   phần bên  kia mang  tên Cisjordan .

      Bán đảo Ả -rập, chủ yếu  toàn núí   và  các vùng  sa mạc  khô cằn  và  hiểm trở , lúc  đó   được coi như  chẳng   bỏ công  chiếm đóng , cho nên  được  phép  giữ lại nền độc lập bấp bênh   và  chẳng nhiều nhặn gì .  Người Thổ (Turkey,   cuối cùng  cũng  giải phóng  được  quê hương của họ   tại cao nguyên Anatolia ,  không  phải   bằng  ảnh hưởng Hồi giáo   mà  do  phong trào  quốc gia  thế tục   do  Mustafa Kemal , một   tướng lãnh  Ottoman  được biết nhiều hơn  dướí tên Kemal Ataturk .  Ngay   cả khi  viên tướng   này chiến đấu  thành công để giải phóng  Thổ nhỉ kỳ khỏi  sự thống trị của phương Tây , ông ta cũng bước đầu  chấp nhận các  đường  lối  Tây phương , hoặc  theo  đường lối cách tân của ông ta   . Một trong những  đạo luật đầu tiên ông  ban hành   vào  tháng  11/1922  ,  là  bãi  bỏ nhà  nước  sultan . 

      Quốc vương  Ottaman   không những chỉ là  1 sultan ,  người cai trị   của  1  đất nưóc   cụ thể ,  mà còn được  rộng rãi  thừa nhận  là  Caliph  ,  tức là  người  đứng  đầu  của  tất cả người Hồi giáo Sunni ,    và là người cuối cùng  của 1   dòng dõi quân vương   được  hình thành sau  khi  Tiên tri Muhammad  chết  vào năm 632 CN , và   việc bổ nhiệm   người kế vị Ngài , không những chỉ là người đứng đầu về tinh thần  mà còn là người đứng đầu  về tôn giáo và  chính trị   của 1  nhà nước và  của cộng đồng Hồi giáo .  Sau 1 thời gian  ngắn   thực hiện việc chế độ   Caliph  tách biệt  với nhà nước,  cuối cùng vào tháng 3/1924  người Thổ     bãi bỏ hẳn chế độ Caliph   . 

      Trong suốt 13 thế kỳ , chế độ Caliph  đã trải qua  nhiều thăng trầm , nhưng nó  vẫn còn  là 1  biểu tượng mạnh mẽ   cho  sự thống nhất  , thậm chí  là 1 bản sắc  Hồi giáo ; tòan thể thế giới  Hồi giáo   cảm nhận sự   biến mất của nó  dưới  2 mặt  tấn công của đế quốc ngọai  bang   cùng với những  kẻ cách tân   trong nước  . Nhiều  quốc vương  và   lãnh đạo   Hồi giáo  có đưa ra một  số cố gắng cầm chừng  để dành  cái   tước hiệu  bỏ trống đó  , nhưng  chẳng đựơc  ủng  hộ bao nhiêu .  Nhiều người Hồi giáo   vẫn còn  trăn trở về sự thiếu vắng này , và  có người cho rằng  chính  Usama bin Ladin  –  đã – hoặc  đang – có  ước vọng  muốn   dành chức Caliph.

      Danh từ Caliph đi  từ tiếng Ả -rập  khalifa ,   có ý nghĩa vừa là”người thừa  kế” và “người  phụ tá”.  Lúc đầu , người  đứng đầu   cộng đồng Hồi giáo là “khalifa  của  đấng tiên tri  của Thượng đế”. Một  số người  có   nhiều tham vọng  hơn , đã rút ngắn tên gọi   thành”Khalifa của  Thượng đế”. Luận điệu đòi uy quyền tinh thần   này đã  bị chỉ  trích nhiều   và  dần  dần bị bỏ đi ,  và   các nhà lãnh đạo Hồi giáo lại sử dụng rộng rãi  một danh  xưng tuy  vẫn như cũ  nhưng ý nghĩa có phần  nhẹ hơn là”Cái bóng của  Thượng đế trên mặt  đất”. Trong  phần  lớn  lịch sử của định chế này ,  những người nắm  quyền Caliph    thỏa  mãn với   1  danh  xưng   khiêm  tốn hơn ,   Almir al-Mu’mmin , thương được   dịch là  Đấng  Thống lãnh   của  các tín đồ”  

      Những  ẩn dụ lịch sử do  bin Ladin nêu ra , có thể là  khó hiểu   đối với  nhiều người Mỹ , lại  khá  phổ biến   đối với người  Hồi giáo , và   chỉ có thể hiểu   đúng  trong khuôn khổ   các nhận thức  về bản sắc  ( identity ) của   vùng Trung  đông  , và đặt trong  khung  cảnh lịch sử của  vùng Trung đông .  Ngay cả cái   quan  niệm  về   lịch sử và  bản sắc  cũng cần  phải được định nghĩa lại  để cho người  phương tây   muốn    hiểu rõ   vùng  Trung đông  hiện tại . Theo kiểu  nói tiếng  Mỹ hiện  nay  , thì  câu” đó là lịch sử” được sử dụng rộng  rãi để gạt bỏ những cái gì  không quan trọng , không  liên quan  đến những  điều   quan tâm  hiện tại ,  và  nhưng   trong tình hình hiện  nay , mặc dù   việc dạy sử   và viết sử đã  được đầu tư khá nhiều , nhưng mức kiến thức  chung về lịch sử của  xã hội Mỹ phải nói là cực kỳ thấp .Trong  khi  đó , các dân tộc  Hồi giáo , cũng  giống  như mọi người khác trên thế giới ,  đều được  lịch sử nhào nặn , nhưng  không như những người khác  ,  họ lại  có  ý thức  sắc  sảo  về lịch sử .  Tuy  nhiên , ý thức   của họ bắt nguồn từ lúc đạo Hồi mới khởi  phát ,  có lẽ có chút ít liên quan đến  các  thời kỳ trước Hồi giáo , cần thiết để giải thích   những ẩn dụ lịch sử trong  kinh Qu’ran   và  trong các  truyền thuyết  và biên   niên Hồi giáo sơ kỳ .  Đối với người  Hồi giáo , thì lịch sử Hồi giáo  có ý nghĩa  quan trọng  về mặt tôn  gíao  và về luật pháp nữa , bởi vì  nó phản ánh ý đồ của   Thượng đế cho cọng  đồng của Người –  là những ai chấp nhận lời giáo huấn Hồi giáo   và tuân  thủ các luật lệ của đạo này . Lịch  sử của  các  nước và  các dân tộc  không  phải – Hồi giáo  không có  nội dung này   và vì thế   đối với người Hồi giáo , không  hề có chút giá trị   hoặc điều gì đáng  chú  ý  gì   cả . Ngay cả đến các  quốc gia  có những nền  văn minh  cổ đại   giống như  thế tại   vùng  Trung đông ,   sự hiểu biết  về lịch  sử của kẻ khác đạo ( pagan history ) –  về tổ tiên  của  họ những  người đã lưu truyền đền  đài và chữ viết   khắp nơi – cũng chỉ là phần  rất nhỏ .Các ngôn ngữ và chữ viết cổ đại   đều bị quên lãng ,  các  tài liệu cổ xưa  bị chôn vùi   cho tới  khi chúng được   các nhà  khảo  cổ và ngữ học phương tây có óc tìm tòi  phát hiện   và giải mã  gần đây  . Nhưng  từ khi Hồi giáo xuất hiện  ,  các dân  tộc  Hồi giáo  đã hình thành  1 nền văn chuơng lịch   sử phong phú và  dồi  dào –  thật vậy ,  tại nhiều  nơi , ngay cả   tại các quốc gia  có nền  văn minh cổ đại   như  Ấn độ ,  thì những   trang lịch sử nghiêm túc  chỉ   ra đời sau  khi  đạo Hồi du nhập .   

      Nhưng  lịch sử về cái gì ?.  Trong  thế giới  phương Tây , đơn vị cơ bản của  1  tổ chức  con người  là quốc gia ( nation ) ,    mà theo thông lệ ở Mỹ chứ không phải  theo châu Âu  , thì  hầu như  đồng nghĩa với 1 đất nước ( country ).  Quốc gia sau đó được chia nhỏ ra theo nhiều kiểu ,  trong đó có kiểu chia  nhỏ theo tôn giáo . Tuy nhiên , theo tín đồ Hồi giáo ,  lại cho rằng không phải  từ 1 quốc gia  chia nhỏ   ra  theo từng nhóm tôn giáo  mà   chính là 1 tôn giáo chia nhỏ ra thành nhiều  quốc gia . Điều này  hiển nhiên  một phần là  do   phần lớn các quốc gia-nhà nước (  nation-states) hình  thành tại   miền  trung đông hiện  nay là những nước   được thành lập tương đối mới ,   dư vị của thời đại thống trị   đế quốc  Anh -Mỹ tiếp sau  sự thất bại của  đế quốc  Ottoman  ,   và những quốc gia-nhà nước này vẫn duy trì  cái khung  nhà nước ( state-building )   và đường   biên giới do  những  ông chủ đế quốc cũ vạch ra .  Ngay cả tên gọi cũng  phản ánh tính giả tạo này : Iraq   là   1 tỉnh thời trung cổ với biên giới   khác rất nhiều so với  biên giới của nước   cộng hòa hiện nay ( bỏ đi   vùng Lưỡng hà  ở phía bắc   và  lấy thêm  1  mảnh   đất  nhỏ   của  miền tây Iran )  ; tên các nước  Syria , Palestine  và Lybia  có từ cổ đại nhưng lại  không đựơc   sử dụng   tại vùng này trong  1  ngàn năm  hay nhiều  hơn nữa trước khi được  đế quốc  châu  Âu  vào thế kỷ 20 phục hồi  và gán  cho những   đường  biên giới   mới   và    thường là khác hẳn , Algeria  và Tunisia  thậm chí chưa hề   có  trong ngôn  ngữ Arập – cùng 1 từ để chỉ 1  thành phố và 1  đất nước . Điều đáng  chú  ý nhất  là  trong ngôn ngữ Ả -rập  không có từ để chỉ Arabia  và   đất  nước  Saudia Arabia  được   gọi là “vương quốc Arập  Saudi “hoặc ” bán đảo của người  Arập”   tùy theo  tình huống  .  Thực ra  không  phải do   tiếng  Ả -rập  là 1  ngôn ngữ nghèo nàn –    mà  ngược lại mới đúng – nhưng  bởi vì người Arập    không  hề nghĩ  đến  việc kết hợp   giữa  bản sắc dân tộc và  lãnh thổ . Thật vậy ,  trích   lời  Caliph ‘Umar nói  với người Ả -rập  ”Hãy nghiên cứu   dòng  dõi của mình , và   đừng có giống như  mấy  kẻ nông phu  khi  được hỏi đến nguồn gốc  thì  lại trả lời  Tôi  là   người  từ nơi này   nơi  nọ“.   

      Vào  những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Hồi giáo ,  cộng đồng  Hồi  giáo  là  1 đất nước  dưới  quyền cai trị của 1  người . Ngay cả khi  cộng đồng này  tách  ra  làm nhiều  nước , thì lý   tưởng   1  thể chế nhà nước  duy nhất  vẫn tồn tại . Các nhà nước hầu như chỉ có tính  triều đại , với  biên giới có dịch chuyển ,  và nắm chắc một điều là   , trong việc ghi chép lịch  sử cực kỳ phong  phú   của thế giới  Hồi giáo  bằng tiếng Ả -rập , Ba tư ,  Thổ nhĩ  kỳ ,  lịch sử của các triều đại , các thành  phố   chủ yếu   chỉ là  lịch sử của  nhà nước và  cộng  đồng Hồi giáo   chứ không hề   là lịch sử của  nước Ba tư  hay Thổ nhĩ kỳ .  Những   tên gọi này ,  không  giống như  Syria  hoặc Palestine  hoặc Iraq , dành  cho   những  thực thể chính trị cũ hòan tòan    đã có độc lập chủ quyền  nhiều thế kỷ chứ không phải là   quốc gia  mới thành  lập .    Nhưng   mãi cho tới thời  hiện đại  , những tên gọi này  không   hề có   trong tiếng Arập , Ba tư hay  Thổ .

Cái tên Thổ nhĩ kỳ , để chỉ 1  quốc gia  có  người Thổ sinh sống   và nói 1  ngôn ngữ là  tiếng Thổ , dường như  phù hợp với  kiểu thức  châu Âu  bình thường khi gọi tên 1 đất nước  theo  tên  sắc  dân . Nhưng  cái tên này , thông dụng tại châu Âu   từ thời trung cổ , chỉ mới được chấp  nhận   tại Thổ nhĩ kỳ khi  tuyên   cáo thành lập  nước cọng hòa   vào năm 1923 .

 Ba tư ( Persia )   vốn  có gốc châu Âu , đầu tiên là do người Hi lạp  phỏng theo  từ Pars , sau   đó là Fars , là tên 1 tỉnh  thuộc  miền  tây Iran. Sau khi  bị người  Ả -rập  chinh phục , do  tiếng Ả -rập  không có  chữ p nên  mới trở thành Fars . Giống như tiếng  Castillian trở thành tiếng  Tây ban nha   và  tiếng  Tuscan trở thành tiếng Ý , cho nên  Fars ,  vốn là  phương ngữ của Fars , trở thành  ngôn  nhữ chính thức  của quốc gia , nhưng trong tiếng  Ba tư , tên  của 1  tỉnh không bao giờ được dùng chung cho cả   1 đất  nước .   

      Cả người Ả -rập lẫn người Thổ đều  sản sinh  ra 1  nền văn học  phong  phú  mô tả   những  cố gắng của  họ   chống lại  châu  Âu  Cơ đốc ,  kể từ những đợt thâm  nhập đầu tiên của  người Ả -rập  vào thế kỷ thứ 8  cho đến cuộc thoái  trận cuối cùng  của  người Thổ vào thế kỷ 20 . Nhưng cho tới   giai đọan  cận đại , khi  các khái niệm và phạm trù   châu Âu trở nên nổi trội ,  thì các chiến binh , viên chức   và sử gia    Hồi giáo  hầu như lúc nào cũng   đề cập đến   kẻ đối  nghịch  với mình  không theo các thuật ngữ về quốc gia  và lãnh thổ mà vỏn  vẹn  chỉ là những  kẻ vô đạo ( infidels= kafir) , hoặc  đôi khi bằng  những  từ mơ hồ như người  Franks  hoặc người Romans . Tương tự   như   thế , họ không bao giờ gọi những người thuộc  phe mình là  người Ả-rập, người Ba tư   hoặc người Thổ ;   họ chỉ xem   mình là người  Hồi giáo . Viễn  cảnh này  giúp ta  hiểu được  vì sao  Pakistan  quan tâm  đến Taliban và  những người kế tục  của phe này  tại Afghanistan .  Cái tên Pakistan ,  là 1 sáng chế của thế kỷ 20 , để chỉ 1  đất nước được hình thành trên cơ sở tôn giáo và   bổn phận  đối với  Hồi  giáo . Còn về mặt khác , đất nước và con người Pakistan –  như  đã từng có hàng ngàn năm qua – là 1  phần của Ấn độ . Một  nước Afghanistan  có  bản sắc  Hồi giáo   sẽ là  1 đồng minh  tự nhiên , thậm chí là 1  chư hầu , của Pakistan. Một Afganistan  dưới bản sắc chủng tộc ,  ngược lại , sẽ là 1 nước láng giềng  nguy hiểm ,   sẽ   nung  nấu chủ trương  đòi lại   vùng đất  nằm phía  tây bắc  Pakistan  có nhóm  người nói tiếng Pashto  và  có lẽ còn liên kết với  Ấn độ nữa .

       Việc tham  khảo những tài liệu  lịch sử sơ kỳ , thậm chí  thời  cổ đại    là điều  thường  gặp   trong các phát  biểu trước  công chúng . Lấy ví dụ , vào những năm  1980 , trong  chiến tranh Iran- Iraq , cả 2 bên đều  phát động những  chiến dịch  tuyên truyền rầm rộ thường  xuyên nhắc tới   các biến cố và nhân vật  xa  xưa  ở thế kỷ thứ 7 ,   nhắc tới  các trận đánh tại Qadisiyya ( 637 C.E.)  và Karbala ( 689 C.E.).  Trận  Qadisiyya là do người Hồi giáo Ả -rập  tấn công và đánh thắng  quân đội  của vua  Ba tư , lúc đó chưa  theo Hồi giáo   và như  thế , dưới mắt người Hồi giáo vẫn   là  kẻ vô đạo và tà giáo . Cả 2  bên đều cho  mình   là thắng  trận – đối với Saddam Hussein ,  là người Ả -rập thắng người Ba tư  , còn với Ayatollah Khomeini , là người Hồi giáo thắng  kẻ không tín ngưỡng .  Việc đề cập đến các trận đánh  không  được mô tả hoặc  kể ra chi tiết ,  nhưng  chỉ là những  lời bóng  gió  ngắn  gọn ,  không đầy  đủ   ,  mà  cả 2  phe  sử dụng  để sao cho người nghe 2 bên chộp lấy , hiểu lấy ,  dù rằng  phần  lớn những người nghe  của cả 2  phía đều  mù chữ . Thật khó  mà tưởng tượng  rằng  bộ máy tuyên truyền  cho quần chúng   ở châu Âu  lại đưa ra  những  ẩn dụ   có từ thời xa lắc  xa lơ như thế , từ thời có chế độ thất  hùng ( heptarchy ) cai trị tại  nước Anh     hoặc vua chúa  dòng   Carolingian tại  Pháp .  Cũng theo luận điệu ấy , Usama  bin Ladin  lăng mạ   khi  ví   Tổng   thống Bush  với  Pharaon ,  và  tố cáo  Phó Tổng thống Cheney và  Bộ trưởng  Powell  là đã  gây  nhiều  tang tóc  cho  Iraq   trong  chiến tranh vùng  vịnh năm 1991   và  những năm sau đó      còn nhiều   hơn so với thời   các  Hãn Mông cổ chinh  phục   Baghdag và  phá  nát  vương triều Abbasid vào giữa thế kỷ 13 . Nhận thức   về lịch sử của người dân Trung đông  được nuôi dưỡng từ   những lời  giảng  kinh sách , từ nhà trướng  và từ các phương tiện truyền thông , và dù rằng  những nhận thức này  lắm khi  thiên lệch và thiếu chính  xác , nhưng lại đầy sinh động  và  gây cộng  hưởng lớn .  

Vào ngày 23/2/1998 , tờ báo  tiếng  Ả -rập  Al-Quds al-‘Arabi,   xuất bản tại Luân đôn , có  in tòan văn “Tuyên bố   của  Mặt trận  Hồi giáo thế giới  kêu gọi thánh chiến  chống  lại bọn  Do thái và  Thập tự chinh”.  Theo như tờ báo cho  biết  , thì tuyên bố này   đựơc  gởi đến bằng fax   , có chữ ký của Usama  bin Ladin  và các nhà  lãnh đạo   các nhóm thánh chiến  ( Jihad)   ở Ai cập,  Pakistan   và Bangladesh .  Bảng tuyên bố bằng tiếng  Ả -rập – với lời văn  hùng hồn  , có  chỗ giống như  thơ –  đưa  ra    1 lối giải thích lịch sử   khác mà  đa số   người châu Âu chưa  gặp bao giờ .   Những  bất bình   của bin Ladin  được nêu trong tuyên bố không hề gíống với  những gì  mà nhiều người mong đợi . Tuyên bố mở đầu   bằng những đoạn văn trích dẫn  sặc mùi hiếu  chiến trong  kinh Qur’an kèm theo những lời dạy của  Tiên tri  Muhammad , và  tiếp đến  là :” Kể từ khi Thượng đế dựng nên  bán đảo  Ả -rập ,  có  sa mạc  , có   biển bao   quanh  , thì  chưa  hề có  tai họa  nào   giáng  xuống  cho đến khi bọn   Thập  tự chinh  ào đến như châu chấu ,  nhung nhúc trên mặt đất , ăn  sạch  hoa  màu ,   phà hủy màu  xanh ; và đây là lúc  mà các nước   chống lại người Hồi giáo  như bọn đói ăn  xâu  xé  dành nhau   1  bát cơm” .

ừ điểm này  tuyên bố kêu gọi  cần phải   hiểu rõ để chấn chỉnh  tình hình  .  Theo  tuyên bố này , các thực trạng  mà  ai  cũng   rõ   được  xếp theo  3  đề mục :

Một là – từ 7 năm  qua  ,  nước  Mỹ    đã  xâm chiếm phần đất  đai linh thiêng  nhất  của   người Hồi giáo, đó là Arabia ,  đã tước đọat  của cải   khống chế   các nhà  cầm quyền    lăng   nhục nhân dân, uy hiếp  các nước  láng giềng   và  sử dụng  những  căn cứ trên bán đảo Ả -rập   làm  đầu cầu    để chống lại nhân dân Hồi giáo  các nước lân  cận .

Mặc  dù trong  qúa khứ đã  có nhiều   tranh cãi về bản chất thực sự của   sự chiếm đóng này , nhưng  tòan thể nhân dân  Arabia  giờ đây đều  đã  biết rõ .

Bằng chứng hiển nhiên   là   nước  Mỹ lấy  Arabia làm  căn cứ để tiếp tục  xâm lược  chống  nhân dân Iraq , dù rằng  các nhà lãnh đạo  Arabia  có  phản đối   nhưng đều bị khống chế để cho Mỹ sử dụng  lãnh thổ của mình vào  mục  đích xâm lược  .

Hai là – mặc dù liên minh Thập tự chinh- Do thái   gây ra sự tàn  phá   to lớn   cho người dân Iraq  , và  mặc dù con số người chết   đã lên đến múc kinh hòang  vượt  quá 1 triệu người , bọn Mỹ   tuy thế vẫn  còn cố lập lại  hành động  đồ tể đáng kinh sợ đó . Dường như đối với chúng  sau 1  cuộc chiến khốc liệt  ,việc phong tỏa kéo dài ,  sự băm xé   và  hủy diệt  vẫn còn chưa đủ . Bây  giờ chúng lại tiến công để hủy diệt  những  gì  còn sót lại của  dân  tộc  này   và để hạ nhục   các  nước  Hồi giáo láng giềng .

Ba là – Trong khi bọn  Mỹ   nhắm  vào các  mục   đích tôn giáo  và kinh tế trong  các cuộc chiến này ,  bọn chúng cũng đồng  thời  phục vụ   cho miếng  đất  cỏn con   của   bọn   Do thái , nhằm  đánh lạc hướng  việc chiếm đóng  Jerusalem  và   giết chóc tín  đồ Hồi  giáo tại đó .

Không có bằng chứng  nào  rõ hơn về vấn đề này là ý  muốn  tiêu diệt nước  Iraq của  bọn chúng , là nước mạnh nhất  trong  các nước  láng   giềng Ả -rập  ,  và ý  đồ của chúng là băm  nát   tất  cả các quốc gia trong vùng   như  Iraq  và Saudi Arabia  , Ai cập và  Sudan  thành  các  nước  con  con ,    để làm suy   yếu  các nước này , để cho nước Israël   tồn tại  và  tiếp tục giúp cho  bọn Thập  tự chinh    chiếm đóng  và gây ra  nhiều  tai họa  trên bán đảo  Arabia. 
 

      Những tội ác này , bản tuyên  bố tiếp tục , đã trở thành  1  lời “tuyên chiến rành  rành   của bọn  Mỹ chống lại Thượng đế , chống lại Đấng tiên tri  của người  và  tín đồ Hồi giáo . Về mặt   này , ý   kiến  thống nhất  của các  bậc trí giả ( ulema )  qua  bao thế kỷ là khi  có  kẻ thù  tấn công  đất  đai của  người Hồi giáo , thì  thánh chiến  là  bổn  phận  của  mỗi  tín đồ .

      Những người  ra tuyên cáo trích dẫn   nhiều  căn cứ trong kinh sách Hồi giáo   và sau đó  đi  đến  phần chót  và  quan trọng nhất của tuyên  bố , phần sắc  lệnh ( fatwa ) , tóm  gọn như sau” giết  bọn Mỹ và đồng minh của chúng ,  dân sự và quân sự , là nhiệm vụ của  mọi tín đồ Hồi giáo còn khỏe  mạnh ,  ở mọi nơi  mọi chốn , cho tới  khi  nào giải phòng  đựơc đền Aqsa  ( tại Jerusalem )  và  đền  Haram  (  tại Mecca)  ra khỏi  ách kìm  kẹp   của chúng   và cho tới  khi   quân đội  của chúng   bị đánh tơi tả và gảy  cánh , rút lui  khỏi  mọi   phần đất  của  người Hồi giáo , không còn  đủ sức   đe  dọa bất cứ tín đồ   nào”

      Sau khi  nêu   thêm  một  vài đọan  có liên quan trong  kinh Qur’an ,  tài liệu  viết tiếp :”Đựơc phép của Thượng  đế ,  chúng tôi  kêu gọi   mọi tín đồ Hồi giáo những  ai  tin  vào  Thượng đế   và  mong đựơc tưởng thưởng vì  vâng lời Thượng đế   đi  giết bọn Mỹ và   tước đọat  tài sản của chúng   bất   cứ khi nào  nơi nào  có thể làm đựơc . Vì thế chúng  tôi   kêu gọi  mọi  thầy  cả ulema  và  các nhà lãnh đạo Hồi giáo , các  thanh niên và  chiến sĩ nhất  tề tấn công  chống lại  quân đội của  bọn  quỉ  Mỹ và chống  lại những  ai là đồng minh của  chúng trong  hàng  ngũ của  bọn  tiếp  tay  cho  quỉ Satan” Tuyên bố và sắc chỉ kết thúc bằng  một  số lời trích trong  kinh sách  Hồi giáo .  
 

       Theo  nhận thức thông thường  của  phương  tây , chiến tranh vùng  vịnh  năm 1991 ,    là do Mỹ ,  liên  minh  Ả -rập  và các đồng  minh khác phát động  để giải phóng  Kuwait   khỏi sự   xâm lược  của Iraq   và nhằm  bảo vệ Saudi Arabia  chống lại  sự tiến công của Iraq.   Cho rằng  cuộc chiến này  là   1 sự tiến công  của Mỹ chống lại Iraq  xem ra  có  vẻ hơi kỳ cục  nhưng  viễn  cảnh này đựơc  thế giới Hồi giáo chấp  nhận   rộng  rãi .  Khi vụ việc    Saddam Hussein tấn công Kuwait  đi vào quên lãng ,  thì người ta  lại quan tâm   đến  việc   Iraq  bị cấm vận   , máy bay của Anh  và Mỹ từ các  căn  cứ ở Arabia  tuần tra   không  phận  Iraq ,   nỗi  thống khổ của nhân dân Iraq  và   sự thiên  vị của  Mỹ đối với Israel được  cảm nhận   càng ngày càng  tăng  .

       3 khu vực  gây bất  bình   đựơc nêu trong tuyên  bố –  đó  là  Arabia , Iraq  và Israel –  tất cả đều quen thuộc đối với  những  ai quan sát tình hình  vùng Trung đông .  Cái  có lẽ ít  quen thuộc là   trình tự và   tầm quan trọng  khi trình bày  3  khu vực  này . Điều này sẽ không  gây   ngạc  nhiên   cho bất cứ ai thông thạo   lịch sử và  văn  học Hồi giáo . Đối  với người Hồi giáo , do chúng ta ở phương tây thường  hay   quên ,  đất thánh đúng nghĩa   là ở Arabia và  đặc biệt là Hijaz và  2 thành  phố thánh – Mecca ,  nơi đấng Tiên tri  chào đời  , và Medina , nơi  ngài  thiết lập  đất  nước  Hồi giáo  đầu tiên ;   đất nước mà dân chúng  là   người đầu tiên   tập  hợp   quanh 1  đức tin mới và  là  những người  tiên phong . Đấng tiên tri  sống  và  tạ thế    tại Arabia  cũng như  những  người kế nhiệm  trực tiếp  , là các Caliph , những người đứng  đầu   của  cộng  đồng .   Tiếp sau đó ,  trừ một  thời gian  ngắn  ở Syria , trung tâm thế giới  Hồi giáo  và  nơi  đạt đựơc những  thành tựu   chính  của Hồi giáo  là Iraq  ,    có  thủ đô là Baghdad  ,  là  nơi  các   Caliph đóng đô  trong  nửa thiên  niên  kỷ .  Đối với người Hồi giáo ,  không có mảnh đất nào   một khi đã  nhập vào cương  vực  Hồi giáo lại vuột  ra được ,  không có  nơi nào có thể sánh được với Arabia  và Iraq .

      Và    trong  2  địa   danh đó ,  Arabia  có  tầm quan trọng  vượt  xa  hơn nhiều .  Các  sử gia  Ả -rập    kinh điển   cho ta  biết  rằng  vào năm  20 kỷ Hồi giáo , tương  ứng  với  năm 641 CE. ,  Caliph ‘Umar   ra sắc  lệnh   đuổi   người  Do thái và  Cơ đốc  ra khỏi các vùng  biên  phía  nam và  phía đông  của Arabia ,   theo đúng  huấn thị của Đấng  tiên tri   thốt   ra  khi lâm chung :” 2  đạo đó  không được có  mặt  tại Arabia”.

       Dân tộc    đang  đề cập   là những người Do thái  tại  ốc đảo Khaybar  , ở phía bắc  và người  Cơ đốc  Najran , ở phía nam.   Cả hai    đều là những  cộng đồng  đã  có  mặt ở đây  từ xa  xưa, tiếng   nói , văn hóa   và cách  sống đều   rặc  Ả -rập , chỉ khác với  người  láng  giềng   ở phần  đức tin . 

      Một  số   kinh sách Hồi giáo   sơ  kỳ đặt  nghi vấn  về việc  gán  ghép câu nói này cho Đấng  tiên tri . Nhưng  nó  được nhiều   người   chấp nhận   và    thực hiện .  Việc trục xuất   các nhóm thiểu số tôn giáo là  việc  cực kỳ hiếm   trong lịch sử Hồi  giáo –    không giống như đạo Cơ  đốc thời trung cổ ,  việc trục  xuất người Do thái  ,  và  sau thời kỳ Tái chinh phục , là người Hồi giáo  , là  việc bình thường và thường  xuyên . So  với  việc trục  xuất  ở châu Âu , thì sắc  lệnh của ‘Umar   vừa có tính chừng mực   và  còn  có  chút  trắc ẩn .  Sắc lệnh này không bao  gồm miền nam  và  đông nam  bán đảo Arập ,  vốn  không được coi  là nằm trong  vùng đất thánh  Hồi giáo . Và  không giống như  người Do thái và  tín đồ Hồi   giáo khi bị đuổi  khỏi  đất  Tây ban nha  và những   quốc gia  châu Âu khác ,  hễ tìm  đựơc chỗ nào trụ được thì cứ ở ; người Do thái  và  Cơ đốc tại  bán đảo  Ả -rập  được  tái định cư  tại  những  vùng đất  dành riêng  cho họ , dân Do thái  ở Syria  và Palestine,  dân Cơ đốc   tại Iraq .  Tiến trình này   cũng   khá   chậm rãi ,  không  hề    gấp gáp , và  có những   tờ trình cho biết  dân Do thái và Cơ đốc  vẫn còn   ở lại Khaybar và Najrab  một  thời gian sau khi sắc  lệnh ban  hành .

      Việc trục  xuất  được tiến hành đúng  hạn ,  và từ đó cho đến nay , đất thánh Hijaz là   vùng  đất cấm  đối  với dân  không theo Hồi  giáo . Theo trường  phái giáo  luật Hồi giáo  đựơc   nhà  nước  Ả -rập Saudi  và  Usama  bin Ladin  cùng   phe  đảng công nhận  , thì  ngay cả   việc đặt  chân  lên đất thánh đối với người không theo  Hồi giáo   là 1  sự vi  phạm nặng . Tại những  nơi  còn lại trong vương  quốc , người  không theo Hồi giáo , tuy được  phép   đến như du khách tạm thời ,  cũng không được  phép  thường trú  hoặc  thực hành  tôn giáo  của mình . Cảng Jedda trên bờ biển Đỏ từ lâu  đựơc coi như là 1  vùng cô lập  về mặt  tôn giáo , tại  đây   các   phái đoàn   ngọai giao , lãnh sự và thương mãi   chỉ được  phép  lưu trú ngắn  hạn .

      Từ    1930   trở đi , dầu  mỏ    được  phát hiện và khai thác  và   tiếp đến   là sự phát triển   của Riyadh , thủ đô  Saudi  , từ 1  ốc đảo nhỏ   trở thành  1 thủ phủ   lớn , đã  mang   lại  nhiều thay đổi  , người nước  ngoài  ồ ạt tràn đến  , chủ yếu là người Mỹ , đã  tác động   lên  mọi mặt của  cuộc  sống  tại vùng bán đảo này . Sự hiện diện của người nước  ngoài ,  vẫn bị nhiều   người coi như là  1 sự báng bổ thần thánh ,    góp  phần giải thích  thái độ bực tức ngày   càng  dâng  cao ở đây.

       Bán đảo Ả -rập chỉ bị Thập tự chinh  đe dọa một thời gian ngắn  vào thế   kỷ thứ 12 . Sau khi  Thập tự chinh  bị thua  trận  và bỏ chạy , mối  đe  dọa về   kẻ vô đạo    được cảm nhận kế tiếp đối với  Arabia   bắt đầu  vào thế kỷ thứ 18  khi quyền  lực châu Âu  được củng cố tại vùng nam Á   và sự xuất hiện   của  các chiến thuyền châu  Âu , đúng  ra  là của dân Cơ đốc ,  ở ngoài khơi   các  bờ   biển  Ả -rập. Cái  ý  thức  bị lăng nhục  ít nhất  cũng  là  1 trong những  yếu tố   của  cuộc trổi  dậy   tôn giáo   bùng lên  tại Arabia   do phong trào Wahhabi   ,  được   dòng  họ   Saud , những  người  khai lập  ra  nhà  nước  Saudi ủng hộ .  Trong  suốt thời gian  chịu ảnh hưởng  Anh – Pháp   và sau đó là sự thống trị   tại vùng  Trung đông   vào thế kỷ 19 và 29 ,  các  thế lực  đế quốc   đã  cai trị Ai cập , Sudan ,  Iraq , Syria   và Palestine. Các cường quốc  tuy  chỉ mới đã  gặm      những  phần đất ngoài rìa  bán đảo Ả -rập  , tại Aden   và  vịnh Ba tư , nhưng cũng đủ để   đặt  căn cứ quân sự   và can thiệp chính trị tối thiểu   vào   tình bình nội bộ   của  vùng  này.

      Khi nào  mà sự can thiệp   của ngoại bang  chỉ khu trú về mặt kinh tế , và cũng chỉ khi nào  mà những  đền bù  vật chất thừa thải  , xoa  dịu   được   những  nổi bất  bình , thì tín đồ Hồi giáo  mới  chịu  đựng    đựơc  sự hiện diện  của  những người  không cùng  tôn giáo . Nhưng   trong những   năm gần đây ,  các điều kiện  cam kết  đã thay đổi . Khi giá dầu giảm   và   dân số tăng ,  chi  tiêu tăng , phần  bù đắp ( rewards)  không còn đầy  đủ , thì những  mối bất  bình  càng ngày càng  càng  trở nên nổi trội hơn ,ồn  ào   hơn . Và nước  ngoài không chỉ nhúng tay   vào các họat  động  kinh tế .Cách mạng  tại Iran ,  các tham  vọng  của Saddam Hussein , và  tất  cả các vấn đề   tại khu vực  càng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn , nhất là  cuộc xung  đột Israel-Palestine, đã  làm cho  nước ngoài   can thiệp sâu hơn  về mặt chính trị và  quân sự , và  như thế những tiếng  kêu gào” chủ nghĩa đế quốc”càng  được  nhiều người nghe  cho  là  có lý hơn .Khi có vấn đề liên quan đến  đất thánh ,   dân Hồi giáo  có khuynh hướng nhìn  cuộc chiến  , và đôi  khi  với cả kẻ thù nữa , dưới khía cạnh tôn giáo  và  cho rằng quân  đội Mỹ chỉ là  quân  vô đạo  và   xâm lăng  khi được  gởi tới để giải phóng Kuwait  và  bảo vệ Saudi Arabia  khỏi   bị Saddam Hussein tấn công  . Nhận thức này  càng   rõ  hơn  khi  nước Mỹ là nước đầu têu   rành rành    trong  số các  cường quốc  thuộc  thế giới vô  đạo .

      Đối với   đa số người Mỹ , tuyên bố của  bin Ladin là 1 sự đùa  cợt ,  một  sự bóp méo trắng trợn  về bản  chất  và mục đích   sự hiện diện   của Mỹ tại bán đảo Ả -rập . Họ   cũng nên biết là  đối với nhiều người , có lẽ   là đa số   dân Hồi giáo , tuyên bố này   cũng  là 1 sự đùa cợt  trắng trợn   về bản chất của Hồi giáo , ngay  cả đối với học thuyết  về thánh chiến Jihad . Kinh Qur’an   đề cập  đến   chiến tranh cũng như   hòa bình .  Trong  số hàng trăm ngàn truyền thuyết và lời dạy ít nhiều  đựơc gán   cho  Đấng tiên tri  và đựơc  diễn giải  đôi khi   theo  rất nhiều cách ,  dẫn tới nhiều chỉ dạy  khác nhau ,  trong số đó  sự diễn  giải tôn giáo  dưới  khía  cạnh  bạo  lực  và  vũ lực  chỉ là  một .

       Trong   lúc đó , có  một  số đáng kể các tín đồ Hồi giáo   sẳn  sàng  đồng  ý  ,  và  một  số ít   đem  ra  áp dụng ,  cách   thể hiện  tôn giáo  của  họ theo kiểu này . Chủ nghĩa  khủng bố chỉ cần đến  1 số ít người .   Hiển nhiên là   phương  tây  phải tự vệ bằng  bất cứ phương tiện  nào có được .  Nhưng trong  khi  nghĩ  ra  cách  để chống lại  bọn  khủng bố ,  rõ  ràng là  cũng  cần  hiểu rõ động lực   nào đã thúc  đẩy  chúng .  

       Chương 1

      Định nghĩa Hồi giáo        

      Khó  mà  khái   quát  hóa về Hồi giáo .  Trước hết ,  bản thân  của từ   này thường   đựơc  sử dụng  với 2  nghĩa  khác nhau  nhưng  lại  liên  quan với nhau , tương đương với  đạo Cơ đốc ( Christianity ) và thế giới Cơ đốc ( Christendom  )  . Một  nghĩa   để biểu thị một  tôn giáo , 1 hệ thống  niềm tin   và  thờ phượng ; một nghĩa  khác , đó là  1  nền văn minh được sản sinh và   nẩy  nở dưới  sự bảo trợ của  tôn giáo  đó . Bản thân từ Hồi giáo ( Islam )   đã  là  một lịch sử trên 14 thế kỷ , với 1 tỷ 300 triệu tín đồ và  một  truyền   thống  tôn giáo  và  văn hóa  cực kỳ đa dạng .  Đạo Cơ đốc  và thế giới Cơ đốc đại diện   cho một thời kỳ dài hơn  và giáo đồ lớn hơn – trên  2 tỉ tín đồ , trên 20  thế kỷ và tính đa  dạng thậm chí còn   lớn hơn.  Tuy   nhiên ,  một  số khái quát hóa  có thể đưa ra  và đã được   đưa ra  về cái gọi là nền  văn minh Cơ đốc , Do thái – Cơ đốc  , hậu  Cơ đốc   và –  đơn  giản hơn –  phương Tây . Trong  khi  việc khái quát hóa  nền  văn minh Hồi giáo có thể khó  khăn hơn  và  có lúc   nguy hiểm ,  nhưng lại   là việc không thể không làm  và lắm khi cũng có phần  hữu dụng    .

       Về mặt không gian , cương  vực  Hồi giáo  trải  dài từ Morocco tới Indonesia , từ Kazakhstan  đến Senegal . Về   mặt thời gian , đạo này  đã có  hơn 14 thế kỷ , tính từ lúc Đấng tiên tri  bắt đầu giảng đạo  tại bán  đảo Ả -rập   vào thế kỷ thứ 7  và ngài  đã chủ trì  dựng  ra 1 cộng đồng và 1 đất nước Hồi giáo . Trong giai đoạn mà  các sử gia  châu Âu  gọi là thời kỳ đen tối chen giữa sự suy tàn  của  nền văn minh cổ đại – Hy lạp và La mã –  và sự   trổi dậy  của  văn minh cận đại – Châu Âu , thì Hồi giáo  là 1 nền  văn minh  chủ đạo  trên thế giới ,  đựơc  đánh  dấu  bởi  các  vương  quốc to lớn và  hùng mạnh , có nền  kỹ nghệ và thương mãi  phong  phú và  đa  dạng  , nền khoa học và văn chương  độc  đáo và  sáng tạo .  Hồi giáo , vượt xa hơn Cơ đốc  giáo nhiều mặt , là giai đọan trung gian  giữa Đông  phương  cổ đại  và Tây phương  cận đại  trong đó  có phần đóng góp  đáng kể của   tôn giáo  này  . Tuy  nhiên trong 3 thế kỷ vừa qua ,  thế giới  Hồi giáo  đã  đánh mất  thế thống trị và vai trò lãnh đạo ,  và đã tụt hậu  sau  cả   phương Tây   hiện đại  lẫn phương  Đông  cách tân một cách nhanh chóng . Cái  hố ngăn cách  càng ngày  càng  rộng  này  đã  đặt  ra  những  vấn đề cấp bách , cả về mặt  thực  tiển  lẫn tình cảm ,  mà  cho tới nay  các nhà  lãnh đạo , nhà tư tưởng  và   kẻ nổi lọan   của Hồi giáo  vẫn  chưa tìm  ra được câu trả lời phù  hợp

      Với  tính cách    là  1 tôn giáo , Hồi giáo  về mọi mặt  đều rất  gần gũi   với truyền thống Do thái- Cơ đốc  hơn  bất cứ tôn giáo  lớn nào tại châu Á  như   đạo Hindu , đạo Phật  hoặc đạo Khổng .  Đạo  Do thái  và đạo Hồi  có chung  1  niềm tin   về 1 qui luật thần thánh  chi  phối mọi  mặt  của  sinh họat  con người , bao gồm  cả đồ ăn  thức  uống .   Tín  đồ đạo Cơ đốc  và  đạo Hồi  đều có  chung tính thần hiếu thắng   ( triumphalism) . Ngược lại   với  các tôn giáo  khác của nhân  lọai , kể cả đạo Do  thái ,  2 tôn giáo  trên tin rằng chỉ có họ   là những  người may  mắn  tiếp thu và  gìn giữ thông  điệp cuối cùng  của  Thượng đế đối với con  người ,  và  họ có nhiệm vụ mang  lại cho  phần  còn lại  của  thế giới . So sánh với  những  tôn giáo  xa hơn  ở phương  đông , tất  cả 2  tôn giáo  ở vùng  Cận đông – đạo Do thái , đạo Cơ đốc   và  đạo Hồi –  đều có liên hệ   chặt  chẽ với  nhau   và  đúng  ra   chỉ là các  biến thể của  cùng 1   truyền thống tôn giáo .

      Thế giới   Cơ đốc ( Christendom  ) và Hồi giáo  về nhiều mặt  là   những nền  văn minh   anh em , cả 2  đều  bắt  nguồn từ   di sản  chung   về sự mặc  khải và tiên tri  của người Do thái  và khoa học  ,  triết học  của người Hi lạp , và   cả 2  đều đựơc  nuôi dưỡng  bởi  các truyền thống  xa  xưa  của  vùng  Trung đông  cổ đại . Trong  phần  lớn   lịch sử chung  của  họ ,  họ đã  từng  sát phạt nhau  , nhưng  ngay cả trong chiến đấu và tranh luận , họ đều có  những nét  giống nhau cơ bản  và những  đặc trung  chung  đã  nối  kết  họ với nhau , và làm cho họ   xa cách  với  những  nền  văn  minh  xa xôi hơn ở châu Á .

      Nhưng  dù  có  những  nét  tương đồng ,   vẫn có những cách biệt  sâu  sắc   giữa  2 tôn giáo này ,  đưa tới những  khác biệt  hiển nhiên  về giáo lý  và   cách thờ phượng . Không  có nơi nào  mà những  sự khác biệt  trở nên  sâu sắc –và  hiển nhiên-   hơn là  ở thái độ của 2 tôn giáo  này ,  và  ở các    điểm  dẫn  giải có  thẩm  quyền ,  đối với  các mối quan hệ giữa  nhà nước , tôn giáo  và  xã  hội . Người  sáng lập ra  đạo Cơ đốc truyền  dạy cho các tông đồ”hãy trả cho Caesar  những  gì   của  Caesar  , và   trả cho Chúa  những gì của  Chúa”( Matt .XXII:20  ) –   và trong  nhiều thế kỷ , đạo  Cơ  đốc  đã ra đời  và lớn mạnh   như là  1  tôn giáo của  những con người  bị áp  bức  , cho tới  khi  hòang đế Constantine  cải giáo , thì  chính Hòang đế La mã ( Caesar)   mới  trở thành  1 người Cơ đốc  và  đưa ra một lọat  những thay đổi  đưa  đế quốc  La mã theo  1  tín ngưỡng mới   và  làm   chuyển đổi  thế giới .  Người sáng lập  đạo Hồi chính là  vua  , đã  sáng lập   ra nhà nước  và đế quốc  cho  chính mình . Như thế Ngài  không  tạo ra –  hoặc cần phải tạo ra – một  giáo hội .  Sự phân  tách  giữa nhà  nước ( regnum)  và giáo hội ( sacerdotium ) ,  rất là   quan trọng đối với đạo Cơ đốc  phương Tây , nhưng không hề   có   tương  đương trong  đạo  Hồi . Khi Muhamad  còn sống ,  đạo Hồi  lập tức trở thành 1  cộng đồng  chính trị và  tôn giáo ,  với  đấng  Tiên tri  là  người   đứng  đầu nhà  nước .  Với vai trò   này ,  Ngài cai quản  1  vùng  lãnh thổ    và  1  dân tộc , đứng ra  xử kiện , thu thuế , chỉ huy quân đội , phát  động  chiến  tranh  và đem lại  hòa bình .  Đối  với  thế hệ khai sáng  đầu tiên của  người  Hồi giáo , những  người  đã làm nên  những  cuộc phiêu lưu  trong lịch sử thần thánh  của  Hồi giáo ,  không hề bị thử thách  bằng  sự ngược  đãi ,  không  có truyền   thống   chống  đối   thù nghịch  của quyền lực nhà nước .  Ngược lại , nhà nước cai trị họ là 1 nhà nước Hồi  giáo ,  và  Thượng  đế chuẩn  y  chính nghĩa  của họ qua việc ban  cho họ sự chiến thắng   và 1 đế quốc dưới cỏi  thế gian trần  tục  này .

       Vào thời  La mã dị giáo ,  Caesar là  Chúa .  Đối với người  Cơ đốc , có sự lựa chọn  giữa   Thượng  đế và Caesar ,    và  có  biết  bao  thế hệ người Cơ đốc   đã bị trói  buộc   vào sự lựa chọn này .  Với  Hồi giáo , không hề có sự   lựa chọn đau  đớn đó .  Theo cái  tổ chức  xã hội  phổ quát dưới mắt người Hồi giáo ,  không  hề có  Caesar nào cả mà chỉ có 1 Thượng đế là đấng  cai trị duy nhất  và  đưa ra luật lệ duy nhất .  Muhammad là  Tiên tri của  Thượng  đế , khi  còn sống là người   giảng  đạo và  cai trị dưới danh Thượng  đế . Khi Muhammad  chết   vào năm 632 CE, ngài  đã hòan  thành sứ mạng  tiên tri và tinh thần  là  đưa Thiên  kinh  Qur’an đến với lòai người .  Phần  còn lại là  sứ mạng  tôn giáo  nhằm  quảng  bá  sự mặc  khải   của  Thương đế   cho đến khi tòan  thế giới thảy đều  chấp nhận đạo Hồi  .  Có được  điều  này thì phải mở   rộng thẩm  quyền  và  gia tăng số lượng  tín đồ trong  cộng đồng là những  người gìn  giữ 1  tín  ngưỡng    chân  chính  và  tuân thủ luật  của  Thương đế . Nhằm  tạo ra    1 sự gắn bó   và lãnh đạo  cần thiết  ,  cần phải  có  1  người  kế nghiệp     cho  Đấng   tiên tri . Theo tiếng Ả -rập ,  Khalifa    là tước hiệu dành cho Abu Bakr , là  cha vợ của Tiên tri ,  là  người kế tục  đầu tiên ,   đứng  lên  nắm lấy vai trò  người đứng  đầu    cọng đồng Hồi giáo   đã  tạo ra được  nền  móng   cho  1 định chế Caliphate   to lớn trong lịch sử .

       Dưới  sự lãnh đạo  của Caliph , cộng  đồng Hồi giáo  tại Medina , nơi  mà Đáng  Tiên tri   thống trị , chỉ trong vòng 1 thế kỷ đã   lớn mạnh thành 1 đế quốc   rộng  lớn , và   Hồi giáo  đã trở thành 1 tôn giáo  thế giới .  Theo  trải nghiệm  của những   tín đồ Hồi giáo đầu tiên , đã  được  ghi chép  và  lưu truyền cho  các thế hệ sau , thì  chân lý tôn giáo  và quyền lực chính  trị   có liên quan  không  thể tách  rời   được :  cái trước  biện hộ cho cái sau ,  cái sau   làm cho cái trước bền  vững .  Ayatolla Khomeini  có lần đã  đưa ra ý kiến”Hồi  giáo  là chính trị hoặc  không là gì hết”.  Không  phải mọi   tín đồ Hồi giáo đều cực đoan   đến thế , nhưng đa số đều  nhất trí  rằng   Thượng đế có  tham gia  vào chính trị , và  niềm tin này đựơc luật Shari’a  xác nhận   và duy trì ,  cho rằng Luật Hồi giáo liên quan rất nhiều  đến  tính  hợp  pháp   và thẩm quyền , các  nghĩa  vụ của  người cai trị và thần  dân , nói vắn tắt ,  đó là những  điều mà  phương  Tây gọi là   luật hiến pháp và  triết lý chính trị .

       Mối  liên  hệ lâu đời   qua  lại  giữa đạo Hồi  và  đạo Cơ đốc  và  chính những   sự tương  đồng  và   những  ảnh hưởng  qua lại giữa    2  tôn giáo  đôi  khi làm cho  các nhà quan sát   bỏ qua  những  dị biệt   quan trọng .    Mọi   người cho rằng  , Qur’an  là kinh thánh của Hồi giáo , đền thờ là  nhà thờ Hồi giáo  ,  và ulema  là  tăng  sĩ Hồi giáo .  3 điều   này đều đúng , nhưng  lại   là những điều   sai lệch  nghiêm trọng .  Cựu  ước và Tân  ước   gồm  có  nhiều  quyển  khác nhau ,  trải dài 1   thời gian  dài  và  đựơc các tín đồ   coi là   sự thể hiện  sự mặc  khải của các thánh . Còn Qur’an , đối với người đạo Hồi , là 1  quyển  kinh duy nhất  được 1   người  là  Tiên tri  Muhammad  đưa ra  trong  đời ngài .  Sau  những cuộc tranh luận rộng  rãi  vào những  thế kỷ đầu tiên của Hồi giáo , học thuyết   đựơc chấp   nhận là  Kinh Qur’an tự nó không hề đựơc  ai viết  ra  , có tính  vĩnh  viễn , thần thánh  và  bất di  bất  dịch .  Điều này  đã trở thành 1 giáo lý trung tâm của tín  ngưỡng  .

      Đền thờ mosque  qủa   thật là  1 giáo đừơng  Hồi giáo  theo    nghĩa  là 1 chỗ   để thờ phụng  chung  cho cộng  đồng . Nhưng ta  không thể nói đến  mosque   như  một nhà thờ   Cơ đốc đựơc –  như là  1 định chế có  ngôi thứ và luật lệ riêng , đối nghịch với nhà nước . Còn ulema ( tại Iran  và những  nước Hồi giáo chịu ảnh hưởng  văn hóa Ba tư   thì gọi là mollah )  có thể coi như là những  chức sắc tôn giáo  theo nghĩa  xã hội  học ,  tức  là những người làm tôn giáo  chuyên nghiệp được  chứng  nhận đã  qua đào tạo .  Nhưng  trong Hồi giáo lại không có  giới tu sĩ –  giữa  Thượng đế   và  tín đồ không có tu sĩ  làm trung gian    , không có  sự thụ phong ,  không  ban phứơc , không có qui định  là   tu sĩ  mới được  hành lễ   .  Ta cũng  có thể bổ sung  là trong  qúa khứ , không hề có  công đồng  hoặc hội nghị tôn giáo , không có  linh mục hoặc phán quan để buộc  mọi người  phải theo  giao lý chính thống . Nhưng tại Iran , những  điều này không hòan tòan đúng như vậy.

      Chức năng  chính của ulema –  theo tiếng Ả -rập có nghĩa là kiến thức –  là người  gìn giữ và  diễn giải  Luật thánh .  Vào cuối thời trung cổ , xuất hiện một   hình thức  giống  như giáo  khu , để chăm sóc  các nhu cầu   của  thường  dân  tại các đô  thị và làng  mạc , nhưng    những tổ chức   này  có tính thần bí   hơn là theo  đúng giáo lý  Hồi  giáo nên thường tách  rời và các  ulema  cũng không mấy thích thú .  Tại các  vương triều Hồi giáo  sau này , như  Thổ nhĩ  kỳ và Iran ,  một hình  thức  thứ bậc tu sĩ   xuất hiện  , nhưng lại   không  ăn nhập gì đến truyền  thống   Hồi giáo cổ điển  , và các thành viên  của  những   đẳng  cấp tôn  giáo này không hề , cho  đến nay vẫn thế , đòi hỏi có được quyền lực của các  giám mục Cơ đốc    .Vào thời  cận đại , sau  bao  biến đổi , chủ yếu  là  do ảnh huởng của phương tây ,  đã   hình thành các  định chế và nghề nghiệp có  nét  hơi giống   đáng ngờ với  các giáo hội và tu sĩ  của đạo  Cơ đốc .  Nhưng đây là những  điểm   xa rời  chứ không   phải là quay  về   với đạo  Hồi  cổ điển  .

      Nếu  ta có thể nói một chút gì  về   chức sắc  tôn  giáo  theo cái nghĩa hạn  hẹp  về xã hội học  trong  thế giới Hồi  giáo ,  thì   lại không  hề có ý nghĩa  gì   nếu ta  nói đến con người thế tục .  Chính cái ý niệm  về một  cái gì đó   tách  rời  hoặc   thậm chí có thể phân tách được  khỏi thẩm  quyền  tôn giáo ,  theo  các  ngôn  ngữ Cơ đốc  thì những  từ như không thuộc giáo hội  , trần  gian  hoặc  thế tục ,  quả là   hòan tòan  xa lạ với tư tưởng và thực  hành đạo  Hồi . Chỉ mới đến thời cận đại  tương đối gần  đây mới có  những  chữ tương đương  trong tiếng Ả -rập.  Đó là  những từ do  những người Cơ đốc  nói tiếng  Ả -rập vay  mượn hoặc đặt mới .

      Thuở sinh thời đấng  Tiên tri , xã hội  Hồi giáo   có  2 bản chất  .  Một mặt , đó   là  1 tổ chức  nhà nước  – mà  vai trò thủ lãnh lần lượt  đi từ 1  quốc gia  đến 1  đế quốc .   Đồng  thời , mặt khác  , đó là 1 cộng đồng tôn giáo , do Đấng  Tiên tri   sáng lập   , được  các đại   diện cũng là những người  kế vị   của Ngài  cai trị . Jesus  bị đóng  đinh trên thập giá ,  Moses   chết  khi chưa  đến được  miền đất hứa ; cho nên  niềm tin cũng  như  thái  độ của   tín đồ các đạo Do thái và  cơ  đốc   vẫn còn chịu ảnh hưởng  sâu đậm khi nhớ lại những  sự kiện  đó .  Muhammad  đã chiến thắng  trong   đời của  Người  , và khi chết   là 1 người chiến thắng  và  1  quân vương . Lịch sử về tôn giáo  của họ sau này có thể khẳng định  cho các thái độ xuất phát  từ đó  của người đạo Hồi .  Tại   Tây  Âu ,  những  kẻ xâm  lược  là  bán  khai nhưng dễ dạy  khi  tiếp xúc  với 1 nhà nước  và 1 tôn giáo  có  sẵn , như  đế quốc La mã   và Giáo hội Cơ đốc . Kẻ xâm lược  chấp  nhận  cả 2  , và  cố gắng phục vụ các nhu cầu và mục đích của họ   trong  khuôn  khổ hiện có  của  thể chế xã hội  La mã và  Giáo hội  Cơ đốc   có  sẳn ,  cả 2 đều  sử dụng  tiếng La tinh . Người Hồi giáo Ả -rập khi xâm lược  vùng  Trung đông  và Bắc  Phi  đã mang theo tín ngưỡng  , chữ viết  riêng của họ bằng chính ngôn  ngữ của  họ ; họ tạo ra 1  xã hội có  tổ chức  riêng , có 1 bộ luật  mới , 1 ngôn ngữ đế quốc  mới  và 1 cơ cấu đế   quốc  mới ,  với Caliph là người đứng  đầu . Nhà nước và  tổ chức  xã hội này  được  Hồi  giáo qui định  và quyền tham gia  đầy đủ chỉ dành cho những ai   biểu  lộ lòng tin nổi trội .

      Sự nghiệp  của Đấng tiên tri  Muhammad , về mặt  này cũng như   trên tất  cả các mặt  khác mà   mọi  tín đồ tốt phải noi theo , chia ra làm 2 phần .   Trong phần đầu , trong  những năm tại quê hương   , Mecca ( ?570-622) ,  ngài là người đối đầu với  chế độ tà  giáo  đầu  sỏ . Trong phần 2 , sau khi chuyển từ Mecca đến Medina (622-632) , ngài là người đứng đầu nhà nước . Hai thời kỳ trong sự nghiệp của  Đấng tiên tri , một là  của sự phản kháng , một là  của luật lệ , cả 2 đều  đựơc  phản ánh trong  kinh Qur’an , từng  chương một , tín đồ buộc phải  tuân  phục  người đại diện cho  Thượng đế , và   không đựơc  nghe theo Pharaon , tức là kẻ cai trị độc  tài và bất  chính . 2  khía  cạnh  này  trong  cuộc đời và sự nghiệp của Đấng  tiên tri  gợi nên 2  truyền thống  trong đạo Hồi , 1 là độc  đóan  và  thanh tịnh , còn mặt kia  là  cấp tiến  và hành động . Cả 2  mặt  đều đựơc  phản ánh rộng  rãi ,  một mặt  là ở sự phát triển của truyền thống , mặt  kia khi các biến cố xảy ra .  Không  phải lúc nào cũng  dễ dàng  xác định  ai là   đại diện   cho Thượng đế   và ai là Pharaon ;  đã có  biết  bao nhiêu sách đựơc  viết  ra  và nhiều trận  chiến nổ ra  nhằm làm rõ  điều này . Vấn đề   vẫn  còn mãi  mãi và   cả 2  truyền thống đều  có  thể thấy rất rõ  trong những trận luận chiến   và  trong  thời đại chúng ta  vấn đề đựơc  giải  quyết bằng vũ lực  .

      Ở  giữa  2  thái cực  là thanh tịnh và  cấp tiến  ,  phần lớn  đều bày tỏ   1 thái độ thận trọng  , thậm chí  là ngờ vực  đối với chính quyền .  1 ví dụ là sự khác biệt sắc nét  về thái độ của người dân  vào thời trung cổ đối  với quadi ( quan tòa ) ,   và  với mufti ( cố vấn pháp  lý ) .Theo Luật thánh . Qadi , do nhà vua  bổ nhiệm , mà trong văn học  và  truyền  thống  dân gian  là 1 khuôn mặt dễ mua chuộc   , thậm chí  còn lố bịch  nữa ; còn  mufti , chỉ đến thời trung cổ Hồi giáo mới  có ,  lại được  các  đồng nghiệp  và  nhân  dân thừa nhận , là  người được  kính trọng  và  mến  mộ . 1 chủ đề truyền thống ( topos )  trong  tiểu sử những  con người ngoan  đạo –  mà chúng ta  có  đến  hàng trăm ngàn  người  như thế –  là 1   đấng anh hùng   được  nhà nước  tặng  cho   chức tước   nhưng  lại từ chối . Ban tặng chức tước  vì có học vấn và  danh tiếng ,  còn  từ chối là  vì  lòng chính trực .

       Vào thời  đế chế Ottoman  đã xảy ra 1  sự thay đổi quan trọng .  Vị quadi chiếm  đựơc  nhiều quyền  lực , và   ngay cả   vi  Mufti cũng  bị lôi kéo vào   hệ thống  công  quyền  . Nhưng thái độ   nghi ngờ xưa cũ  đối với chính quyền  vẫn còn  , và  lại thường được  giải bày qua các châm ngôn , chuyện  kể dân gian  và ngay cả trong  văn học nữa .

       Qua hơn  1 ngàn  năm , đạo Hồi  chỉ đưa ra 1 bộ luật  và  các nguyên tắc đựơc  nhiều  người chấp  nhận  để quản lý  đời sống  xã hội và  công  cọng . Ngay  cả trong  thời kỳ ảnh hưởng  châu Âu  cực thịnh ,  tại  các quốc  gia  đựơc các cuờng quốc đế quốc châu Âu   cai trị hoặc thống trị   cũng như  tại các nước vẫn còn độc lập ,  thì  các khái niệm và thái độ chính trị Hồi giáo vẫn  còn  có ảnh huởng  sâu đậm .  Trong những năm gần đây , có nhiều dấu  hiệu cho thấy   những   khái niệm và thái độ   này  có thể phục  hồi mạnh  mẽ như xưa, dù hình  thức có thay đổi .  
 

       Chính trong lãnh vực chính trị –   đối  nội , trong  vùng   cũng như  quốc tế –  mà chính ta  thấy  sự khác biệt  rõ rệt nhất  giữa  đạo Hồi và  phần còn lại của thế giới.  Các nhà  lãnh đạo   hoặc  bộ trưởng  ngọai giao  của  các nước Bắc Âu   và  Anh quốc ,  chưa bao giờ tụ tập   tham dự các hội nghị thượng  đỉnh Tin  lành ,  hoặc  chưa  bao giờ người đứng  đầu của Hi lạp , Nam tư , Bulgiaria  và  Liên  Xô ,  tạm thời  bỏ qua những  khác  biệt  chính trị và ý thức  hệ , để tham gia các  hội nghị thường  xuyên  dựa trên cơ sở là  hiện nay  hoặc  trước kia  đó là  các  nước theo Chính thống giáo .  Tương tự như vậy , các nước theo đạo Phật  tại Đông và  Đông nam Á  không   lập ra  1  khối Phật giáo tại Liên  hợp quốc hoặc trong các  sinh họat  chính trị khác của họ .  Ý  tuởng dựa  vào 1 tôn giáo , trong thế giới   hiện nay xem ra  có  vẻ   lỗi thời và thậm chí còn  vô lý   nữa .  Nhưng  với đạo Hồi  thì không hề   lỗi thời và  vô lý  chút  nào .  Trong súôt thời kỳ chiến tranh lạnh căng thẳng  và sau đó , có hơn 50  chính phủ Hồi giáo – bao gồm  các nước  quân  chủ   và  cọng hòa , bảo thủ và cấp tiến , theo chủ nghĩa  tư bản    và chủ nghĩa  xã hội , ủng hộ phương  tây , phương đông  và   cả 1 loạt các kiểu  trung lập – đã dựng  nên  1  bộ máy  phức tạp  dành cho  việc tham  khảo  ,và hợp tác nhiều  mặt  giữa  các  nước  với nhau .

       Vào  tháng 11/1969 , 1 hội nghị thượng  đỉnh  Hồi giáo   họp  tại Rabat , Maroc , quyết định thành  lập  1  cơ quan  gọi  là Tổ chức  Hội nghị Hồi giáo ( Organization of Islamic Conference = OIC ) ,  với ban thư ký thường trực đóng tại Jedda , Saudi Arabia . Cơ quan này ra   đời  ngay  , và  phát triển nhanh  trong thập niên 1970 . OIC  chú trọng nhiều   đến việc giúp đỡ các nước Hồi giáo nghèo , hỗ trợ cho các nhóm   thiểu số Hồi giáo   tại các  quốc gia  không Hồi giáo  và  vị thế   quốc tế của đạo Hồi và của tín đồ đạo Hồi – theo  lời của 1 quan sát viên , là  quyền con người  theo  Hồi giáo  .

       Tổ chức này hiện   nay có 57 thành viên  , cọng  với  3  quan sát viên . 2 trong 3  nước  này  là Albani  và Thổ   nhĩ kỳ , là  những  nước châu Âu  hoặc thiết tha  muốn  thuộc về châu Âu ( Bosnia  chỉ đựơc  qui chế quan sát viên ) ; 2  nước khác , Surinam ( gia nhập năm 1996)  và Guyana ( năm 1998 ) , nằm ở tây bán cầu . Phần còn  lại  đều nằm  ở châu Á  và châu Phi ,  trừ   một  vài ngọai lệ , đều là  những  nước mới dành đựơc độc lập vào  cúôi thế kỷ 20  từ các  nước  Tây Âu , hoặc gần đây  hơn  là từ Liên  xô . Đa số đều là   các nước  có dân cư  phần lớn   theo đạo Hồi  , mặc dù  có  1  số ít nước  đựơc gia nhập vì  sức mạnh của  thiểu số   Hồi giáo .  Bên cạnh những  nước này , có 1 số thiểu  số Hồi giáo  quan trọng  tại  các quốc gia  khác –  một số cũng  na ná  như nhóm đa số , như tại Ấn độ ;  một  số thì  về mặt  chủng tộc và tôn giáo   lại khác  hẳn , như người Chechen và Tatar    thuộc  Liên bang Nga .  Một  số quốc  gia  nhự Trung  quốc  , cũng  có thiểu số Hồi giáo  nằm trong 2 tình huống trên .  Hiện nay  còn  có nhiều nước có thiểu số Hồi giao  do di dân .

       Đã  và  đang có những  hạn chế quan trọng  về tính hữu hiệu  của  OIC  với tính cách là  1  yếu tố trên  trừơng  chính trị quốc tế . Khi Liên  xô  xâm chiếm  Afganistan   vào năm 1979 ,   hành động  xâm lược  trắng trợn đối với 1  quốc gia Hồi giáo có chủ quyền , đã  không   tạo nên   sự phản  kháng nghiêm túc nào , thậm chí còn đựơc  một  số thành viên  bảo vệ nữa .  Gần đây  hơn ,  cơ  quan này  cũng không quan tâm mấy đến những  cuộc nội chiến  tại  các  nước thành viên  như  Sudan và Somalia . Thành tích của OIC đối với các vấn đề trong vùng  cũng không có  gì  nổi bật . Từ năm 1980 đến 1988 , 2  nước Hồi giáo  là Iran và Iraq , đã  đánh nhau  chí  tử với  tổn  thất rất nặng nề cho  cả 2 bên . OIC  chẳng  hề   làm gì   để ngăn ngừa  hoặc  kết thúc  cuộc  chiến này . Nói  chung , OIC  , không giống  như tổ chức  các quốc gia châu  Mỹ và  Tổ chức Thống nhất châu Phi ,   không hề quan tâm đến sự vi phạm nhân  quyền  và  các  vấn đề nội bộ của các nước thành viên , mối quan tâm về nhân quyền của OIC  đối với  các tín đồ đạo Hồi sống  tại các nước không – Hồi giáo , trước hết  là tại Palestine, cũng  không nhiều . Tuy nhiên  , không nên xem nhẹ tổ chức OIC  . Các  họat  động văn hóa  và  xã hội  của   tổ chức này càng ngày càng trở nên quan trọng  , và bộ máy  giúp cho công tác tham  khảo  thường xuyên  giữa các  nước thành viên có  thể   đóng  vai trò quan trọng  hơn một  khi chiến tranh lạnh  cùng  các   tác động  xâu xé của nó   lùi vào quá khứ .

      Đi từ các  vấn đề chính trị   quốc tế và  khu vực   sang nội bộ , thì sự khác biệt giữa Hồi giáo và phần còn lại của thế giới  , dù ít nổi bật hơn , nhưng  vẫn khá   quan trọng  .  Tại  một  số các quốc gia đang thực  hiện  dân chủ đa  đảng ,  có những chính đảng theo  chủ trương tôn giáo – đạo Cơ đốc tại  phương Tây ,  đạo Hindu  tại Ấn độ ,  đạo  Phật  tại  phương Đông . Nhưng những  đảng này   tương đối không nhiều , và những đảng  đóng  vai trò chính lại còn  ít  hơn . Nhưng  ngay cả đối với  những   đảng này ,  thì  chủ đề tôn giáo  thường  không  quan trọng  mấy  trong  chương trình  hành động của  họ   cũng như  sức lôi cuốn của chủ đề này đối  với cử tri . Tuy nhiên   tại nhiều nước , đúng ra  là đa  số , các nước  Hồi giáo  , tôn giáo  vẫn là 1  yếu  tố chính trị   chính – các  vấn đề đối nội còn quan trọng   hơn  quốc tế hoặc trong  vùng . Tại sao có  sự khác biệt này?.

      Một  câu trả lời rất  rõ  ràng; phần lớn các nước  đạo Hồi  vẫn còn mang ảnh hưởng Hồi giáo  rất nặng ,   nếu xét  theo   nghĩa   này thì   đa số các nước  đạo Cơ đốc  không  còn  mang tính Cơ đốc  nữa .   Phải thừa nhận  rằng ,  nhiều  nước trong  nhóm các nước này , niềm tin Cơ đốc và giới tăng lữ duy trì  niềm  tin  này vẫn   còn là  lực lượng   có  thế lực , và mặc dù  vai trò  của họ tuy  không   còn  được  như  trong  các thế kỷ trước , nhưng không hề giảm  ý nghĩa. Nhưng  hiện nay , không  có  quốc gia   Cơ đốc nào  mà  các nhà lãnh đạo   tôn giáo lại   trông chờ vào mức độ tin tưởng và tham gia  vào  tôn giáo như vẫn  xảy ra  bình thường tại   các lãnh thổ đạo Hồi . Ít  quốc gia  Cơ đốc nào  , nếu có , lại  coi tính thiêng liêng  Cơ đốc là điều   cấm   kỵ , không được  đem ra  bình phẩm hoặc thảo luận  thấu đáo . Còn tại các nước  đạo Hồi   tính cấm  kỵ này là đương  nhiên    ngay  cả ở các  xã hội   thế   tục và  dân   chủ về hình thức . Thực  vậy , tính cấm kỵ    theo đặc  quyền này  đã  được    mở rộng  ,  trên thực tế , đến  những  quốc  gia châu Âu  nơi có  các cộng  đồng  Hồi giáo  đến sinh sống   và nơi mà  tín ngưỡng  và thực hành  đạo Hồi  được hưởng  một mức độ miễn trừ không  bị   phê  phán  mà    đa số người Cơ đốc   đã đánh mất và người  Do thái chưa  bao giờ có được . Điều quan trọng nhất  là ,  với rất  ít  ngọai lệ , giới tăng lữ Cơ đốc  không   hành sử hoặc   thậm chí  đòi  phải có  cái thẩm quyền  công khai  vẫn đựơc coi là bình thường  và được   chấp nhận   tại   phần lớn các  quốc gia Hồi giáo .

       Mức độ tin tưởng  và thực hành tôn giáo  cao hơn  ở tín đồ đạo Hồi khi so sánh với những  người theo tôn giáo  khác   chỉ   giải thích   một phần  , chứ không phải là tòan  thể , cái thái độ Hồi giáo độc đáo  đối với chính trị bởi vì   ta cũng  có thể gặp thái độ này  ở các   cá nhân và thậm chí  những  nhóm người mà sự sốt  sắng với niềm tin và thực hành  tôn  giáo  chỉ   có  tính chiếu lệ . Hồi giáo  không  những  chỉ là niềm tin  và  thực hành  , mà còn là 1 bản sắc và sự trung thành –  mà đối với nhiều người , không có gì  vượt qua được bản sắc và sự trung thành .

       Nhìn  bề ngoài  , thì việc du nhập   các ý niệm  phương  tây  về lòng ái quốc và chủ nghĩa  quốc gia   đã thay đổi  mọi thứ   và đưa tới  sự thành  lập một lọat các  nhà nước  cận đại , đã mở rộng  thế giới Hồi giáo   từ Morocco tới Indonesia . Nhưng  những  cái lộ ra  bề mặt  không phải là tất  cả . Kể ra  2 ví dụ cũng đủ . Năm 1923 , sau  chiến tranh lần chót giữa Hilạp- Thổ , 2 chính phủ đồng ý  giải  quyết   các vấn đề    về nhóm dân  thiểu số   bằng  cách trao đổi  cho nhau – người Hi lạp  được chuyển từ Thổ sang Hi lạp  , người Thổ từ Hi lạp  sang Thổ . Ít nhất   thì đó cũng là những gì  mà  các sách lịch sử thuật lại . Nhưng thực tế lại có  phần  khác hẳn .  Trong  nghị định thư mà  2  nước ký tại Lausanne  năm 1923 ,  chỉ nêu  ra thỏa thuận trao đổi ,  không hề nói đến”người Hi lạp”và “người Thổ ‘ . Nghị định thư  nêu rõ những người được trao đổi  là”công dân Thổ    theo  đạo  Chính thống  Hi lạp  đang sống tại  Thổ nhĩ  kỳ   và” công  dân Hi lạp  theo  đạo Hồi   đang  sống tại Hi lạp”.  Như vậy nghị định thư   chỉ thừa nhận   có  2 lọai   bản sắc –  một là  xác định   theo công dân của  1  quốc gia , còn cái kia  là tín đồ của 1 tôn giáo . Nghị định thư  không hề nhắc đến  tính chất dân tộc về mặt chủng tộc  hoặc ngôn ngữ .  Tính chính xác  của tài liệu này  nhằm nêu rõ  ý đồ của các  bên tham gia ký kết đã đựơc xác định   bằng việc  trao đổi trên  thực tế . Nhiều người trong số những người  gọi là  người Hi lạp từ tỉnh Karaman  thuộc  vùng Anatolia        ( Thổ )   nói  tiếng mẹ đẻ là tiếng Thổ   nhưng viết theo mẫu tự Hi lạp   và   theo đạo Chính thống .  Nhiều người trong  số những  người  tạm gọi  là  người Thổ sống  tại Hi lạp chỉ biết  chút ít  hoặc  không biết tiếng Thổ   và thường  nói   tiếng Hi lạp –  nhưng lại viết bằng  mẫu tự   Thổ – Arập.  Một quan sát viên Tây phương , quen theo  hệ thống phân lọai  phương tây , có thể kết luận rằng  những gì  mà  các chính phủ Hi lạp và Thổ nhĩ kỳ thỏa thuận  và  đạt được  không  phải là sự trao đổi và hồi hương   của các nhóm thiểu  số Hi lạp và  Thổ nhưng  đúng ra  là  vừa  trục  xuất  và vừa   lưu đày  – người Hi lạp  Hồi giáo  về Thổ nhĩ kỳ , và người Thổ Cơ đốc  về   Hi lạp . Cho  đến mãi gần đây ,  Hi lạp và Thổ nhĩ kỳ , cả 2 đều   là các nước dân  chủ theo phương tây , một nước   đã là thành viên , nước kia  đang làm đơn  xin gia nhập Liên hiệp  châu Âu ( EU) , đã nêu ra  vấn đề tôn giáo  trong  các văn kiện  nhà nước .

      Ví dụ thứ 2  là Ai cập. Có  ít  quốc  gia  nào  đúng nghĩa hơn  – một  quốc gia  được được định nghĩa sắc  nét  với lịch sử và  địa lý , có 1  lịch sử văn minh liên tục  từ 5000 năm trước  đó . Nhưng Ai cập lại có nhiều bản sắc ,  và  trong 14 thế kỷ gần đây  , tức là từ khi  Hồi giáo Ả -rập chinh phục  Ai cập vào thế kỷ thứ 7  và sau đó  bị Hồi giáo  hóa và Arập  hóa   đất nước này , thì bản sắc Ai cập  ít khi nào đựơc  nổi trội , nhường lại cái tự hào   cho bản sắc   văn hóa và ngôn ngữ Ả -rập  và , trong phần lớn  lịch sử của nước này ,  đã nhường  chỗ cho  bản sắc tôn giáo  đạo Hồi .Với tính cách  quốc  gia ,  Ai cập  là 1 trong những  quốc gia  cổ xưa  nhất  trên thế giới . Còn  Ai cập là   nhà nước-quốc gia   là  1 sự sáng tạo    cận đại , và   vẫn còn phải đối  đầu  với  nhiều thách thức   từ trong nước . Hiện nay , thách thức  lớn nhất  tại  Ai cập   cũng như  tại một số nước  Hồi giáo khác  là do các nhóm Hồi giáo cấp tiến , thường đựơc gọi  sai lệch  là nhóm” chính thống” .

       Kể từ   thời của Người  khai đạo ,  và vì thế trong các kinh  thánh , trong   tâm trí và kí ức của người Hồi  giáo , đạo Hồi   dính liền với  sự hành sử quyền lực chính trị và  quân sự . Đạo  Hồi   kinh điển   thừa nhận rạch ròi giữa  những  việc của thế giới này   và những việc  của thế giới sau , giữa  những   điều quan tâm  sùng  đạo  và  trần tục . Đạo Hồi  không thừa nhận   1  thể chế riêng rẽ , có tôn ti  trật tự và luật pháp riêng , để điều phối  những  vấn đề tôn giáo .

      Liệu  điều này có  nghĩa  là  Hồi giáo  là  1 nền chính  trị thần quyền ?.   Theo chiều hướng  Thượng  đế được  xem như  là đấng cai trị tối cao ,  thì  câu trả lời  quả là đúng  như thế.  Theo chiều hướng 1  chính phủ   cai trị bởi giới  tăng lữ ,   thì hầu như chắc chắn  là không phải. Sự xuất hiện  của 1  hệ thống  thứ bậc  giới tăng lữ   và việc nắm lấy quyền  uy lớn nhất  trong  1   nhà nước là  1 sự cải tiến hiện đại và  là sự đóng góp độc đáo   của cố giáo chủ Khomeini  của Iran  vào tư  tưởng và thực hành  Hồi giáo .

       Cuộc  cách mạng  Hồi giáo  tại Iran , giống như các cuộc cách mạng Pháp và Nga ở nhiều mặt , đã tạo nên 1 tác động to lớn  không những chỉ ở trong nước  và  đối  với dân chúng nước đó   mà  còn  đối với  các  quốc gia  và  dân tộc  có  chung  1 thế giới quan . Cũng  giống như  cách mạng Nga và Pháp   vào thời điểm  nổ ra , cách mạng Hồi giáo  cũng   khơi  dậy  biết bao hy  vọng và nhiệt tình . Giống như những cuộc cách mạng  đó , nó đã dùng  đến  khủng bố rồi    chiến tranh  can thiệp ;  cũng có   các phái Jacobin  và Bolshevik , quyết tâm   đè   bẹp   bất cứ dấu hiệu  nào của chủ nghĩa thực dụng   hoặc  ôn hòa  .  Và cũng giống như các cuộc cách mạng trước , nhất là  cách mạng  Nga , cách mạng Hồi giáo có  cả 1 hệ thống  các  điệp viên và đặc sứ bằng   đủ các cách cố đẩy mạnh  sự nghiệp cách mạng   hoặc ít nhất thì cũng  củng cố cái  chế độ đựơc coi như là đại diện cho  cuộc cách mạng đó.

      Từ cách mạng   bị sử dụng   sai  nhiều   tại vùng Trung  đông  cận đại ,  được  dùng cho – hoặc gán cho-  nhiều  biến cố mà đúng ra theo tiếng  Pháp , đó là đảo chánh  ( tiếng Pháp  coup d’état , tiếng Đức putsh , tiếng Tây ban  nha  pronunciamiento ) . Điều thú vị là ,  theo kinh nghiệm chính trị của  những  dân tộc nói tiếng Anh   lại không  có thuật ngữ tương đương .  Biến cố đang xảy ra  tại Iran  không  giống  chút nào  những  điều  đã  đề cập nhưng theo nguồn  gốc thì   đó là  1   cuộc  vận động   thay đổi có tính thực sự cách mạng . Giống như những  cách mạng trước , có nhiều lúc  lại bị sai lệch quá  đà ,  đưa tới chế độ chuyên chế trong nước , khủng  bố và lật  đổ ở nước  ngoài . Không giống như nước Pháp và nước Nga  cách mạng , nước Iran  cách mạng  không hề có  các phương tiện , nguồn lực   , và  kĩ năng   để trở thánh  cuờng quốc  cũng như 1   mối đe doạ tầm cở thế giới . Mối  đe  doạ của  cách mạng này  chủ yếu  và trước  tiên  chỉ nhằm tới   tín đồ và đạo Hồi mà thôi .

      Làn sóng  cách mạng trong Hồi giáo  có nhiều thành  phần . Một trong những  thành phần  này  là  cái cảm giác  bị lăng nhục :  cảm nghĩ của 1 cộng đồng dân  tộc  quen xem mình  là những người gìn  giữ   duy nhất  chân lý của Thượng đế , được   Người giao cho  nhiệm  vụ mang chân lý  này đến  những  kẻ vô đạo , đột nhiên  lại thấy  mình  bị   cai trị   và  bị bóc lột  bởi những  kẻ vô đạo đó  và , ngay cả khi  không  còn bị cai trị , vẫn còn tiếp tục  chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi những phương cách đã  làm thay đổi  cuộc sống của họ , đẩy  họ   vào những con đường  khác  xa  rời  Hồi giáo chân thực .  Thêm  vào tủi nhục  là sự nản lòng khi  đưa ra nhiều  biện  pháp sửa chữa –  đa số đều  nhập  từ phương Tây về –  để rồi   rồi lần  lượt  đều  thất bại .

      Sau  sự tủi nhục và   nản  lòng  là  1  thành tố thứ 3 , cần thiết   cho sự nổi loạn –   đó là  sự tin tưởng   và  ý thức  về quyền lực  mới . Yếu tố này  xuất hiện  từ vụ khủng hoảng dầu mỏ   năm 1973 , khi ủng  hộ cuộc chiến  của Ai cập chống lại Israel, các nước Ả -rập  sản  xuất  dần mỏ sử dụng việc  cung cấp  dầu  và nâng giá dầu  thành  1  vũ khí rất  hiệu  qủa .   Sự giàu có ,  hãnh diện  và  tự tin   đựơc củng cố thêm  bởi 1  yếu  tố mới – đó là sự khinh bỉ . Khi  tiếp xúc gần gũi   với châu Âu và    Mỹ , các du  khách  đạo Hồi   bắt  đầu nhận xét  và  xem những gì  họ thấy   đựơc  như là  sự suy đồi  đạo đức và  coi đó  là   sự yếu  đuối  của nền  văn minh  phương Tây .

       Trong 1 thời  đại  đầy rẩy những   cung bậc  cường điệu , các ý thức  hệ chao đảo , lòng trung  thành    nhàm  chán    , và các  định  chế rệu rã , thì 1  ý  thức hệ   được  diễn đạt  bằng  thuật ngữ đạo Hồi  đã đưa ra đựơc   nhiều  ưu điểm :  là 1  cơ sở hết sức  quen thuộc   về bản  sắc   riêng  của từng nhóm người ,  là tình đoàn kết  và   chỉ dành cho người trong nhóm ; một cơ sở chấp nhận được  về tính chính  đáng  và thẩm quyền ; một cách phát biểu dễ hiểu  ngay   về các nguyên  tắc phê bình của  hiện tại  và 1 chương trình hành động   trong tương lai .  Qua đó , Hồi giáo  có thể đưa ra   các  biểu tượng và  khẩu  hiệu  hữu hiệu nhất  để huy động   nhằm  ủng hộ hay chống  lại  1 sự nghiệp  hoặc 1  chế độ .

       Các  phong  trào  Hồi  giáo  cũng có 1  lợi thế cực kỳ khác không  hề giống    với  tất cả các  phong trào  khác .  Tại các   đền thờ mosque ,  họ đều  xây dựng 1  hệ   thống liên kết và  thông  tin  mà  ngay cả các chính phủ độc tài nhất  cũng không thể nào kiểm soát hết được .  Thật vậy , các nhà độc tài tàn bạo giúp sức cho họ , dù không cố ý , bằng  cách  loại trừ các nhóm  đối lập  cạnh tranh  .

      Chủ nghĩa Hồi giáo  cấp tiến ( Radical Islamism ) , mà ta   thường gọi là Hồi giáo chính thống ( fundamentalism) ,  thật  ra không phải là 1  phong trào đồng  nhất đơn độc .Có nhiều  kiểu  chính thống Hồi giáo  tại nhiều  nước khác nhau   và đôi khi  thậm chí   chỉ trong  cùng  1 nước . Một  số đựơc nhà nước bảo trợ – được   chính phủ   này  hay chính phủ Hồi giáo  khác công nhận , sử dụng   và  tích cực vận động vào   các mục  tiêu riêng  của họ ;  một số là  các  phong trào quần  chúng  đích thực do nhân dân  lập ra .  Trong  số các phong trào Hồi giáo  do nhà nước bảo  trợ   lại có nhiều loại   ,  cấp tiến   và bảo thủ , có tính lật đổ và  ngăn chặn ( preemptive)  .  Các phong trào  bảo thủ và  ngăn  chặn    là do  các chính phủ đang cầm quyền  xướng  ra , nhằm để tự bảo vệ họ khỏi    làn sóng  cách mạng . Đó là các phong trào  nhiều lần đựơc  các  chính phủ Ai cập , Pakistan   và nhất là Saudi Arabia  khuyến khích .  Còn  loại  kia  , có  tầm quan trọng hơn nhiều , từ cơ sở đi lên , có nền tảng  bình dân  thực  sự . Phong trào đầu tiên    trong  loại này    chiếm được   quyền lực  và hành công nhất  trong  sử   dụng  quyền lực   là  cách mạng  Hồi  giáo  tại  Iran .  Các chế độ Hồi giáo cấp tiến  hiện đang cầm quyền   tại Sudan , và có lúc tại Afghanistan , và   các phong trào Hồi giáo  đang tạo ra các mối đe  doạ chính  cho  cái trật tự   từng  bị lâm nguy ở những nước khác  , nhất là  Algeria và Ai cập .

 Các nhóm  Hòi giáo  chính thống ,  không giống   như các nhóm Tin lành ( Protestant ) – chính   tên gọi  chính thống  vốn là của Tin lành ,  không đưa ra   những   khác   biệt nào  về so với  cái chung  về các vấn đề thần học   hoặc   cách  diễn  giải  kinh thánh .  Phê  phán của họ nằm ở chiều  hứơng  rộng hơn , thuộc về xã hội .  Theo cách nhìn  của họ , thì    thế giới Hồi giáo đã đi sai  đường .  Các nhà  lãnh đạo của   họ tự gọi  mình là tín đồ đạo Hồi , giả vờ là người  đạo Hồi , nhưng thực  ra đó  là những  kẻ bỏ đạo  đã chiếm đoạt   đất  Thánh và chấp nhận  các  luật lệ , phong tục của kẻ vô đạo   xa lạ .   Giải pháp duy  nhất , theo họ , là  quay về lối sống  Hồi giáo đích thực , và vì thế việc  loại bỏ các chính quyền  phản đạo  là bứơc cơ bản đầu tiên .  Theo hướng này , thì  các nhóm  chính thống  đều chống  phương Tây  bởi vì  họ xem  phương Tây   như  là nguồn  gốc  của   tội lỗi đã làm xói mòn xã hội Hồi giáo ,  nhưng  mũi tấn công  đầu tiên  của họ là nhắm  vào   các nhà  lãnh đạo và  cai trị của  họ.  Đó là  các  phong trào  lật đổ vua Shah tại Iran năm 1979   và ám sát  Tổng thống Sadat của Ai cập  2 năm sau đó . Cả 2  phong trào đều đựơc coi như  là  triệu chứng  của 1 tai hoạ sâu xa hơn   cần  phải chữa  trị bằng cách  thanh  trừng  nội bộ . Tại Ai cập , họ  đã  giết  nhà  cai trị   nhưng không  chiếm đựơc  nhà nước  ; tại Iran  họ phá huỷ 1 chế độ rồi dựng nên  1 chế độ   của chính họ .   

      Hồi giáo là 1  tôn giáo lớn  trên  thế giới . Hồi giáo   đã  đem lại phẩm giá và   ý nghĩa cho biết bào cuộc đời  nghèo khó và   buồn tẻ . Hồi giáo  đã dạy   nhiều  người thuộc các chủng tộc  khác  nhau   sống  như huynh  đệ và   dạy  các dân tộc có tín ngưỡng khác nhau    cùng  sống  bên nhau  khoan dung hợp lẽ .  Hồi giáo  là nguồn  cảm hứng   cho   một nền  văn minh lớn  trong đó   cùng  với tín đồ Hồi giáo ,  những  tín đồ tôn giáo khác đã cùng  chia  xẻ cuộc sống  sáng tạo và hữu  ích   và   những thành tựu của nền văn minh này  đã tạo  sự phồn vinh  cho toàn thế giới .  Nhưng  cũng  giống như mọi tôn giáo khác , Hồi giáo   đã trải qua những  giai đoạn  mà   qua  đó làm cho   một  số tín đồ chỉ nhìn  thấy sự thù  hận  và bạo lực . Quả là chúng ta  không may  mắn  khi   phải đối  đầu  với một phần   thế giới Hồi   giáo đang trải qua  1 giai  đoạn như thế và khi  phần lớn – dù rằng  không  phải tất  cả –  của những   sự thù  hận đó  lại hướng về   phía chúng ta .

      Tại sao như vậy ?.   Ta không nên    thổi phồng  tầm vóc vấn đề . Thế giới  Hồi giáo  không hề nhất  trí   về mặt  từ bỏ phương tây  cũng như thái độ thù nghịch  không chỉ có ở những  khu vực Hồi giáo thuộc   Thế giới thứ 3   . Vẫn còn  có một   số   đáng  kể , trong một  số khu vực   lại là đa số,  những tín đồ Hồi giáo    cùng chia  sẻ vơi chúng ta  một  số khát  vọng  và tín niệm   cơ  bản về văn hoá , đạo đức , chính trị và  xã hội ;  vẫn  còn    sự hiện diện  đáng  kể của  phương tây – văn  hoá , kinh tế ,  ngoại giao- tại  các vùng  đất Hồi giáo , trong  số đó  có  một  số là đồng   minh   của phương tây . Nhưng   cũng  có  1  làn sóng thù  hận   khiến ta phải  lo âu ,  hoảng hốt   và  nhất là  làm  rối trí người Mỹ .

 Thường thì  sự căm  ghét này  vựơt  quá  mức độ thù địch  đối với  một  số quyền  lợi  hoặc   hành động  hoặc  các  chính sách   hoặc    thậm chí đối với các  quốc gia  và   trở thành  sự chối bỏ nền  văn minh tây  phương nói  chung , cũng không nhiều hơn  đối   với mức  hiện  có , và đối với  các nguyên  tắc và giá trị mà nền văn ninh này  đang  thực  hiện và rao giảng . Những   đặc trưng của  nền văn minh phương tây  bị người Hồi   giáo coi như là  xấu xa  từ cốt  tuỷ   ,   cho nên  kẻ nào  xiển dương   hoặc  chấp nhận   đều bị coi như  là”kẻ thù của thượng đế” .

       Nhóm  từ này  , vốn đựơc  các nhà lãnh đạo Iran tuyên bố lập đi   lập lại  thường  xuyên   ,  trong các   biên  bản toà án    và  cả trong các tuyên ngôn chính trị , đối với  một  người hiện đại  ngoài cuộc  phải nói  là  rất lạ lẫm , dù   về mặt  tôn giáo hoặc thế tục .  Ý  tưởng cho  rằng Thượng đế có   kẻ thù  , và cần có sự giúp đỡ của con người  để lật mặt  và   xử lý kẻ thù , quả là  hơi khó nuốt . Tuy nhiên , điều này chẳng  hề trái ngược chút nào .  Cái quan niệm   về kẻ thù  của  Thượng  đế    đều  thường gặp  ở thời   cổ đại   cổ điển và  tiền cổ điển , có trong  Cựu  ứơc  , Tân   ứơc  cũng như trong kinh Qur’an.

       Theo Hồi  giáo , thì cuộc chiến  giữa  thiện  và  ác , ngay từ đầu ,   được xét trên bình diện chính  trị và   cả quân sự nữa. Ta  nhớ   rằng  , Muhammad   không những chỉ là  1 nhà  tiên tri và  người giảng đạo   giống như các đấng lập đạo ,  ngài  cũng   là  1 chiến sĩ  và là  nhà  cai trị . Vì  thế , cuộc chiến  của  ngài liên quan đến  1  nhà nước và   lực lượng quân đội .  Trong  cuộc chiến  bảo vệ Hồi giáo- thánh chiến”theo con đừơng của Thượng  đế vạch ra”-   nếu   các chiến  sĩ chiến  đấu cho Thượng  đế , thì đối phương là kẻ chống  lại Thượng  đế. Và  do Thượng đế trên  nguyên  tắc  là đấng cai trị , người  đứng  đầu  tối cao  của  nhà nước Hồi giáo  , cùng với đấng  Tiên tri   và sau đấng Tiên tri là  Caliph , với  vai trò  phó vương , thế thì Thượng đế sẽ là người cầm đầu quân đội .  Quân đội là  quân đội của Thượng  đế và  kẻ thù là  kẻ thù của Thượng  đế . Nhiệm vụ   của  những  người lính của Thuợng  đế   là  đưa   kẻ thù  của Thượng đế đến nơi cho để Người trừng trị càng nhanh  càng tốt  ,  tức là sau khi  chết .

      Vấn đề cốt lõi  làm  bận tâm các nhà  làm chính trị phương Tây hiện nay chỉ là  thế này : Có phải Hồi giáo ,  dù  là  theo phái chính thống   hoặc  phái   khác , là 1  đe  dọa cho phương tây ? . Đối với câu hỏi  đơn  giản này , có  nhiều câu trả lời  đơn giản  , và  do câu trả lời đơn giản  , cho nên phần lớn đều  lạc hướng .  Theo ý kiến  của  1 trừơng phái  , thì sau khi Liên  xô và phong trào  cọng sản  sụp đổ , Hồi giáo  và   chủ nghĩa  chính thống  Hồi giáo   đã thay chỗ cho   2 chủ thể kia  với tính cách  là  1 mối đe dọa   cho phương Tây  và   lối sống phương Tây . Theo ý kiến của 1 trường  phái khác , thì người  Hồi giáo , kể cả những  người  theo chủ nghĩa chính thống  cấp tiến ,  về cơ bản , đều là những người tử tế ,  yêu hòa bình ,  ngoan đạo ,  một  số trong  nhóm này  đã  bị những sự   việc tồi tệ   mà  phương tây đem  đến cho  họ , làm cho họ không thể   chịu  đựng   được  thêm .  Chúng ta  coi  họ là kẻ thù   bởi vì   chúng  ta cần  có  1  kẻ thù  về mặt tâm lý   để thay  thế cho  Liên xô  không  còn tồn tại .

       Cả 2  quan điểm đều  có chứa  sự thật ;  cả 2 đều sai lầm  cực kỳ nguy  hiểm . Hồi giáo  đúng ra  không  phải là  kẻ thù  của phương Tây , và  ngày càng có nhiều người Hồi giáo ở nơi này  nơi khác , không mong  muốn   gì  khác hơn   là có mối liên hệ gần gũi  và thân thiện  với  phương Tây  và  xây dựng   đựơc  những định chế dân chủ tại  nước của họ .  Nhưng cũng  có 1 số đáng kể tín đồ đạo Hồi – nhiều nhưng không phải   tất cả những người theo  phái  chính thống – có thái độ thù nghịch  và nguy hiểm , không  phải vì  chúng ta  cần có 1 kẻ   thù  mà chính họ mới cần.

      Trong những năm gần đây , có  một  số thay đổi  về mặt nhận thức  ,  và  tiếp đến là   chiến thuật   giữa  các  người Hồi giáo .  Một  số    vẫn  coi  phương tây nói chung  và nước Mỹ  đầu têu  hiện nay  là  kẻ thù  cố cựu và không khoan nhượng  của  đạo Hồi , là  trở ngại  đáng gờm  đối với việc   phục hồi niềm tin  và  luật  pháp  của  Thượng  đế ở trong nước  và chiến  thắng cúôi cùng   của  đạo Hồi trên tòan thế giới.  Đối với nhóm  này , không có con  đường nào  ngoài  chiến tranh  quyết tử , để hòan thành  những điều mà   họ coi là mệnh lệnh của  đức tin. Cũng có những  người khác , vẫn là tín đồ tận tụy   và cũng biết  rõ về các khuyết tật  của  xã hội phương  Tây hiện đại , tuy  nhiên  cũng thấy đựơc những đóng góp  của phương Tây – như tinh thần  tìm  tòi học hỏi là nguồn gốc  của khoa học  và kỹ thuật  hiện đại ; sự quan tâm về vấn đề   tự do dẫn đến  chính quyền  dân chủ   hiện  đại . Những người này , trong khi vẫn  giữ  đức tin   và văn  hóa của  mình , lại   cùng chúng ta cố tìm  cách  đi đến  1  thế gíơi tự do  và tươi sáng  hơn . Lại cũng có  những người , trong  khi vẫn coi   phương tây là kẻ thù lớn nhất  và là  nơi sinh ra  mọi điều xấu  xa , tuy nhiên   cũng  ý thức đựơc  sức mạnh của  phương tây   cho nên cố tìm  một  sự thích nghi  tạm thời để   có thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến   cuối cùng . Chúng ta  đừng nên  lẫn lộn  giữa  nhóm thứ 2  với nhóm  thứ 3.

Chương 2

      Nhà chiến  tranh  

      Trong  súôt lịch  sử nhân  loại , có nhiều nền  văn minh xuất  hiện rồi lụi tàn – Trung  quốc , Ấn độ , La mã , và  trước  đó  là  nền văn minh cổ   đại  ở Trung đông . Trong những thế kỷ mà lịch sử châu Âu  gọi là thời   trung cổ , thì nền  văn minh tiến  bộ   nhất trên thế giới   chắc   hẳn là  văn minh Hồi giáo .  Hồi giáo  có thể ngang  bằng – hoặc  thậm chí  trên   một  số lãnh vực  , vượt  xa-  Ấn độ và Trung  quốc ,   nhưng   cả 2  nền văn minh này   chủ yếu   chỉ khu trú tại  1 vùng  và   trong 1 nhóm  dân tộc ,  cho nên  tác động   đối với  phần còn lại của thế giới  vì  thế   cũng  bị giới hạn .  Ngược lại , nền  văn minh Hồi giáo  , lại có tầm nhìn  tòan thế giới  , và ước vọng  cũng  rõ  ràng   như thế .

      Một  trong những nhiệm vụ chính  mà đấng  Tiến tri giao  cho   tín đồ Hồi giáo phải làm  là  thánh chiến ( jihad) .  Chữ   này đi  từ gốc Ả -rập j-b-d   với nghĩa   chính  là cố gắng  hoặc  phấn đấu . Trong  các văn bản  cổ điển  , nó đựơc  dùng sát  với nghĩa   đấu tranh  , và  từ   đó cũng  có nghĩa  là chiến đấu .  Chữ này  thường  đựơc nêu   trong  câu” phấn đấu theo  con đường  của Thượng  đế” trong kinh Qur’an ( IX,24, LX,1 và  v.v… )  và  đựơc  diễn  giải theo nhiều cách  có nghĩa là  sự phấn đấu   về đạo đức   hoặc  chiến đấu  bằng  vũ  lực . Cũng  dễ hiểu là    chữ này có ý nghĩa  gì  tùy  theo  tình huống mà người  ta cố ý gán  ý  nghĩa cho nó.  Trong kinh Qur’an , từ này  xuất hiện nhiều lần , với 2  ý nghĩa   phân biệt nhưng  có liên  quan với nhau   như trên .  Trong những chương đầu , viết  trong giai đoạn  ở Mecca , khi đấng Tiên tri  còn là thủ lãnh của  1 nhóm nhỏ   cố chống lại   nhóm đa  số cầm quyền  , thì từ này    thường có ý nghĩa là sự phấn đấu đạo đức , theo kiến giải của  một số học giả hiện nay .  Trong  những chương  sau ,  đựơc truyền bá  tại Medina , là nơi  mà  đấng Tiên tri   lãnh đạo  một nhà nước  và   chủ huy quân đội , thì từ này  lại có ý nghĩa thực tiển  rõ  rệt hơn .  Trong  số đó   thì ý nghĩa   quân sự là  thẳng thừng nhất .  Lấy  1 ví dụ    để làm rõ : “Những tín đồ nào  ở nhà , nếu không   bị đau ốm , thì  không sánh đựơc với   những  người đem tài sản và  bản thân tham  gia  chiến  đấu  theo con  đường  của Thượng đế . Thượng  đế    đặt  để những ai  đem  tài sản  và thân mình  tham gia  chiến đấu cao  hơn những  ai  ngồi  ở nhà . Thượng đế hứa    sẽ   thưởng  cho tất  cả những ai tin  nhưng  Ngài ưu ái hậu thưởng  những người đi  chiến đấu ,  trên  những  người  ở nhà .  Những tình cảm tương tự cũng  gặp trong  các chương VIII,72; IX,41,81,88 ; LXXVI,9 và v.v…

      Một  số người Hồi giáo  hiện đại , nhất là khi  giao tiếp với thế giới bên ngoài , giải thích nhiệm vụ của  jihad  theo  nghĩa  tinh  thần  và  đạo đức . Đại  đa số những người có  thẩm quyền  của  Hồi giáo  vào giai  đoạn đầu ,  lại  giải thích jihad theo những thuật ngữ quân sự bằng cách trích dẫn   các đoạn liên quan trong   kinh Qur’an , với những lời bình  , và các truyền khẩu   của đấng  Tiên tri .  Luật  Hồi giáo cho  phép  tiến hành    chiến tranh chống   lại  4 loại kẻ thù : kẻ vô đạo , kẻ bỏ đạo  ,  quân  phiến loạn   và kẻ cứơp .  Mặc dù  tất cả 4 loại   chiến tranh  trên   hợp  pháp , nhưng  chỉ có  2 loại đầu    mới đụơc coi là  jihad.   Như   vậy  jihad là 1   nghĩa vụ tôn giáo . Khi bàn về   nghĩa vụ   của  1 thánh chiến , các  luận sư    ( jurist)  Hồi giáo cổ điển  phân biệt giữa chiến tranh   tấn công  và  bảo vệ . Trong chiến tranh tấn công ,  jihad là  1 nghĩa vụ   cho toàn thể mọi tín  đồ Hồi giáo nói chung  , và   như thế   có thể chỉ do  những  người tình nguyện   và  chuyên  nghiệp đảm trách . Trong chiến tranh  phòng vệ ,   đó là 1 nghĩa vụ cho   mọi người  còn  khoẻ mạnh . Chính Usama bin Ladin  dựa vào điểm  này  để kêu gọi chiến tranh  chống lại  nước Mỹ .

      Hầu  như  trong lịch sử Hồi giáo đựơc ghi chép qua 14 thế kỷ ,  jihad thường  đựơc  diễn giải   là  cuộc chiến đấu  vũ trang   để bảo vệ hoặc tiến công   của  quyền lực  Hồi giáo .  Theo  truyền  thống Hồi giáo , thế giới  được chia   ra làm  2 nhà : Nhà   của người Hồigiáo     ( Dar al- Islam) ,  là nơi có   chính quyền   và luật pháp Hòi giáo cai trị , và Nhà của  chiến tranh  ( Dar al – Harb) , là phần còn lại của thế giới , là nơi  sinh sống  và  quan trọng  hơn  , là đựơc cai trị bởi  những  kẻ vô đạo. Đây  là cơ sở để nói rằng jihad  vẫn còn tiếp tục , chỉ bị gián đoạn bởi những   đợt  hưu  chiến  , cho tới  khi     toàn bộ thế giới hoặc chấp nhận đức tin Hồi giáo   hoặc chịu sự cai trị của  Hồigiáo . Những ai  chiến đấu cho jihad  sẽ được  tưởng thửong   ở cả   2 thế giới –  chiến lợi phẩm ở đời   này , và  kiếp sau sẽ lên   Thiên đàng .

      Ở đây cũng giống  như  trong nhiều vấn  đề khác , những lời dạy trong Qur’an đựơc giải thích cặn  kẻ   hơn  trong các hadith , tức là  những truyền  thống   liên  quan đến  lời nói và việc làm của  đấng Tiên tri .  Nhiều  hadith   đề cập tới thánh chiến .  Dưới đây chỉ nêu  vài ví dụ :  
 

      Jihad  là   nhiệm vụ   do  thủ lãnh  giao cho ngươi  , dù  ông ta  thánh  thiện  hay độc  ác .

      Một ngày , một  đêm  chiến đấu ngoài  biên ải còn có giá trị cao hơn   1 tháng   nhịn ăn  và  cầu nguyện

      Đối với kẻ tử vì đạo , vết cắn của  con kiến còn đau hơn là nhát kiếm đâm , nhát  đâm  đối với anh ta còn   dễ chịu  hơn là dòng nước  mát ngọt  ngào  trong  ngày hè nóng bức .

      Cái chết   của  kẻ không qua trận mạc  chỉ là  cái chết  của  kẻ vô  đạo .

      Thượng đế đẹp lòng khi  có chiến tù   ( những kẻ bị Hồi giáo chinh phục  )    bị lôi lên Thiên đàng  trong xiềng  xích .

      Hãy học  cách bắn cung  , bởi vì   khỏang  cách giữa  đích bắn  và người bắn cung   chỉ bằng  chiều rộng  của một  trong  những  khu vườn   trên Thiên đàng

      Thiên đàng  nằm  dưới bóng  lưỡi  gươm . 
 

      Truyền thống   cũng  đưa ra  một  số qui luật   về chiến tranh  khi tiến hành  jihad : 
 

      Nên  đối xử tốt với tù binh

      Việc cướp bóc là điều xấu xa kinh tởm

      Thượng  đế cấm  không  cho giết  phụ nữ và trẻ em

      Người Hồi giáo tôn trọng   các cam kết ,  miễn là  những  cam kết  này hợp pháp .   

      Những văn bản  pháp lý  chuẩn  về shari’a  thường  có  1 chương về jihad , theo nghĩa  quân sự   là 1  cuộc chiến  qui  ứơc chống lại kẻ vô  đạo và  bỏ đạo . Nhưng những  văn bản này cũng  cũng    chỉ ra    hành vi   đúng  và tôn trọng   các  qui luật  chiến  tranh   đối với các vấn đề như khơi mào và  chấm dứt  các cuộc  xung đột   và các   đối xử với    thường  dân  và tù binh ,  đó là chưa  nói  đến  các   sứ giả ngọai giao .

       Trong   phần  lớn   lịch sử Hồi giáo  được ghi chép ,   kể từ khi có  Đấng Tiên tri  trở về sau ,  từ jihad    đựơc  dùng  chủ yếu  theo nghĩa  quân sự . Muhammad   bắt  đầu  sứ mạng  tiên tri  tại  quê nhà , Mecca ,  nhưng  do   đám cầm  quyền  ngọai đạo cai trị thành  phố truy bức   cho nên   ngài  và  các giáo   đồ dời   sang  Medina , nơi đây  các  bộ lạc bản địa chào đón  họ   và  đưa đấng tiên tri  lên   vị trí  nhà hòa giải  , sau đó là thủ lãnh .  Chuyến   di hành   này   theo tiếng  Ả -rập là  Hijra , đôi khi bị gọi trệch đi   thành  Hegira   và  dịch  sai thành”sự tháo chạy”. Kỷ nguyên Hồi giáo  lấy  Hijra  làm mốc tính  bắt  đầu  năm  Ả -rập . Jihad  đầu tiên   do  chính đấng  Tiên tri   ra tay   chống   lại   các nhà  cầm  quyền  tại sinh quán  của ngài  và kết  thúc   bằng  việc chinh   phục  Mecca  vào tháng  chay Ramadan   vào năm thứ 8  sau Hijra , tương  ứng  với  tháng   giêng  năm 630  Tây  lịch .  Giới lãnh đạo  Mecca  đầu hàng   mà không hề chống cự , và người   ở Mecca , trừ những ai xúc phạm đến  Đấng tiên tri  hoặc 1 người Hồi giáo , đều được   bảo đảm an tòan sinh mạng  và tài sản  ,  miễn là   họ ứng  xử phù hợp  với các  cam kết.   Nhiệm vụ tiếp theo  là  nới  rộng    quyền  lực   Hồi giáo  đến   các vùng  khác thuộc  bán đảo Ả -rập ,  và  đến   phần còn lại  của  thế giới ,  do các Calip  là  những  người kế tục  của  đấng Tiên tri .

      Trong những năm đầu của kỷ nguyên  Hồi   giáo , điều này   dường như   khả dĩ ,   có khả năng thưc hiện đựơc . Chỉ trong 1 thời gian ngắn , các đội quân  bách thắng  đã  xóa sổ   đế quốc Ba tư  cổ đại  và   sáp nhập  tất  cả lãnh thổ của đế quốc này   vào cương thổ   dưới quyền Caliph,  mở lối   xâm lăng  vào Trung  Á  và Ấn độ .  Về phía tây , Đế quốc Byzantine  tuy chưa  bị đánh bại , nhưng  phần lãnh thổ lớn cũng   đã  bị tước  mất .  Rồi   các tỉnh theo Cơ đốc  giáo  tại Syria ,Palestine, Ai cập   và Bắc Phi  cũng bị thu tóm và  sau đó  trở thành  các địa  phương  bị Hồi giáo  hóa và   Ả -rập hóa  và  đây là bàn đạp  để tiến công   sâu hơn  vào  châu Âu , chinh phục  Tây ban nha  ,  và Bồ   đào  nha   và phần lớn  miền nam nước Ý .  Vào đầu thế kỷ  thứ 8  , đội quân Ả -rập  còn  vựơt  qua  cả dãy Pyrenées  để sang nước Pháp .

      Sau nhiều thế kỷ dừơng như lúc nào cũng chiến thắng ,  jihad của người Ả -rập  cuối cùng  bị   châu Âu Cơ đốc  giáo chặn đứng  và đẩy  lùi   về phía đông  , người Byzantines  giữ vững  thành  phố Constantinople   theo  Cơ đốc  giáo ,   đẩy lùi nhiều   lọat   tấn công   của  người Ả -rập .  Về phía tây , người Cơ đốc  giáo  bắt  đầu  1 tiến trình  dai  dẵng ,  dài hơi  mà trong lịch sử Tây ban  nha   gọi là Reconquista  , hoặc là  Cuộc tái chinh  phục ,  dần   dần  hất cẳng người  Hồi giáo  ra khỏi  những lãnh thổ bị chiếm   ở Ý và bán đảo  Iberia. Họ cũng  cố thử đưa công cuộc  tái chinh  phục  sang  miền  Trung  đông   ,  và nhằm  lấy lại  đất Chúa , đã bị   người  Hồi giáo chiếm hồi thế kỷ thứ 7 .  Cố gắng này  đựơc  gọi là Thập tự chinh  đã bị   thất bại hòan tòan   và  các Thập tự binh   đã tháo lui trong hỗn  lọan .

      Nhưng  jihad   không  dừng  ở đó .  Một giai đoạn mới lại mở màn , lần  này   không phải do người Ả -rập   mà do những  kẻ tân tòng ,  đó  là người Thổ và  người  Tatar. Họ chiếm lấy  vùng  Anatolia vốn  của  người Cơ đốc  giáo ,  và  vào tháng 5/1453   họ chiếm  lấy Constantinople ,  đô thị này   từ đó trở về sau   trở thành  kinh đô   của các  sultan đế quốc    Ottoman  ,   là những  người kế nghiệp  các Caliph  lãnh  đạo   các jihad . Các  Ottoman  tại bán đảo Balkan  và  những   người Tatar   cải đạo   Hồi   tại Nga  quay  lại   cố chinh   phục   châu Âu ,  lần này đi từ hướng đông , và   có lúc  dường như cầm chắc  phần thắng .

      Nhưng một lần nữa   châu Âu  Cơ đốc  giáo   lại  đủ sức trục  xuất  các kẻ xâm lược  và    lần này   lại thành công hơn  , chống lại đựơc  thế lực  Hồi giáo .  Vào lúc này  jihadđã  hầu như chuyển  sang  thế phòng vệ – , chống lại  cuộc tái chinh phục  tại Tây ban  nha  và tại Nga ,   chống  chọi  với  các phong trào  tự giải phóng  dân  tộc  của các thần dân Cơ đốc  giáo   trong  đế quốc  Ottoman   , và cuối cùng là , như người Hồi giáo nhìn nhận ,   là để bảo vệ   ngay chính  trung tâm  Hồi giáo  khỏi  những   cuộc tấn công   của kẻ vô đạo .  Giai đọan này  được gọi  là chủ nghĩa  đế quốc .

      Ngay cả trong  giai  đoạn thoái  lui này , hình thức tấn  công  của thánh chiến  jihad cũng  không hề bị   từ bỏ .  Cho   mãi đến 1896 , người Afghan    xâm  lăng  vùng   Hindu Kush  đầy núi non  hiện nay  là   vùng đông bắc Afghanistan .  Cho tới thời điểm đó  , dân  cư ở đây  không  phải  là người  Hồi giáo  ,  và  vì thế vùng đất này  đối với  người Hồi giáo là Kafiristan , tức là”đất của những người không  tín ngưỡng”. Sau khi bị người Afgan chinh phục , vùng   đất này đựơc   đặt tên    lại là  Nuristan”vùng  đất của ánh sáng”. Trong cùng thời gian , jihad dưới nhiều   hình thức  đã đựơc   tiến  hành  tại  châu Phi  để chống lại những  người không theo Hồi giáo . Nhưng  trong phần lớn các trừơng hợp ,   quan  niệm , thực hành   và kinh nghiệm của jihad  trong thế giới  Hồi giáo hiện đại   chủ yếu  mang tính  tự vệ .

      Từ này đựơc  sử dụng nhiều trong  quân  sự còn tiếp tục   đến  các thời  kỳ cận  đại gần  đây .  Trong  đế quốc Ottoman , thành  phố Belgrade ,  một tiền đồn  trong cuộc chiến chó6ng lại người Áo  , đựơc   đặt  cho  một  cái tên có  vần  điệu  là  Dar al –Jihad (  Nhà của Jihad) .  Vào đầu thế kỷ 19 , khi  Muhammad ‘Ali Pasha , nhà  lãnh đạo  chủ trương  canh tân  của Ai cập ,  tiến  hành  cải cách     và   quản lý  quân đội  theo  kiểu Anh  và Pháp ,   đã đặt  ra “1  bộ chiến tranh”  để   điều  hành quân đồi . Theo  tiếng Ả -rập thì  bộ này có tên  là Bộ các vấn đề thánh chiến ( Diwan al –Jihadiyya)  và  đứng  đầu là  Quan  giám  sát   các  vấn đề thánh chiến ( Nazir al –Jihadiyya) .  Cũng  có  thể nêu ra  một  số vi  dụ khác  cho thấy  từ jihad  không còn  ý nghĩa  thánh  thần nữa  mà chỉ còn giữ hàm ý  quân sự .  Vào  thời cận đại  người ta  sử dụng lại  cả 2  ý nghĩa  quân sự và   đạo đức , nhưng   cách hiểu lại khác nhau   và  mỗi người áp dụng  mỗi cách .  Các tổ chức lớn tiếng xưng  danh Jihad hiện nay  , tại Kashmir , Chechnya ,Palestine  và  những chỗ khác   rõ ràng là không hề sử dụng tử này   theo nghĩa   phấn đấu  về mặt  đạo đức .

      Đôi khi Jihad được  xem như là  Thập tự chính của Hồi giáo, và  2  hình thức này được coi như  ít nhiều tương đương với nhau . Trong một  chừng mực nào  đó , điều này đúng –  cả 2 đều  được công bố và phát động    dưới dạng  thánh chiến  của  đức tin  chân chính chống  lại   kẻ thù vô đạo . Nhưng  ở đây có  sự khác biệt . Thập tự chinh là 1  hình thức phát triển    mới   trong lịch sử Cơ đốc  giáo  và  trong một chừng mực  là  một sự tách  rời căn  bản   ( radical ) ra khỏi những giá trị Cơ đốc  giáo cơ   bản được rao  giảng trong  Thánh kinh . Thế giới Cơ đốc  giáo luôn  bị tấn công từ thế kỷ thứ 7 , và  đã bị người  Hồi  chiếm nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn ;  quan niệm   về    1 cuộc chiến thần thánh ,hoặc thông  thường  hơn , là 1 cuộc chiến  có chính nghĩa cũng  đã  có từ xa  xưa . Tuy nhiên trong cuộc chiến   dai dẳng giữa đạo Hồi và  đạo Cơ đốc  , thì  thập  tự chinh  chỉ mới gần đây ,  qui mô hạn chế   và thời gian xảy ra tương đối  ngắn .  Jihad xuất hiện   từ lúc có  lịch  sử đạo Hồi –  trong kinh sách , trong cuộc  đời  của đấng  Tiên tri  , và  trong hành động  của   các giáo đồ cũng như  những người kế tục sau ngài .  Jihad đã liên tục hiện diện trong lịch sử đạo Hồi  và vẫn còn  giữ nguyên  tính cách  cho  đến ngày  nay .  Dĩ  nhiên là từ thập tự chinh   đi  từ gốc là  thập ác  và   nguyên  uỷ   chỉ dành cho  cuộc thánh chiến đối với người  theo đạo Cơ đốc  . Nhưng     trong thế giới Cơ đốc  giáo   ý nghĩa này đã  mất  từ lâu   và ngày nay thường được dùng  với nghĩa   là 1  nỗ lực  đạo đức   dành cho 1   thiện ý . Ta có  thể phát động  1  cuộc thập tự chinh vì  môi trừơng , vì  nước  sạch  ,  vì  các  dịch vụ xã hội tốt hơn , vì  nữ quyền  và cho nhiều  ý đồ   khác . Điểm  chính là ngày nay từ thập tự chinh  không  đựơc dùng  đúng  theo  ý nghĩa tôn  giáo ban đầu . Jihad  cũng được   dùng theo nhiều nghĩa khác nhau , nhưng không giống như  từ thập tự chinh,  nó  vẫn   giữ được  ý nghĩa gốc ban đầu .

      Những ai   bị giết   trong  Jihad  được   gọi  là tử vì đạo ( martyr) , theo tiếng  Ả -rập  và các ngôn ngữ Hồi  giáo khác  là shahid . Tiếng  Anh  martyr đi từ tiếng Hi lạp martys có nghĩa là” nhân chứng”và  theo  tập  quán Cơ đốc  – Do thái  dùng  để chỉ những ai sẳn  sàng   chịu tra tấn   và  chết    thay   vì  từ bỏ đức tin . Như   vậy hành động tử vì đạo của người này  là   1 sự chứng kiến  hoặc  sự chứng  thực  đối với  đức tin đó , và  sẳn lòng  chịu chết vì  đức tin  này . Trong tiếng Ả -rập , shahid cũng  có  ý nghĩa” chứng kiến”và thường đựơc  dịch   thành”martyr” ,  nhưng    từ này lại có  1 hàm ý  khá  khác  biệt . Theo  thông lệ   đạo Hồi ,  thì   từ tử vì đạo ( martyrdom)   thường để chỉ cái chết   vì  jihad   và   phần thưởng được  sung sứơng bất diệt  trên thiên  đàng , được  mô tả chi tiết  trong những kinh sách tôn giáo sơ kỳ . Ngược lại ,  tự sát , là 1 trọng tội  và   đời  đời bị nguyền rũa ngay đối với những  người  đáng lẽ được  lên thiên đàng .  Các  luật  gia  cổ điển   phân biệt  rất  rõ  giữa  cái   chết  do  kẻ thù   gây ra  và cái chết  do  tự tử . Chết   do kẻ thù giết  sẽ lên trời , còn  tự tử sẽ   xuống địa ngục . Một số luật  gia  phe chính thống gần đây  cùng  một  số người khác  đã cố ý đánh đồng  và thậm chí   bỏ qua  sự khác biệt này , nhưng quan điểm  của họ không hề đựơc  chấp nhận rộng  rãi . Kẻ đánh  bom  liều chết  như  thế đã vi phạm  đáng kể vào điều cốt lõi về mặt thần  học .

      Vì lẽ thánh chiến   là 1 nghĩa  vụ đối với đức tin , cho nên   được qui định cặn   kẻ trong  shari’a .  Các chiến binh  jihad  không được  giết  phụ nữ , trẻ em  và người già  nếu không bị tấn công  trước , không đựơc hành  hạ tra tấn  tù  nhân ,  không được  tấn công  mà không  báo trước  sau  hưu chiến  và  phải tôn trọng các   cam kết. Các luật gia  và  thần  học thời trung  cổ đã thảo luận khá nhiều  về các qui luật chiến tranh , có cả những vấn đề như vũ khí nào được phép  và không  đựơc  phép  sử dụng . Thậm chí  trong  các  văn bản thời trung cổ lại bàn đến  tính  hợp lệ của chiến tranh hoả tiển và  hoá học ,  hoả tiển tức  là  các máy  bắn đá (mangonel) và máy lăng  đá ( catapult)  , còn hoá học  là  tên  có tẩm thúôc độc  và bỏ thuốc độc  vào các nguồn  nước uống  của kẻ thù . Về những điểm  này có  sự sai biệt  đáng kể . Các luật gia ,   có người  cho  phép , có  người hạn chế , có người không  nhất trí  về   việc  sử dụng những  vũ khí   này . Lý do  đưa ra  là những   vũ khí  trên  gây ra số thương vong bừa  bãi . Trong các kinh sách   chính   Hồi giáo không có  đoạn nào  cho phép khủng bố và ám sát . Trong kinh sách thậm chí không có điểm  nào –   theo  tôi biết  cho đến  nay  ( tác  giả- BL ) – bàn tới   việc  tàn sát bừa  bãi những người  vô  tội .

      Các  luật gia cũng  nhấn  mạnh  là chiến lợi phẩm phải đựơc  coi là 1 nguồn lợi  phụ , không phải là mục tiêu chính . Một  số người còn đi  xa hơn nữa khi cho rằng nếu  coi chiến lợi phẩm    là  mục  đích chính  thì sẽ làm giảm  ý nghĩa  và tước  đi những lợi  ích do Jihad mang lại  hoặc   trước mắt   hoặc  về sau này  .Jihad ,  nếu  muốn  hợp lệ ,  phải được  tiến hành”theo con đường của Thượng đế” ,  và không  đựơc vì  quyền lợi vật chất .Tuy nhiên , có nhiều tiếng  than  phiền  về việc  sử dụng  từ Jihad  đáng tôn kính cho  những  mục đích  đáng   hỗ thẹn  . Đặc biệt là  các  luật gia người Phi  phàn nàn  về việc các tay  buôn  nô lệ sử dụng từ Jihad để biện minh   cho sự cướp bóc  và đòi  quyền  làm chủ nô đối  với các  nạn nhân . Luật thánh đòi hỏi phải  đối  xử tốt với những người  không tham gia chiến đấu  nhưng lại cho phép kẻ chiến thắng nhiều  quyền  rộng  rãi  đối với tài sản  và  cả đối với nhân  thân và gia đình  của  kẻ chiến bại .Theo  những tập tục chung thời  cổ đại , kẻ thù  bị bắt   trong chiến trận và cùng  với  gia đình  sẽ   trở thành nô lệ ,   người  chiến thắng có thể đem  bán hoặc giữ lại để sử dụng . Hồi giáo  thay đổi  luật này  chút ít  bằng cách hạn  chế quyền  bắt làm nô lệ   này đối  với  những ai bị bắt  trong jihad  nhưng  đối với  các hình thức chiến tranh khác thì không có .

      Các luật lệ chiến tranh đối với  kẻ bội giáo có phần nào khác  và nghiêm khắc hơn  đối  với các luật về chiến tranh  đối với  kẻ vô đạo . Kẻ bội giáo dứơi mắt  người Hồi giáo  còn   tệ hơn là kẻ vô đạo . Kẻ vô đạo là người chưa  từng thấy đựơc ánh sáng , và luôn  hy vọng  rằng  một ngày nào đó  họ sẽ nhìn  thấy . Chừng nào mà họ còn tuân thủ một số điều kiện , thì  họ vẫn còn   nhận đựơc sự khoan dung của nhà nước Hồi giáo   và cho phép họ tiếp tục  giữ đạo  , thậm chí  việc tuân thủ các luật lệ tôn giáo của mình . Kẻ bội giáo  là  người đã  biết đựơc   đức tin  chân chính , dù là ngắn   ngủi , rồi  lại từ bỏ .  Tội này  con người không thể tha thứ được , và theo  đại đa số các luật  gia ,   kẻ phản bội phải chết – nếu là  đàn ông . Đối với  đàn  bà , do trách nhiệm đựoc  coi là ít hơn , chỉ cần  đánh roi  và  bỏ tù là đủ . Thượng đế nhân từ có thể tha thứ cho kẻ phản  bội   vào kiếp sau , nếu Ngài  muốn . Còn  con người  thì không có  thẩm quyền  như thế .  Sự phân biệt này hiện nay có phần  quan trọng , khi các nhà lãnh đạo hiếu chiến  kêu gọi 1jihad    2 mặt –  chống  lại kẻ vô đạo bên ngoài  và chống lại kẻ bội giáo bên trong . Phần lớn , nếu không phải là tất  cả các nhà lãnh đạo Hồi giáo   mà  phương Tây chúng  ta coi như  là  bạn  và  đồng minh  thì  lại bị đa số dân chúng  của họ coi  như  là  kẻ phản bội , và tệ hơn  nữa là kẻ bội  giáo.

      Từ thời  xa xưa ,  có sự phân biệt về luật pháp  giữa những  lãnh thổ   chiếm đựơc  bằng  vũ lực ( tiếng  Ả -rập là ‘anwatan, tương  đương    với   vi et armis  của  các luật  gia  La mã )  và sulban  những lãnh thổ có đựơc qua  hình thức hưu chiến  hoặc  đầu  hàng hoà bình .  Qui định   về   của  cải cướp được   , và khái  quát hơn , là   cách đối  xử với dân chúng tại  các  vùng đất   mới chiếm   có  khác nhau   ở nhiều mặt . Theo truyền thống , sự khác biệt đựơc  hình tượng hoá tại nhà  thờ vào  mỗi ngày thứ 6 .  Tại các  vùng đất chiếm được , anwatan ,  giáo sĩ mang  1 cây gươm ,  tại vùng đất qui phục sulban ,  giáo sĩ  cầm 1 cây  gậy gỗ .  Hình ảnh lưỡi gươm  vẫn còn  đóng vai trò quan trọng . Cho tới ngày nay,    quốc  kì của  Arabia Saudi  có  2 biểu hiện  trên nền  xanh  lá cây . Một là  dòng chữ Ả -rập nêu rõ  niềm tin Hồi giáo” Thượng  đế chỉ có 1 , Muhammad  là  Tiên tri  của Người“.  Biểu  tượng kia hình  ảnh  cây  gươm không lẫn vào đâu đựơc .

      Có một số thời kỳ , các luật   gia thừa nhận  1 tình  trạng trung gian giữa  nhà  Chiến  tranh   và Nhà  của Islam , đó là nhà  Hưu chiến (  Dar al-Sulh)   hoặc  Nhà của giao ứơc ( Dar al-‘Ahd)  . Nhà này bao gồm  những   quốc gia không  theo Hồi giáo , thường là Cơ đốc  giáo , khi các lãnh đạo những nơi này  có ký kết   với  các nhà lãnh đạo  Islam   để   nộp    thuế hoặc cống  vật , coi như là tương đương   với jizya hoặc thuế thân để được phép tự chủ đối với các  vấn đề nội trị . Ví dụ đầu tiên  là   cam kết   giữa  Caliph Umayyad ký vào thế kỷ thứ 7   với các ông  hoàng  theo đạo  Cơ đốc  tại Armenia . Ví dụ cổ điển  của  Nhà  Hưu  chiến  là  hiệp nghị cam kết   vào năm 652  với các  nhà  cai trị Cơ đốc  tại xứ Nubia  , theo đó xứ này  không phải nộp thuế thân , nhưng   hàng năm  phải tiến cống  một số nô lệ   nhất định .  Qua  cách    coi quà tặng như  là  1  hình thức tiến cống , các nhà lãnh đạo Hồi giáo   và các cố vấn pháp lý   có  thể điều chỉnh  luật pháp   xử lý  nhiều  mối quan hệ chính trị , quân sự   và thương mại với  các cường quốc không phải Hồi giáo. Phương thưc này  không hẵn  hoàn toàn  biến mất .

      ……….. 
 
 

      Ngay từ đầu , người Hồi giáo  đã biết  rằng  có  sự khác biệt giữa các dân tộc trong Nhà   chiến tranh . Phần lớn   các dân tộc này    thờ nhiều  thần  và thờ ngẩu tượng ,  là người  không hề gây nguy cơ  nghiêm trọng nào đối   với đạo  Hồi   và   là đối tượng  có khả năng  cải   đạo . Những  dân tộc này chủ yếu sống  ở   châu Á  và châu Phi  . Ngoại  lệ    chính là các  tín đồ Cơ đốc  giáo , được  người Hồi giáo   thừa nhận  là  có  1 tôn giáo giống như họ , và  như thế chính là kẻ kình  địch  số 1   trong  việc thống trị thế giới – hoặc  nói theo cách của họ , là sự giác ngộ thế giới (  enlightenment) .Đạo  Cơ đốc  và đạo Hồi  là  2  nền văn minh  đựơc  xây dựng  trên cơ sở tôn giáo   cho nên  xung đột  với nhau không phải  vì sự khác biệt  mà  chính do  sự giống  nhau  .

      Công trình Hồi giáo  xưa nhất  còn sót lại    nằm  ngoài  bán đảo Ả -rập  là Nhà thờ Đá   tại Jerusalem , hoàn tất  vào năm 691  hoặc 692 C.E.  Công trình này  được  xây trên  nền  1  đền thờ Do thái  cổ ,  theo  1 phong cách riêng   và  nằm gần  các   nhà thờ Cơ đốc  giáo  như  Mộ thánh   và Nhà thờ Chúa lên  trời  , là  1  thông điệp rõ  ràng  cho  người  Do thái , và quan trọng  hơn  , người  theo  đạo Cơ đốc  . Đó  là: những mặc khải của họ ,  tuy rằng  có lúc   xác thực  , nhưng  sau  đó bị những  kẻ thủ tự thiếu tư cách  làm hư hỏng  đi  cho nên   được thay thế bằng  sự mặc khải   cuối cùng  , toàn bích   hơn    nằm  trong  giáo lý Hồi giáo . Cũng như người Do thái  bị người Cơ đốc khuất phục  và   thay thế , thì  cái trật tự thế giới  Cơ đốc ngày nay  phải  được thay thế bằng  tín ngưỡng  Hồi giáo   và  các  Caliph   đạo Hồi .  Để nhấn mạnh điểm này , tại nhà   thờ Đá  có trích  những dòng từ kinh Qur’an nêu rõ  cái mà người Hồi giáo  coi là   sai lầm  của  đạo Cơ đốc” Vinh danh thay  Thượng  đế , không ai là con , là  bạn của người”và”Người là Thượng đế , chỉ có  một  , đời đời . Người không   sinh   , không ai sinh ra  Người  và  không  ai sánh bằng  Người“( Qur’an CXII) .  Điều này  quả là  một  sự thách  đố đối với  đạo Cơ đốc ngay   tại  nơi  phát sinh .  Một thiên niên kỷ sau  việc  đồn trú của  lính  Mỹ tại  Arabia  được nhiều   tín đồ Hồi giáo  và  nhất là Usama  bin Ladin  coi như là  1 thách đố tương tự , lần này  là  đạo Cơ đốc  đối với  đạo  Hồi .

      Để   làm rõ thêm  sự thách thức  đầu tiên này đối với  đạo Cơ  đốc , lần đầu tiên , vị Caliph   cho đúc đồng vàng ,  mà từ trước đến nay   chỉ có  người La mã  độc quyền .  Điểm  đáng nói  là  đồng tiền vàng Hồi giáo  đầu tiên , đồng dinar ,   lại mượn  từ   chữ La mã  denarius .  Một số   đồng tiền    có tên  vị Caliph ,  danh hiệu  là  Thống lãnh  các tín đồ , và một số câu thơ  đầy  tính luận chiến . Thông điệp rất rõ ràng . Theo cách nghĩ của Hồi giáo , thì   người Do thái, và sau  đó là người Cơ đốc đã  lầm lạc   đi  theo  những tín điều  giả dối .  Vì thế , cả 2  đạo  đều bị loại bỏ , và thay thế bằng  đạo Hồi , là  sự mặc  khải  cuối cùng  và hoàn hảo  của Thượng đế theo thứ tự . Những  câu thơ trong kinh Qur’an  được  viết  tại  Nhà thờ Đá   và trên các đồng tiền vàng  qui tội cái  mà  theo người  Hồi giáo   là những điều  sai lạc tệ hại  nhất  của   đức tin chân  thực . Dĩ nhiên  còn có  thêm  một thông điệp nữa của Caliph gởi cho Hoàng đế Cơ đốc  “Đức tin  của ngươi  đã bị băng hoại , ngươi  đã hết thời rồi. Ta đây  mới  là người cai trị của đế quốc  của  Chúa  trên   trần  gian này“.

      Thông điệp  đựơc hiểu  rõ , và  Hoàng đế coi việc đúc tiền vàng như là  lý do  tuyên chiến ( casus belli) . Trong hơn một ngàn  năm , cuộc chiến  đựơc   các Caliph Hồi giáo phát động  từ nhiều kinh đô khác  nhau ở Medina , Damascus , Baghdad, Cairo   chống lại các Hoàng đế Cơ đốc giáo  tại  Constantinople , Vienna  và    các  danh xưng khác sau  này  , tại các  quốc gia   phương tây xa  xôi  hơn. Mỗi   vị vua ,  trong dời  của  mình , đều là đối  tượng chính của   Jihad.

       Dĩ nhiên , trong thực tế , việc áp dụng học  thuết về jihad  không phải lúc nào cũng  bạo lực hoặc khắc nghiệt . Tình trạng  chiến tranh  đúng theo  qui tắc    có  thể   tạm ngưng  theo hình thức đựơc  luật pháp qui định như hưu  chiến ,  nhưng hưu  chiến  này   lại khác  ít nhiều  với   cái gọi là  hiệp  uớc hoà  bình  do các cường quốc  phương  Tây ký  với nhau . Đó  là  những cuộc hưu  chiến do  Đấng  Tiến  tri  ký với  các kẻ thù  vô  thần  của  mình , và đã trở thành  cơ sở cho  những gì mà ta gọi là luật  quốc tế của  Hồi giáo .  Theo Shari’a , phải có nhiệm vụ khoan dung  đối với các tôn giáo  đã có  từ trước  do mặc khải thần  linh             ( Qur’an II,256: Không được ép  buộc  trong  tôn  giáo“) . Tại  các vùng đất  do   Hồi giáo cai trị ,  luật Hồi giáo cho  phép người Do thái và Cơ đốc  được    giữ đạo   và  quán xuyến  công việc của mình ,  nhưng phải chịu  một số bó  buộc  , quan trọng nhất  là thuế thân đánh vào  nam giới trưởng thành . Thuế này , được gọi là jizya ,   đựơc  noi rõ trong  Qur’an :IX,29 :” Hãy đánh lại  những  kẻ   nào không tin vào Thượng đế   hoặc   không tin vào ngày phán xét , những  kẻ nào không cấm những điều  mà  Thượng đế   và các sứ đồ của Người  đã tuyên bố cấm , những kẻ không theo tôn giáo  của  chân  lý  , dù rằng chúng có là  dân có tên trong Sách  thành ( tức là người Do thái và  Cơ đốc )  , cho tới  khi  chính bản thân   chúng  khúm núm chịu nộp thuế jizya“. Những dòng sau   đã được  diễn giải theo nhiều cách khác nhau , về mặt văn chương cũng như   trên  thực  tiển .

      Những hạn  chế khác   như không được  mặc quần áo  hoặc dấu hiệu nổi bật , cấm không được mang vũ khí , cởi ngựa , mua nô lệ Hồi giáo  hoặc  xây nhà cao  hơn  nhà  người Hồi giáo .Trừ 2 điều sau  và  thuế thân jizya ,  còn những cấm đáon trên  không phải lúc nào cũng  phải tuân thủ chặt chẽ .   Bù lại ,  những    thần   dân không theo  Hồi giáo  trong  1 nhà nước Hồi giáo  lại được hưởng quyền tự quản  rất lớn  khi xử lý   những  vấn đề thuộc  nội bộ cọng đồng bao gồm  giáo dục , đánh  thuế và  thực thi luật   của riêng họ   liên quan đến nhân thân , nhất là trong hôn nhân , li dị và  thừa kế . Thoả ứơc  hoặc  hợp đồng giữa nhà nước Hồi giáo  và  1 cọng  đồng  dân cư  không – Hồi giáo  đựoc gọi là  dhimma , và  người  trong  cọng đồng  đựơc  nhà nước  Hồi  giáo bao dung  được gọi là  dhimmi .  Theo ngôn ngữ hiện đại , người Do thái và Cơ đốc  trong 1 nhà nước  Hồi giáo  cổ điển  là  các công   dân hạng  hai, nhưng quyền  của công dân hạng  hai , đựơc  xác định  bởi luật pháp   và  mặc khải   và  đựơc  công  luận thừa nhận ,  lại còn tốt  hơn nhiều  so  với việc  hoàn toàn không có   quyền công dân  dành cho những người không theo Cơ đốc giáo  và  ngay cả đối với  một số người Cơđốc  lệch lạc  tại phương Tây .

      Jihad  cũng cũng không ngăn cản  các chính phủ Hồi giáo tìm kiếm đồng minh Cơ đốc  để chống  lại  các  kình   địch  là Hồi giáo khác  , ngay cả trong thời gian xảy ra Thập tự chinh .  

Chương  III

     Từ quân Thập tự chinh đến quân Đế quốc chủ nghĩa   

      Các cuộc  Thập tự chinh hiển hiện rất  rõ  trong  tâm thức  và ngôn  từ vùng Trng đông   hiện đại  ,  đối với cả những người theo chủ nghĩa quốc gia  Ả -rập   và   tín đồ chính thống Hồi giáo , nhất là  Usama bin  Ladin .  Nhưng  không  phải lúc nào cũng như vậy .

      Việc các chiến  binh  Thập tự  chinh  chiếm đóng  Jerusalem    vào năm 1099 CE     là 1 chiến thắng của đạo Cơ đốc  , nhưng lại là 1 tai họa   cho người Hồi giáo  và   cho  cả người Do thái sống trong thành phố . Căn cứ theo  tài liệu lịch sử thời kỳ này , thì  việc chiếm đóng này  không  được quan tâm  mấy trong khu  vực . Những  lời  kêu cứu cầu viện    của dân Hồi  giáo  bản địa  không đựơc Damascus  và Baghdad trả lời ,    và các  lãnh địa mới do   Thập tự chinh thành lập  chẳng  bao lâu  lại chui  vào  cuộc đỏ đen chính trị của  vùng  đất mặt trời mọc ( Levantine ) , gồm các liên minh giữa các tôn giáo  để giải quyết những tranh giành quyền lực   giữa các ông hoàng đạo Hồi  và Cơ đốc .

      Cuộc chiến tranh chống  Thập tự chinh  cuối cùng  đánh bại  và  đuổi được quân Thập tự chỉ xảy ra  sau đó 1 thế kỷ . Nguyên do  trực tiếp  là các hoạt động cứơp bóc tràn lan  của 1  lãnh tụ quân Thập tự , Reynald   od Châtillon , người vây  hãm  pháo đài  Kerak , hiện  nay là  nam Jordan , trong thời gian từ 1176   và 1187 CF ,   và   từ đó  tung  ra 1 loạt  các cuộc tấn công vào   các thương đoàn Hồi giáo   tại các vùng  phụ cận , kể cả Hijaz . Các  sử gia chuyên   về Thập tự chinh  có  lẽ đã đúng   khi nói rằng  động cơ của Reynald  chủ yếu là kinh tế , nói cách khác  ,  là ý đồ cướp bóc. Nhưng người đạo Hồi  lại cho rằng những chiến  dịch của ông ta có tính khiêu  khích  và thách  thức  nhằm    tấn công  các vùng đất  thánh của đạo Hồi . Vào năm 1182 , bằng cách   vi phạm    cam kết giữa  vua  của quân Thập tự   tại  Jerusalem và   vua Hồi giáo là Saladin , Reynald   đã tấn công  và đánh cướp  các  thương đoàn Hồi giáo , kể cả 1 đoàn  hành hương  đi  Mecca. Lại càng  xấc  xược  hơn theo quan điểm  đạo Hồi ,   khi ông ta đe doạ Arabia , nhất là  cuộc hành  quân  cứơp  bóc   tại Biển Đỏ , khi tấn công vào  các thuyền bè Hồi giáo   và tại các cảng Hijaz  phục vụ cho Medina  và Mecca . Chính do những biến cố   này  dẫn tới việc Saladin  đích thân   tuyên  bố Jihad  chống lại quân Thập tự chinh – đây là  một minh chứng hùng  hồn  về vai trò trung tâm  của  bán đảo Arabia trong  nhận thức  của  người theo đạo Hồi .

       Những  chiến  thằng  do  Saladin đạt được  và  sau đó  chiếm  lại đựơc Jerusalem   từ quân  Thập tự chinh  năm 1187 từ đó  cho đến ngày nay  luôn  là nguồn  hứng khởi  đối với các nhà lãnh đạo  Ả -rập. Saddam Hussein  thường nhắc   đến 2 nhà  lãnh đạo xa xưa   trong lịch sử Iraq  mà ông ta coi như người  đi trước  làm gương   cho mình-  đó là Saladin  đã   chấm dứt được  mối đe  đọa  phương   tây  thời đó  khi  đánh bại   và  hất  cẳng   quân  Thập tự , và Nebuchadnezzar ,  người đã giải quyết chóng  vánh và dứt điểm   các vấn đề   thuộc chủ nghĩa Zion . Vào ngày 8 tháng 10 năm 2002 , thủ tướng Pháp , Jean-Pierre Raffarin ,  trong 1 diễn văn tại Quốc hội Pháp , đã  cho  biết bằng  cách nào mà Saladin  “có thể đánh bại đựơc   quân Thập tự   và  giải phóng  Jerusalem”. Việc   sử dụng từ”giải phóng”một  cách  thú vị này của 1 Thủ tứơng Pháp  để mô tả   việc  Saladin   chiếm đựơc  Jerusalem   từ quân  Thập tự   có thể coi như là  sự phản ánh  tình trạng  dàn trận hiện nay , hoặc  nói cách khác  , đó là  1 trừơng hợp ăn nói  đúng   về mặt chính trị một cách quá  đáng . Ở những  nước  khác  thì cách  xếp đặt này có   thể   coi như là  do   dốt  nát  về lịch sử , nhưng    đối với nước Pháp  , điều này  chắc chắn là  không phải  như thế .

       Ngay cả tại châu Âu  Cơ đốc giáo ,  Saladin  cũng  đựơc tán dương và ca tụng  vì  đã đối  xử rộng  rãi và hào hiệp   đối  với  các kẻ thù  bại trận .  Tuy nhiên ,  Roger of Chatillon  không được   hưởng   sự rộng  rại này . Sử gia  Ả -rập vĩ đại  Ibn al-Athir  đã giải thích tình   huống này như sau:”Saladin  nói , ta  đã  2  lần thề sẽ giết  hắn  nếu  tận tay  bắt đựơc ; một lần khi  hắn  cả gan  dẫn quân đến Mecca  và Medina ,  và  khi hắn  đã quỉ quyệt tấn công    thương đoàn trên đường đi  đến Hijaz” .  Sau chiến thắng  vẻ vang , Saladin cho thả các ông hòang   và tù truởng tham gia  Thập tự chinh   bị bắt , nhưng  tách riêng   Roger   of Chatillon ra  rồi    tự tay Saladin giết  và cắt đầu Roger.

       Sau  khi jihad thành công   và chiếm lại  Jerusalem  , Saladin  và các người  kế tục   dường như không   còn quan tâm đến thành phố này  nữa , và vào năm 1229 , họ nhường Jerusalem   cho Hòang đế Frederick III cắn cứ theo  cam kết  thỏa thuận  giữa nhà  lãnh đạo  Hồi giáo   và  các  Thập tự binh.  Thành phố này bị tái chiếm   vào năm  1244 , khi các Thập tự binh  cố biến đổi thành 1 thành  phố hòan tòan Cơ đốc .  Sau  một thời gian  dài ít được nhắc tới , đến  thế kỷ 19 mới khơi dậy mối quan tâm  về   thành  phố . trước   tiên là  những tranh chấp giữa  các cuừơng  quốc châu Âu  về việc cai  quản   các  nơi thiêng liêng của   đạo Cơ đốc    và sau đó  là  các đợt  di dân   Do thái mới .

      Chính trong  giai đoạn này , người Hồi giáo  bắt đầu  quan tâm đến những  đợt Thập tự chinh ,  mà lúc mới xảy ra quả tình ít  được  lưu  ý . Sử Ả -rập  chép  đầy đủ và phong phú   về các chiến binh Thập tự , lúc họ đến , những  chiến trận  và các  quốc gia  mà họ thành lập   nhưng  lại không nêu  được  bản chất   và mục  đích  cuộc phiêu lưu của những  chiến binh này .  Những từ ngữ Thập tự chinh   và  quân Thập tự thậm chí không hề có trong lịch sử Ả -rập  vào  thời  ấy ,  mà bản thân  các  Thập tự quân  chỉ được coi là những  kẻ vô đạo , người Cơ đốc  , hoặc  thường  gặp hơn  , người Frank ,  là 1 từ chung  cho người Châu Âu  Cơ đốc    –   và sau này còn có  Tin lành –  theo Thiên chúa giáo , để phân biệt  với những  tín đồ Chính thống giáo   và  các đồng đạo phương đông của  họ .  Sự nhận biết  các đợt Thập tự chinh  như là   một hiện tượng   lịch  sử riêng biệt  chỉ mới có  từ   thế kỷ 19  và qua các bản dịch  sách  vở châu Âu  về lịch  sử . Kể từ đó ,  các đợt  Thập tự chính  đựơc ghi nhận như là  hình mẫu sơ  khai   của sự bành trứơng   chủ nghĩa  đế quốc châu Âu   vào thế giới Hồi giáo . Nếu  mô tả  chính xác  hơn thì  các đợt  Thập tự chinh này  chỉ là 1 sự chống trả lại  jihad kéo dài nhiều năm , rất  hạn  hẹp    và  cuối cùng  không đạt hiệu qủa gì   .  Các  đợt   Thập tự chinh kết thúc  bằng thại , và sau đó    tại  các  nước Hồi giáo  chẳng còn mấy  ai nhớ đến  , nhưng   các nổ lực  của   châu Âu gần đây nhằm chống  trả và  đảo ngược   sự tiến công  Hồi giáo   vào   lãnh thổ Cơ đốc giáo   lại thành công nhiều hơn  và  mở đầu cho một  loạt những  thất bại đau  đớn  tại  các vùng biên giới   thế giới Hồi giáo .  
 
 

       Dưới   sự cai trị của các Caliph  Ả -rập thời trung cổ và   một lần nữa  , dứơi   các triều  đại Ba tư và Thổ nhĩ kỳ , đế quốc Hồi giáo  là 1  vùng giàu có nhất , hùng mạnh nhất , sáng tạo nhất  và  khai sáng nhất  trên thế giới , và  trong súôt  thời Trung cổ ,  thế giới Cơ đốc   luôn  luôn ở thế thủ . Vào thế kỷ 15 , người Cơ đốc  mở rộng các cuộc phản  công . Người Tatars bị hất  ra khỏi nước  Nga , người Moors  ra khỏi  nước Tây ban  nha .  Nhưng tại  vùng  đông  nam  châu Âu ,  nơi các sultan  Ottoman đối đầu  trước tiên với    hoàng đế Byzantine    và sau đó  là Hoàng đế Lamã thần thánh ,    thế lực  Hồi giáo  còn  thắng thế   và   các  phản  công nói  ở   trên   chỉ là  những bứơc lùi  ở ngoài rìa và không đáng kể .  Cho đến thế kỷ 17 ,  các pasha  Thổ   vẫn còn cai trị Budapest   và Belgrade , quân đội Thổ còn đang bao  vây  Vienna ,  và   bọn cứơp biển  vẫn còn tấn công  thuyền bè  và các  bờ biển đến  tận  nước Anh , Ái nhĩ lan   và đôi khi ,  đến tận Madeira và  Băng đảo . Bọn cướp biển này  nhận đựơc nhiều sự giúp đỡ của người  Âu , những người vì lý do này   hay lý do khác , đã định cư   tại Bắc Phi   và   chỉ cho họ cách đóng  ,  lèo lái những  con tàu  vượt đại dương ở biển Bắc  và thậm chí  ở Đại tây dương . Giai đoạnnày kéo dài không lâu .

      Thếrồi có sự thay đổi lớn . Lần  bao vây thứ 2  thành Vienna  của người Thổ , vào năm 1683 , đã   thất bại  hoàn toàn , dẫn đến 1 cuộc thoái lui thiếu suy nghĩ –  một kinh nghiệm hoàn toàn mới đối  với quân đội  Ottoman .  Sự thất bại   này , lại xảy ra cho chính 1 thế lực  quân sự hùng mạnh   trong thế giới Hồi giáo ,  đã làm phát sinh một  cuộc tranh luận mới , mà trongmột nghĩa  nào đó  cho đến bấy  giờ vẫn còn tiếp tục. Bắt đầu trong  tầng lớp ưu tú  về quân sự , chính trị và  sau đó   là trí thức  Ottoman  tranh luận  về 2  vấn đề : Tại sao  những  đội quân Ottoman bách  thắng   lại  bị kẻ địch    Cơ đốc  đáng  khinh  kia đánh bại  tan tác ?  Và làm cách nào  phục hồi  được  vị thế thống trị trước kia ?.  Cólúc  cuộc tranh luận  đi từ tầng lớp  ưu tú  sang    các thành phần khác , từ nước Thổ sang nhiều  nước khác   và các chủ đề càng lúc  càng  mở rộng .

       Có nhiều lý do  để lo ngại.  Bị thất bại  liên tiếp ,   trong khi đó các lực lượng  châu Âu Cơ đốc , sau khi  giải phóng  đất đai của họ , lại tiếp tục   truy  đuổi  những kẻ xâm lược trước kia   cho đến   tận nơi xuất phát  ở châu Á và châu Phi .  Ngay cả   những  nước  nhỏ như  Hoà lan  và Bồ đào nha  cũng   tạo dựng   được  những đế quốc  rộng lớn tại phương Đông   và  đóng  vai trò nổi trội  trong  buôn  bán . Vào năm 1593, Selaniki Mustafa Efendi , một viên chức Ottoman giữ nhiệm vụ ghi chép  các biến  cố xảy ra , ghi lại   hình ảnh đến  Istanbul  của  viên đại sứ nước Anh .  Viên   chức này không  chú  ý nhiều đến  viên đại sứ , nhưng lại rất kinh ngạc  khi  nhìn thấy chiếc  tàu   chở viên đại sứ   đến . Ông  ta viết :” Một con tàu  chưa thấy bao giờ cập bến Istanbul . Nó đã  vựơt 3700 dặm  trên  biển    và  ngoài các khí giới khác , còn mang 83  khẩu súng  lớn … Đúng là  1 kỳ quan của thời đại ,  chưa bao giờ thấy hoặc   ghi nhận  một  chiếc nào tương tự .”  Một  sự ngạc nhiên khác   đó  là  đấng quân vương  đã gởi   sứ giả đến”Người  cCai trị đảo quốc Anh  là 1  phụ nữ được  thừa kế vương quyền …   có   đầy đủ quyền lực”.

      Một chi tiết kỷ hơn , không được  nhà  chépsử Ottoman  nhắc  đến , cũng   có đối phần  quan trọng . Vị Đại sứ nước Anh   đang nói ở đây quả thật  đựơc  Nữ hoàng Elizabeth  chính thức bổ nhiệm ,  nhưng  lại không  do chính quyền  nước Anh  mà do 1  công ty  thương mãi  tuyển chọn  và trả lương – là 1  sự sắp xếp có  ích   vào   thời điểm  mà sự quan tâm chính   của thế giới phương Tây   đối với  vùng Trung đông chỉ là  việc kinh doanh . Thật  vậy ,  chính sự mở mang  kinh tế và kỹ thuật đầy sáng tạo và nhanh chóng  của phương Tây –   nào là  các nhà máy , tàu chở hàng  vượt  đại dương  , công ty cổ phần-  đã  mở màn cho   1 thời đại mới .  Các con tàu  châu Âu  , được đóng để vựơt  Đại tây dương ,  dĩ nhiên sẽ vượt hẳn    những con tàu  chỉ quanh quẩn  trong vùng  Địa trung  hải ,  Biển Đỏ , và  biển Ấn độ , trong  chiến ranh và trong thương mại ,  và thương mại  lại được củng cố   thêm   nhờ   2 thói quen   của  người phương tây – đó là hợp tác  và cạnh tranh. Vào thế kỷ 18 , những  sản  phẩm truyền thống  của vùng Trung đông  như càphê  và đường   lại đựơc trồng tại các  thuộc địa  mới của phương Tây   tại châu Á   và châu Mỹ   và được  các lái buôn  và công ty châu Âu đem xuất  khẩu sang  Trung đông . Ngay cả các khách hành hương Hồi giáo đi từ Đông nam Á và  Nam Á  sang  những   đô thị thần   thánh tại bán đảo Ả -rập   đôi khi cũng  nhờ đến  tàu   châu Âu , bởi vì  nhanh  hơn , rẻ hơn  , an toàn hơn   và tiện nghi  hơn .

      Đối  với phần với các sử gia  Trung đông cũng như   Tây phương ,   thì  thời  điểm khởi đầu  theo qui  ứơc  của lịch sử hiện đại  tại vùng  Trung đông   bắt đầu từ năm 1798  ,  khi cách mạng  Pháp  , qua  hình   ảnh   của 1 viên tứơng trẻ tên là  Napoleon Bonaparte   đổ bộ lên đất Ai cập .  Chỉ trong 1 thời gian khá  ngắn  , tứơng Bonaparte  và  đạo quân  viễn chính  nhỏ   bé  của mình  đã  chinh phục , chiếm đóng   và cai trị đất nước này . Trước   khi  việc này  xảy ra , đã từng   có  những đợt tấn công , thoái  lui   và mất  mát  đất  đai  tại những  vùng  biên   thuỳ xa  xôi ,  nơi người Thổ và người Ba tư  đối  đầu  với  nước Áo và  nước Nga .  Nhưng khi 1  lực lượng  phương Tây nhỏ bé tấn công 1  trong những  vùng trọng tâm   của   đạo Hồi   quả là  1  cú sốc  nặng  nề . Sự tháo lui của quân Pháp , trong  chừng mực  thậm chí   lại là 1 cú sốc lớn  hơn .  Quân Pháp bị buộc  phải  rời  Ai cập  không phải do  người Ai cập , cũng  không   phải do người Thổ ,  nhưng lại do  một  đội quân  nhỏ thuộc  hải quân  Hoàng gia  Anh ,  dưới sự   chỉ huy  của 1 đô đốc   trẻ tên là  Horatio Nelson .Đây là  một bài học cay đắng mà  người  Hồi giáo  phải học : không những 1 cường quốc châu Âu  có thể đến  ,   xâm lăng , cai trị tuỳ ý  rồi   chỉ có 1  cường quốc chấu Âu mới đẩy   họ đi  mà thôi .

      Chủ nghĩa  đế quốc   là  1 chủ đề đặc biệt quan trọng  đối  với   Trung đông và đặc biệt hơn  , là   Hồi giáo chống lại  phương Tây . Đối với họ , từ chủ nghĩa đế quốc   có 1  ý nghĩa quan trọng . Lấy 1 ví dụ ,   người Hồi giáo không bao giờ dùng từ này để chỉ các đế quốc Hồi giáo – đế quốc  đầu tiên do người Ả -rập  dựng nên , những đế quốc sau  do người Thổ , những người chinh phục  nhiều vùng đất  và dân cư  rộng lớn   , đem  sáp nhập vào Nhà  Hồi giáo .  Theo người Hồi giáo thì  thật là hoàn toàn   chính đáng   khi chinh phục   và cai trị châu Âu  và người Âu   và  như thế   là giúp cho họ – nhưng  không  phải bó  buộc –   tiếp thu   đức tin  chân chính . Còn ngược  lại  là 1 trọng tội  và là tội ác  khi người Âu chinh phục và cai trị người  theo đạo Hồi , và   tệ hơn nữa   là đưa họ vào con đường lầm  lạc .  Theo  nhận thức Hồi giáo ,  thì sự trở lại đạo Hồi  là 1 điều  ích  lợi cho người đựơc cải đạo  và là 1 công đức   đối với người  giúp họ cải  đạo . Theo luật  Hồi giáo , từ đạo  Hồi chuyển sang  1 đạo khác là  phản đạo –  đây là  1   tội vô cùng nghiêm trọng  cho cả người   bị lầm lạc và người làm cho người kia lầm lạc . Về vấn đề này , luật  rất  rõ ràng  và dứt khoát . Nếu 1 người  Hồi giáo  từ bỏ đạo Hồi , ngay cả đối với  một kẻ tân tòng  quay trở lại đạo cũ , hình phạt là tội chết . Trong  thời đại ngày nay , quan  niệm và   thực hiện  takfir ,  tức là nhận biết và tố cáo hành vi  phản đạo  đã đựơc  mở rộng  rất nhiều . Không phải là hiếm  khi   các nhóm cực đoan  và chính thống  cho rằng  rằng   một số chính sách , hành  động   hoặc thậm chí    chỉ là ý kiến của người   rao giảng   đạo   Hồi  cũng  được coi  là  hành vi phản đạo  ,  và  án cho kẻ phạm tội  là tử hình .Đây là nguyên  tắc đựơc nêu  trong  fatwa   đối với Salman Rushdie ,  việc ám sát   Tổng thống Sadat  và nhiều người  khác .

      Các hoạt   động   của người Âu  tại  các nước Hồi giáo  trải qua  nhiều giai đoạn  . Giai đoạn  đầu   là sự bành trứơng thương mại   và ,  theo cách nhìn  của người đạo Hồi , đã bóc lột  họ   và đất nước của họ , trên 2 mặt  thương trừơng cũng như  nguồn  nguyên liệu .Sau đó  là những   đợt  xâm lăng  và chinh phục bằng vũ lực   ,  nhờ đó mà  các cường quốc châu Âu  mới xây dựng đựơc sự thống trị trên nhiều vùng đất quan trọng   thuộc thế giới Hồi giáo- người Nga tại vùng Caucasus    và  vùng Transcaucasus và sau đó là vùng Trung Á ; người Anh tại Ấn độ , người Anh và người Hoà lan tại   Malaysia  và  Indonesia  , và  giai đoạn    chót  là người Pháp   và người Anh  tại vùng  Trung đông và  Bắc  phi. Tại  những nơi này chủ nghĩa đế quốc đã cai trị trong nhiều  thời  kỳ dài ngắn khác nhau –  tại một sô nơi  trong hàng  thế kỷ   như tại   Đông nam Á   và Ấn độ ;  ở nơi  khác , như  tại  vùng đất  người Ả -rập tại Trung đông  ,  chỉ trong   một thời gian tương đối ngắn.

       Trong   mỗi trừơng hợp , chủ nghĩa đế quốc đều để lại dấu ấn .  Trong thế giới Ả -rập , thời  kỳ cai trị của đế quốc  Anh Pháp   bắt  đầu  bằng  sự đô hộ của người Pháp tại Algeria  ( 1830) , người  Anh tại Aden ( 1839 ) , tiếp tục    với sự chiến đóng   của người Anh tại Aicập  ( 1882) ,  người Pháp mở rộng  kiểm soát  tại Tunisia ( 1881)   và Morocco ( 1911)   và  ảnh hưởng   của người Anh tại vùng vịnh Ba tư   và cúôi cùng   là sự   phân  chia các tỉnh  thuộc đế quốc Ottoman  Ả -rập   tại  vùng  Lưỡi liềm Phì nhiêu   giữa  2 đế quốc  Tây  Âu  chính .  Lần này  các lãnh thổ mới  bị chiếm  đóng   không  những chỉ sáp nhập đơn thuần   , theo  kiểu truyền thống ,  thành  các  thuộc địa  hoặc  vùng lệ thuộc  .  Các  lãnh  thổ này đựơc Hội quốc liên  giao cho  Anh và Pháp cai  trị với nhiệm vụ rõ  ràng là  giúp  cho họ tiến đến  độc lập . Giai đoạn  này rất ngắn , từ sau thế chiến  thứ 1   đến   sau thế chiến  thứ 2 , khi quyền  uỷ trị chấm dứt   và các lãnh thổ bị ủy  trị  dành  độc lập .  Phần lớn  bán đảo Ả -rập   vẫn nằm  ngoài   tầm của đế quốc .

      Tuy nhiên , tác động của chủ nghĩa đế quốc  được coi  là  rất lớn , và  dưới  mắt  của số đông   dân cư   trong khu vực ,  quả là  cực kỳ độc hại    .  Tác động  và    sự thiệt hại chắc chắn  là  rất đáng kể , nhưng có lẽ ít đựơc  quan tâm   và  không có  tầm vóc như là các huyền thọai  liên quan  đến  chủ nghĩa  quốc từng  được   rêu  rao . Dù sao  thì  chủ nghĩa đế quốc cũng đem  lại một  số lợi lộc – xây dựng  hạ tầng , các dịch  vụ   công  cọng , hệ thống giáo dục  ,  cũng như một số thay đổi xã hội , nhất  là sự xóa  bỏ chế độ nô lệ và  sự giảm  bớt  đáng kể   tình trạng  đa thê , tuy không  lọai bỏ   đựơc hòan tòan .   Sự tương phản    có  thể   nhận thấy rất  rõ  khi so sánh    tình hình giữa  những  nước   từng bị đế quốc đô hộ , như Ai cập  và Algeria , với những nước  vẫn còn giữ được  độc lập  , như Arabia  và Afghanistan . Tại  Arabia  , các trừơng   đại học  hình thành muộn và cũng không  nhiều .   Hiện nay , với   1 dân số ứơc tính  21 triệu , chỉ có 8 trường  đại học –  tức là  chỉ nhiều hơn 1  so với 7  cơ sở giáo dục  đại học  đựơc thành lập tại Palestine   kể từ khi   vùng  đất này bị Israel chiếm đóng  năm 1967 . Chế độ nô lệ đến năm 1962  mới  được  luật pháp bãi bỏ tại Arabia  Saudi  , và  sự áp  bực phụ nữ vẫn còn  nguyên  vẹn .

      Nhưng chắc chắn cũng có những hậu  qủa  tiêu cực  lớn   của chủ nghĩa đế quốc   và  nói rộng  ra  là  ảnh hưởng  của phương  tây  hoặc   châu Âu ,  thậm chí tại các quốc gia  vẫn còn giữ đựơc   sự độc lập  chính trị , như  tại Thổ nhĩ  kỳ và Iran.  Trong số những  tác  động  canh tân hóa  nổi bật  là  việc tăng  cường   quyền lực nhà nước thông  qua  việc củng cố bộ máy  giám sát , đàn  áp   , và nhồi  sọ , và cùng lúc  làm suy  yếu đi  hoặc lọai  trừ các thế lực trung gian   làm   hạn chế quyền lực   của các nhà  cai trị chuyên  chế . Sự thay đổi  về xã hội , và sự đổ vỡ các mối quan hệ và ràng  buộc  xã hội xưa cũ  , đã đem lại   nhiều mối nguy hại   lớn cho xã hội   và tạo ra  những tương  phản  mới  càng ngày càng  rộng ,   mà  các phương tiện truyền thông   hiện đại lại càng  làm  rõ  thêm nồn nột . Ngay từ năm  1832 , một  quan sát viên sắc  sảo người Anh  ,  Aldophus Slade ,  vốn là  1sĩ quan hải quân trẻ    đã nhận ra  đựơc sự khác biệt giữa  giới quí tộc  cũ và giới quí tộc mới . Giới  quí tộc cũ sống bằng  tài sản . Giới quí  tộc mới  thì lấy nhà nước làm tài sản của họ .  Điều này cho đến nay vẫn còn đúng  tại  phần lớn các  vùng đất Hồi giáo .

       Vào đầu thế kỷ 20 –  mặc   dù  nền  độc lập  mong manh vẫn còn đựơc duy trì  tại Thổ nhĩ kỳ và Iran  và tại một  số quốc gia  xa  xôi như Afghanistan ,  vào lúc đó  việc  xâm lăng  cũng chẳng bỏ bèn  gì – thì  hầu như tòan bộ thế giới Hồi giáo   đã  đựơc   sáp nhập  vào  4  đế quốc châu  Âu là Anh , Pháp , Nga   và Hòa lan . Các  chính quyền và phe nhóm  Trung đông   buộc phải  học cách chọc cho  các  kẻ kình địch  hùng mạnh  kể trên  quay lại chống nhau .  Có lúc ,  họ thắng  cuộc chơi ít nhiều . Kể từ lúc các đồng minh  phương tây – Anh ,  Pháp  và sau đó là Mỹ – đô hộ tòan bộ    khu vực  , các  kẻ kháng cự Trung đông  theo  tự nhiên là quay  sang tìm sự giúp đỡ của  phía kẻ thù  của  đồng  minh. Trong   thế chiến thứ 2 ,  họ    quay sang Đức ; trong thời  chiến tranh lạnh  ,  đó là Liên Xô.

      Ngay từ năm 1914, nước Đức  lúc  đó liên  kết  với đế quốc Ottoman , cố gắng huy  động  tình cảm tôn giáo   ở người dân  đạo Hồi thuộc   các  đế quốc  Anh , Pháp  và Nga để họ chống  lại  các ông chủ đế quốc  và giúp nước Đức thủ lợi . Nổ lực  này  chỉ đem lại  kết  qủa  quá  ít  , cho nên  bị 1 nhà nghiên cứu Đông phương học người Hòa lan  tên  là Snouck Hurgronje  chế nhạo trong 1 bài báo  danh  tiếng   nhan đề :”  Thánh chiến : chế tạo tại Đức”.

      Nơi  mà Kaiser thất bại  , thì có lúc  Hitler  lại đạt được thành công đáng   kể .  Vào cuối tháng 3 /1933 , ngay sau khi Hitler lên cầm quyền vài tuần ,  vị Mufti tại Jerusalem , Hajj Amin al-Husseini , đã tiếp cận tiến sĩ Heinrich  Wolff , Tổng lãnh sự Đức tại Jerusalem  ,  và  đề nghị được cọng tác . Viên  lãnh sự , sau khi báo cáo đề nghị này  về Berlin ,  góp  ý  rằng nên  từ chối hoặc ít nhất là cũng bỏ qua . Khi không còn   hy vọng đứng  về phía   đế quốc  Anh  vì  đã là đồng minh của Đức , không còn  cách nào khác để chống lại Anh bằng bắt tay  với phong trào  chủ yếu  chống Anh  lúc đó . Ngay sau  hiệp ước Munich  1938 ,  khi Hitler  rốt cuộc từ bỏ   hy   vọng  lôi  kéo  Anh  vào liên   minh chủng tộc Aryan  cùng  với Đức , thì  các   đề nghị của giới  lãnh đạo Palestine mới  đựơc chấp nhận .  Từ đó trở đi  và trong súôt những năm chiến tranh , mối liên   kết  của họ rất chặt chẽ và vị Mufti , khi  thì ở Jerusalem , lúc ở Beirut , Baghdad , và  cuối cùng từ văn phòng  tại ngọai ô Berlin , đã đóng  1 vai trò  quan trọng trong nền chính  trị   giữa  các nước Ả -rập. Năm 1941 , nhờ sự giúp đỡ của Đúc  thông qua  Syria    do chính  phủ Vichy   cai quản , Rashid ‘Ali  có lúc đã thành công  dựng lên 1  chế độ thân  phe  trục  tại Iraq .  Ông này  bị quân Đồng minh đánh bại  và  chạy trốn sang Đức . Ngay cả Anwar Sadat ,  cũng  tự thừa nhận  là đã làm gián điệp  cho Đức  tại   Ai cập  do khi Anh còn  cai trị .

      Sự   thất bại   và sụp đổ của  Đế chế thứ 3  cùng   bộ máy của  nó đã  để lại 1 khỏang  trống nhức  nhối . Như nhiều người thấy được , chính trong   giai đọan giao  thời này  mà  vào năm 1948  người Do thái  đã  dựng nên  1 nhà nước   và làm  cho   quân đội các  Ả -rập bị thua trận nhục nhã  khi  ồ ạt  tấn công  ngăn không cho  người Do thái  thành lập nhà nước . Vì thế , cần  phải tìm   1  ông chủ và người bảo vệ mới   để thay thế   cho Đế chế thứ 3 , đó là Liên  Xô.

      Rồi đến  phiên Liên  xô  sụp đổ ,  chỉ còn lại Mỹ là siêu  cường  duy nhất . Như vậy kỷ nguyên  của  lịch sử vùng Trung đông   được  mở màn  với Bonaparte và Nelson  và  kết thúc với Mikhail Gorbachev  và George Bush cha .  Thọat đầu  , dường như  kỷ nguyên  cạnh tranh  giữa các đế quốc  đã chấm dứt với  sự rút lui của 2  kình địch – Liên xô    do không  làm được , còn nước Mỹ thì không  muốn đóng vai trò  đế quốc . Nhưng  trước những biến  cố dài hơi , nhất là  Cách mạng  Iran   và  chiến tranh  do  nhà độc tài Iraq ,  Saddam Hussein , đã  buộc  nước  Mỹ phải  tham gia  trực tiếp nhiều hơn  vào các vụ   việc của khu vực . Người  dân Trung đông   xem đây là   1  giai đọan mới  của  ván bài đế quốc cũ . Người Mỹ chưa  hề có  khả năng  hoặc  ý  muốn  đóng  vai trò  đế quốc .

      Các nhà  lãnh đạo  Hồi giáo ,  cả 2  phe  chính phủ và   đối lập ,   phản  ứng  với  tình hình  mới này không  giống nhau . Đối  với  một   số người , đáp  ứng   tự nhiên   là tìm  1  người  bảo trợ mới – người kế tục  Đế chế thứ 3 và Liên xô , người mà  họ có  thể tìm đựơc  sự khích lệ , ủng hộ và giúp đỡ khi có  chiến tranh chống lại phương Tây . Trong khi đó , phương  Tây  với  tính cách  là 1 khối quyền lực  càng ngày  càng  lùi xa về phía tây hơn nữa và  hiện nay  chủ yếu  chính là nước Mỹ ,  đã tạo ra  một khả năng thú  vị   mới  là  châu Âu lục địa  đóng  vai trò  đối nghịch . Một  số nước  châu Âu , vì lý do  riêng , lại chia  sẻ   có mối  hiềm  thù  và  ác ý  của  vùng Trung  đông   đối với nước  Mỹ ,  bày tỏ ý   muốn  sẳn lòng  chấp nhận vai trò này .  Nhưng  đó  chỉ là  ý   muốn , mà không có   phương tiện .

      Việc Liên  xô sụp đổ , và    thảm bại sau đó của Saddam Hussein  trong chiến tranh vùng  Vịnh  năm 1991 ,   là 1  cú  đấm tai hại  cho các phong trào  quốc  gia chủ nghĩa thế tục  , nhất là đối với người Palestine ,    thêm một lần nữa , cũng như  năm 1945 , thấy  mình bơ  vơ  không có  cường  quốc  nào bảo  trợ   và giúp đỡ cho chính nghĩa của mình . Người bảo trợ   Liên  xô không còn nữa .   Thậm chí những nước Ả -rập  ủng  hộ tài chính   cho   họ là Kuweit  và  Saudi Arabia ,    tức giận  vì  Palestine   ủng  hộ   nhiệt tình  Saddam Hussein ,  có  lúc cũng ngưng  không  trợ cấp  ,   lại  càng  làm cho người Palestine  thêm  cô lập , nghèo   đói  và  yếu  hẳn đi .Chính bởi  tình  hình đó   buộc họ phải nghĩ  đến  điều không thể nghĩ  đến  là   chịu ký thoả hiệp hoà bình với Israel .  Dứơi con mắt  của  nhóm chính  thống , thì  việc  tổ chức PLO đựơc  Mỹ và Israel cứu   sống và  bị đưa vào tròng khi hạ mình  đối  thoại  với Israel  là   hành động   đáng bị khinh  bỉ .

      Tất cả những  điều này  càng làm cho  nhóm chính  thống  thấy quan điểm   về thế giới của  mình có lý  hơn , và lý lẽ của họ thôi thúc  hơn . Họ – đúng ra  là với Usama bin Ladin – diễn   giải sự sụp đổ   của Liên   xô   theo  1 cách khác . Theo  nhận  thức  của  họ , thì chính họ , chứ không phải  là Mỹ   đã  chiến thắng   chiến  tranh lạnh .    Dưới  mắt họ , Liên  xô không  phải   là người  giúp đỡ tốt bụng  trong cuộc chiến chung   chống lại người Do thái  và  đế quốc  phương  Tây  nhưng  lại là   nơi xuất  phát  của chủ nghĩa  vô thần   và  không  tín ngưỡng , là nước đã  áp  bức  hàng  triệu người  Hồi giáo , đã  xâm lược  Afghanistan . Họ cho rằng  ,  không  phải   là  không có lý , chính sự chiến đấu của họ tại Afghanistan  đã  đánh bại  Hồng quân  hùng  mạnh   và đưa   Liên xô  đến chỗ thất  bại và  sụp đổ . Sau  khi  thanh  toán  xong  một kẻ địch  nguy  hiểm  và hung tàn   trong nhóm 2   siêu  cường   vô đạo ,  nhiệm vụ kế tiếp của   họ là  đối  phó  với kẻ địch còn  lại , đó là  nước Mỹ , và trong trận chiến này , ai   mà thoả hiệp   sẽ được coi là  công cụ   và  tay sai  cho kẻ địch  vô đạo .   Dựa trên nhiều  lý do ,  nhóm chủ trương chính thống Hồi giáo   cho  rằng  việc đánh   nước Mỹ sẽ đơn giản   và  dễ dàng  hơn .  Theo họ , nước  Mỹ hiện nay  thối  nát về đạo đức ,  xã  hội suy đồi , và  hệ qủa   là   nền chính trị và  khả năng quân sự đều suy yếu .  Nhận  thức này có  1 lai lịch  khá thú vị .

          Chương  4

      PHÁT  HIỆN  NỨƠC  MỸ 
 

      Trong  1 thời gian dài ,  tại các vùng đất Hồi giáo , nước Mỹ hầu như  không hề được  biết  đến . Thoạt  đầu ,   các chuyến du hành   khám  phá  không  được  quan tâm mấy – chỉ có 1   bản sao còn  sót lại  bản đồ châu  Mỹ   do  Christopher Columbus vẽ ,   được dịch  ra  tiếng Thổ , và   lưu giữ tại bảo tàng  Topkapi   , Istanbul. Tài liệu  về sự khám  phá   ra  Tân thế giới của  một nhà địa lý  người Thổ vào thế kỷ 16  ,  có tiêu  đề Lịch sử vùng Tây Ấn    là   một   trong  những quyển  sách đầu tiên  in tại Thổ nhĩ  kỳ – vào thế kỷ 18. Nhưng sự quan tâm cũng  rất ít , và không có mấy tài liệu về   nước Mỹ bằng tiếng Thổ, tiếng  Ả -rập   hoặc   bằng các  ngôn  ngữ Hồi giáo khác   cho  tới   mãi gần đây . Khác  với Cách mạng Pháp xảy ra vài năm sau đó , chẳng mấy  ai  biết đến Cách  mạng Mỹ ,   và  được coi , nếu   có , chỉ là   1  hình thức  nổi dậy  quen thuộc . Những  điều ghi  nhận của viên đại sứ Morocco  tại Tây  ban nha  chắc chắn là tài liệu đầu tiên bằng tiếng  Ả rập về Cách mạng Mỹ vào thời điểm đó :  

      Sultan của  xứ Morocco ký 1   hiệp  uớc  hữu nghị   với nước  Mỹ   vào năm  1787 , và sau đó   nước cộng hoà non trẻ này  có một số mối quan hệ , khi thì   thân  thiện   , khi thì thù nghịch , chủ yếu  là thương mại , nhưng tất  cả đều hạn  hẹp    với  các  nước Hồi giáo khác .

      Tài  liệu  đựơc  ghi chép  đầu tiên  có nhắc tới nước Mỹ   như là  1 biểu tượng   đối với thế giới Hồi giáo  xảy ra  tại  Istanbul  ngày 14 tháng  7  năm 1793 , khi  viên đại sứ Pháp mới  đến nhận công tác  đã tổ chức  một buổi  ra mắt  trước công chúng  mà  điểm đỉnh là  1  lọat   phát  súng  chào   bắn từ   2 chiến hạm   Pháp  đậu   tại  mũi Seraglio . Theo báo cáo  của viên đại sứ ,  họ đã  kéo cờ đế quốc Ottoman  , cờ của  cọng hòa Pháp  và  Mỹ , và “cờ của  những  cừơng  quốc  khác  đã  không làm  bẩn  súng  khi  đứng   chung hàng  ngũ  với  những    bạo  chúa  nghịch  đạo”.  Một  đại sứ   Pháp kế nhiệm ,  là tứơng  Aubert  du Bayet ( sau này  là  Dubayet ) ,   đến   Istanbul vào năm 1796 , cũng  có nguồn gốc  Mỹ   do  vì   sinh  ra   tại New Orleans   và đã chiến đấu trong  quân đội Mỹ .  Ông này cố tâm   truyền bá   các tư  tưởng  cách mạng  tại Thổ nhĩ  kỳ .

       Nhưng  đây  là những  người Pháp , không phải là các   doanh nghiệp   của Mỹ   và  trong  khi   tư tưởng  cách mạng  Pháp   gây  ảnh hưởng đến tư tưởng  và  văn   học của người Thổ , người Ả -rập  và  những người  khác   trong súôt thế kỷ 19 , thì  Cách mạng  Mỹ ,  và  Cọng  hòa Mỹ   sinh ra  từ   cuộc cách mạng  này  , trong   một thời gian dài  lại không   hề đựơc  nhắc  tới   và  thậm chí   cũng không   mấy ai biết.  Ngay cả sự hiện diện  của nước  Mỹ càng  ngày càng  nhiều thêm –  nào là   nhà  buôn , lãnh sự , nhà truyền giáo   và thầy giáo – cũng   không   cũng  gây đựơc   được  sự hiếu  kỳ , và  hầu như  cũng không  hề đựơc  văn  chương và báo chí thời ấy  nhắc đến .  Các  sách giáo   khoa  về   địa lý , phần lớn  đựơc  dịch hoặc dựa    theo   nguyên   bản  châu Âu , chỉ nêu  vắn tắt một  vài sự kiện về Tây bán cầu , còn  trên báo chí  thì rãi rác  có  một số tài liệu  nhắc đến   các biến cố   xảy  ra tại Mỹ , thường  được  nhắc tới  dứơi hình thức  tiếng  Pháp , États Unis ,  chuyển sang tiếng  Ả -rập  là Itazuni , hoặc  một  dạng tương tự . Một  quyển sách giáo khoa  đựơc   xuất bản tại Aicập  vào năm 1833 ,  đựơc  nhà  văn   và dịch giả nổi tiếng  Sheikh Rifa’a Rafi’al – Tahtawi

( 1801-1873) phỏng dịch từ tiếng Pháp   có  bổ sung  một đọan ngắn   mô tả :”Itazumi là 1 quốc gia ( dawla )  gồm có  nhiều vùng ( iqlim )  , họp lại thành một  nước  cọng  hòa  tại vùng  đất  Bắc  Mỹ . Dân chúng    gồm các  bộ lạc    từ nước Anh  sang  và  chiếm cứ   vùng  đất này .  Sau đó  họ đứng lên tự giải phóng  khỏi  sự kiểm sóat  của người Anh  và dành đựơc  tự do  độc lập . Đây là  một trong những  nước văn minh lớn  nhất  tại châu Mỹ ,  và  tại đây  mọi tín ngưỡng và cọng  đồng tôn giáo đều  đựơc  phép . Chính phủ   đóng tại  1  thị trấn   tên  là Washington” Những  câu kết  luận  đáng cho ta chú  ý.

      Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 , một  mặt  trên  sách  vở và  các bách khoa thư   và mặt khác  trên báo chí có chú ý nhiều  hơn về nước Mỹ , nhưng  vẫn còn rất hạn chế ,  và dường như chỉ khu trú  vào các nhóm thiểu số không  theo Hồi giáo .  Các tài liệu tham  khảo  liên quan đến nước  Mỹ   trong lãnh vực   văn  chương  nói chung  có tính không  tích cực  hoặc tiêu cực   nhưng chỉ đơn thuần là mô tả .  Các nhà  truyền giáo dĩ nhiên  không  được  ưa chuộng  trong   các cọng đồng Hồi giáo , nhưng  dường như cũng không hề có  sự ngờ vực  , còn  sự căm ghét thì   lại  càng  ít hơn . Sau  nội chiến Mỹ , một số sĩ  quan Mỹ thất  nghiệp chạy   sang  phục vụ cho  các nhà  cầm  quyền Hồi giáo , giúp  họ canh  tân  quân đội . Các nhà truyền giáo  người Mỹ , dù  bị cấm  không cho cải đạo đối với tín đồ đạo Hồi ,  nhưng  có  thể cải đạo  cho  một số người Cơ đốc chính thống  sang   các    hệ phái Tin lành   khác nhau  , và điều  quan trọng  hơn  là  , cung cấp  nền  giáo dục  trung học và  cao đẳng  cho số học sinh  càng ngày càng  đông  , đầu tiên  là nam , sau đó là nữ ,  trước hết cho  các nhóm  thiểu số , sau  mới sang  cọng đồng Hồi giáo .  Một số học  sinh tốt  nghiệp từ những trường  này   thậm chí  còn  sang Mỹ du học tại  các trừơng Cao đẳng  và Đại học . Lúc  đầu , chỉ có  du  học sinh  từ các cọng đồng  thiểu  số Cơ đốc ,  sau đó có thêm nhiều  học sinh   đạo Hồi tham gia , một số trong nhóm này thậm chí  còn  đựơc  nhà nước xuất tiền   cử đi  học  .

      Thế chiến lần  thứ 2 , kỹ nghệ dầu mỏ ,  và  những phát triển hậu chiến  đã đưa  nhiều người  Mỹ đến  các  vùng  đất  Hồi giáo ;  thì cũng  có   nhiều người Hồi giáo  đến nước Mỹ ngày càng  đông  , thọat  đầu  là học  sinh , sau đó là thầy giáo , doanh nhân  , hoặc du khách  , và cuối cùng  là  dân  di cư . Phim  ảnh  và sau đó  là truyền  hình   đã  du nhập   lối sống Mỹ , hoặc ít nhất  cũng  một  dạng của  lối sống này , vào hàng triệu  người mà trước đó  chưa  hề nghe   hoặc  biết  đến ngay  cả tên nước Mỹ . Nhiều hàng  hóa Mỹ , nhất là  những năm  ngay sau chiến tranh , khi các  đối thủ cạnh tranh châu Âu hầu như  không  còn   và  sự cạnh tranh  Nhật bản chưa có ,  đã  len lõi vào  đến những  chợ búa   hẻo lánh nhất   thuộc thế giới Hồi giáo ,  đã  chiếm đựơc  nhiều khách hàng  mới   và có  lẽ điều quan trọng  hơn cả , là đã tạo ra  đựơc những thị hiếu và tham vọng  mới .  Với một  số người ,  nước Mỹ đại diện cho  tự do , công bằng  và cơ  hội . Đối với nhiều người  khác ,  nước  Mỹ tượng trưng  cho  giàu có  , quyền  lực  và  thành công , vào thời điểm này  , những tính chất  trên chưa  đựơc coi là tội lỗi hoặc tội ác .

      Và rồi   có  sự thay đổi lớn , khi  các nhà lãnh đạo  của  1  phong trào  phục hưng rộng  khắp  và ngày  càng  mở rộng  cố công  tìm  kiếm và cho rằng kẻ thù của mình  là  kẻ thù của Thượng đế và xác định”nơi  ở và  1 tên gọi”ở   Tây  bán cầu .  Đột  nhiên , hoặc dừơng như thế ,  nước  Mỹ bỗng trở thành  kẻ thù  không đội trời chung , là hiện thân của  cái ác ,  và là  kẻ thù hiểm ác của  tất cả những  gì  đựơc coi là tốt đẹp  đối với Hồi giáo , và  nhất là với tín đồ đạo Hồi .  Tại sao như thế ?. 
 

      Trong  số những  yếu tố gây nên tâm trạng   chống  Mỹ   có  một số ảnh hưởng   của giới  trí  thức châu Âu .  Một trong những ảnh hưởng   đó   là từ nước  Đức ,  nơi mà  cái nhìn tiêu cực  về nước Mỹ hình thành  một  trường phái  tư tuởng , trong số đó có   những nhà văn  thuộc các trừơng  phái rất khác nhau  như Rainer Maria Rilke , Oswald Spengler , Ernest Junger  và Martin Heidegger . Theo  nhận thức của  những tác giả này   thì nước Mỹ là  1 ví dụ tột cùng    về một nền văn minh  không có văn hóa ; giàu có  và tiện nghi , rất phát triển về mặt vật chất  nhưng   giả tạo và vô tri ;  chỉ có tính  lắp ráp  hoặc  quá lắm cũng chỉ là đựơc dụng lên , không hề trưởng thành ;  có tính  máy móc không chút  hữu cơ ,  chỉ là 1  phức hợp hòan  tòan  kỹ thuật  nhưng  không hề có chút gì  là tinh thần  và sức sống   của các  nền văn hóa  nhân bản ,  quốc gia  , có cội rễ của  nước Đức và  những  dân tộc”chân  chính”  khác . Nền  triết học  Đức  và  nhất là triết học về giáo dục đựơc giới trí thức tại  Ả -rập và  một số nước Hồi giáo khác hâm  mộ nhiều vào những năm thuộc thập kỷ 1930   và  đầu  1940 mang  thông điệp  chủ nghĩa chống  Mỹ về mặt triết học  . Lối giải thích theo chủ nghĩa quốc  xã  của  ý thức hệ Đức rất có ảnh hưởng  trong các  nhóm  theo chủ nghĩa  quốc gia , nhất là  đối với  những  người sáng lập và đảng viên  đảng Ba’th ở Syria   và Iraq . Sau khi Pháp  đầu hàng  Đức  vào tháng 6/1940 , các lãnh thổ ủy trị của Pháp  là Syria  và Liban  vẫn còn  đặt  dứơi sự kiểm  sóat  của chính  phủ Vichy  và  vì thế khá  dễ cho người Đức tiếp cận , và sử dụng như là các căn cứ họat  động  của  họ trong  thế giới  Ả -rập.  Nổi bật nhất   là  cố gắng -có lúc  đã thành công –  hình  thành 1  chế độ thân Quốc xã tại Iraq .  Đảng Ba’th đựơc thành lập  trong   thời kỳ này . Các họat động trên  chấm dứt  khi người  Anh ( và nước Pháp tự do )  chiếm lại Syria – Liban   vào tháng 7/1941 , nhưng đảng Ba’th   và  các ý thức hệ đặc thù của nó  vẫn  tồn tại .

      Chủ đề về tính   nhân tạo  và   thiếu  1  bản  sắc  dân tộc  đích thực  của Mỹ   cũng giống  như  các nước Ả -rập  đã  xuất hiện   thường  xuyên  trên các bài viết   của  đảng Ba’th  và  thỉnh thỏang lại được   Saddam Hussein khơi   dậy ,  như trong 1  diễn  văn đọc hồi tháng  giêng   năm 2002 . Khi  các cuộc chiến – thế chiến thứ 2  , rồi sau đó chiến tranh lạnh –  còn tiếp tục , vai trò  của Mỹ lãnh đạo phương Tây  ngày càng  trở nên   nổi bật , cho nên cái phần thù  ghét  dành cho nước Mỹ lại càng  đáng chú  ý  hơn  .

      Sau khi  Đế chế thứ 3 sụp đổ ,  và  ảnh  hưởng của Đức không  còn ,  thì  một  thế lực  khác và một triết  lý  khác , thậm chí  còn  chống Mỹ dữ dội hơn ,  thế chân –  đó là  chủ   nghĩa Marxit   kiểu  Liên xô   đứng lên  tố cáo  chủ nghĩa  tư bản  phương  Tây và   nước  Mỹ là  đại diện  nguy  hiểm  và tiên tiến nhất   của nó. Dù thực tế là  việc người  Nga không hề   nhẹ tay khi  thống trị   phần lớn  đế   quốc châu  Á mênh  mông  do  Sa hòang chinh phục  và sau đó  bị Liên xô tái  chinh phục nhưng ít nhiều cũng  không ngăn  đựơc  việc họ tự cho mình  là chiến sĩ  và  là người   bảo trợ cho các phong trào  chống chủ nghĩa đế quốc lan  tràn  trên khắp thế giới  sau thế chiến thứ 2 ,  không chỉ   duy nhất   tại vùng  Trung đông . Vào  năm 1945 ,   dường như chủ nghĩa  xã hội sẽ là  làn  sóng  của tương lai . Tại  Đông Âu , Liên xô  đã hòan tòan thắng trận . Tại Tây Âu , đảng Lao động Anh đã  đánh bại  ngay cả Winston Churchill  vĩ đại  trong   cuộc  tổng  tuyển cử năm 1945 . Trên tòan thế giới Arab  các  chính phủ và  phong trào   hăng hái  tiếp thu   các hình thức của  chủ nghĩa  xã hội .

      Nhưng  dù  rằng  các nhà  bảo trợ và các chủ nghĩa  ngọai nhập  có  mang lại giúp đỡ vật chất   và  cách  diễn đạt trí thức  chống  phương Tây  và chống Mỹ , thì họ cũng không  đề ra  , và chắc chắn  là không giải thích được   vì  sao   phong trào  bài  xích phương tây lại  làm cho nhiều nước   Trung  đông  và   đâu đó  trong thế giới Hồi giáo ,  tiếp thu  những tư tưởng   như thế . Ta  phải  nói cho  rõ là tạo  điều  kiện  thuận lợi cho các  học thuyết  cực kỳ khác nhau như  thế không  phải là  lý  thuyết  chủng tộc  của  bọn  quốc  xã Nazi ,  lý  thuyết này  không mấy  lôi  cuốn  đối với người Ả -rập , hoặc  chủ nghĩa  Cọng  sản vô thần , lại  càng không  hấp dẫn được  tín  đồ đạo Hồi , nhưng  chính là ở   cái gốc  bài  phương Tây . Chủ nghĩa quốc  xã  và   chủ nghĩa  cọng  sản  là những   lực lượng chính  chống  lại  phương Tây ,  cả về lối sống  lẫn vai trò  cường quốc  trên thế giới , và có như  thế , 2 chủ nghĩa  đó mới tranh thủ được  cảm tình  hoặc thậm chí  sự cọng tác  của những ai xem  phương tây là  kẻ thù chính  của mình.

      Nhưng tại sao lại như thế? Nếu ta đi từ cái chung  đến  cái riêng , thì  không hề thiếu  các hành  động  hoặc chính sách  riêng lẽ , được   các chính  quyền phương Tây  đưa ra  hoặc theo đuổi , đã làm khơi dậy  tại  Trung đông và các  dân tộc  đạo Hồi khác lòng  căm giận sâu  sắc diễn ra  dưới nhiều   hình thức chiến đấu – để dành độc lập khỏi sự cai trị hoặc  đô hộ của ngọai bang ; để giải phóng  tài nguyên  khỏi sự bóc lột  của nước ngoài  , chủ yếu  là  dầu  mỏ ; để lật đổ những  kẻ cầm  quyền  và chế độ tay sai và theo đuôi  của  phương tây . Nhưng cái  cảnh thường  xuyên  là  khi tất cả những chính sách trên  bị hủy  bỏ và các  vấn đề đã  giải quyết  xong , tình hình  chỉ dịu  đi  tạm  thời  và   khu trú  . Khi người Anh  bỏ Ai cập , người Pháp bỏ Algeria , bỏ hết  tài  sản   tại  các nước Ả -rập khác , thì các chế độ quân chủ bị lật  đổ tại Iraq và  Ai cập , vua Shah  chủ trương  cải cách  theo phương tây  bỏ chạy khỏi Iran , các công ty  dầu mỏ từ bỏ quyền  kiểm sóat  các  giếng  dầu  mà  họ đã bỏ công phát hiện  và  xây dựng , và tự hài lòng  với những  thỏa thuận có được  với các chính phủ của những  nước này – tuy vậy   sự phẫn uất  tràn lan  của   những  người theo  phe chính thống  và cực đoan  chống  lại phương  tây vẫn không  hề suy giảm .   
 

      Có lẽ ví dụ thường đựơc  nêu  ra nhất  về sư can thiệp  của phương tây  cùng  với những hệ qủa  của nó   là việc lật đổ chính phủ Mosaddeq  tại Iran  năm 1953. Cuộc khủng hỏang bắt đầu khi Mosaddeq , nhà  lãnh đạo  bình dân  theo chủ nghĩa  dân tộc , đựơc  nhân dân  ủng hộ ,  quyết định  quốc  hữu hóa  các công ty dầu mỏ , đặc biệt  là  công ty Anh-Iran , công ty  quan trọng nhất . Chắc chắn là , những  điều kiện  theo đó  công ty này  và  những  công ty dầu mỏ nhượng  quyền khác họat  động   thực ra đều không bình đẳng  và phù  hợp . Lấy ví dụ , công ty  dầu mỏ Anh –Iran  trả thuế cho chính phủ Anh  nhiều hơn là tiền thuê  mỏ cho chính phủ Iran . Nước Mỹ lúc đầu  liên  đới  vì  là đồng minh của  Anh , rồi  sau đó , dần  dà  , do sợ Liên  xô  nhảy  vào ủng  hộ chính phủ Mosaddeg . Vì thế , Anh  và Mỹ quyết định , dĩ nhiên  là  có   sự đồng ý  của  vua Shah , tống khứ Mosaddeg  bằng  1 cuộc đảo chính . Lúc đầu ,  cuộc đảo chính không  suông  sẻ mấy . Mossadeg  chỉ bắt giữ phái viên  của vua Shah  và ra  lệnh bắt  tứơng Zahedi ,  đầu  sỏ nhóm đảo chính và dự tính sẽ cầm đầu  chính phủ mới  thân vua Shah . Có lúc những  người ủng hộ Mosaddeg và các  đảng viên đảng Tudeh  Cọng sản tổ chức biểu tình rộng  rãi trên đường  phố ,  đả đảo cả vua  Shah và  thân phụ ông ta , hô to” Đế quốc Mỹ cút về nước”. Vua  Shah cùng với vợ bỏ trốn sang Iraq ,  tại đây  ông ta  bí mật  gặp  Đại sứ Mỹ , và sau đó   bay  sang Rome.

      Trong khi đó , các cuộc biểu tình tại Tehran thay đổi tính chất . Lúc trước  họ chống vua Shah ,  bây giờ họ lại quay sang ủng  hộ , và nhất là  quân  đội xuống đừơng  ủng hộ nhà vua . Sau  nhiều  đợt   biểu tình , Mosaddeg  bị lật đổ và Zahedi  đứng ra  làm  Thủ tứơng . Vào ngày 19/8/1953 ,vua Shah nhận đựơc tin  qua 1 bức điện  do  AP đánh  đi :”Tehran: Mosaddeq  đã bị lật  đổ . Quân đội nhà vua  kiểm sóat Tehran. Zahedi làm Thủ tứơg,”  Ngay sau đó , vua Shah    quay về Tehran  và chiếm  lại ngai vàng .

      Kết cuộc , theo  tiêu chuẩn  trong vùng , là khá nhẹ nhàng. Bộ trưởng  ngọai giao trong chính  phủ Mosaddeg  bị xử tử và  một số khác ủng hộ ông  này  bị bỏ tù . Còn chính Mosaddeq  thì bị đưa ra  tòa  và bị án  3 năm  quản thúc tại  nhà . Sau  khi đựơc thả vào tháng 8 năm 1956 , ông  ta sống  tại điền trang dứơi sự giám sát  cho đến  năm 1967 . Do sự can thiệp tích cực của CIA Mỹ   và MI 6 Anh  trong vụ lật đổ chế độ và giúp vua Shah   quay lại cầm  quyền , cho nên vua Shah  bị đại đa số thần dân  coi như  là  bù nhìn  của Anh , sau đó là của Mỹ.

      Nếu đúng  vậy  , thì  bù nhìn  vừa  không  đắc lực  vừa không   đáng tin cậy .Khi  cách mạng Iran  xảy ra  năm 1979 , cả Anh  lẫn Mỹ không hề ra tay để cứu  vua  Shah khỏi bị lật đổ . Chính quyền  Mỹ lúc đó đã không  ra tay giúp đỡ mà  còn   nói rõ là  họ không  ý định  làm gì  cả . Thậm chí còn  cường  điệu hơn nữa  khi họ từ chối  không cho vua Shah  và gia đình  tị nạn  tại Mỹ . Vua Shah trốn khỏi  Tehran  vào giữa  tháng  giêng 1979   và bay  qua     qua ngã  Ai cập đến Morocco, nơi  đây  ông làm  khách   của nhà vua    vài ngày .  Nhưng  vua  Morocco lại có  những  nổi lo khác , nhất là dự họp  Tổ chức Hội nghị Hồigiáo  mà ngài  đứng ra tổ chức tại  Rabat  vào đầu tháng 4 .  Vì thế vua  Hassan yêu cầu vua Shah ra đi trước ngày 30 tháng 3 . Vua Shah  thông báo  cho đại sứ Mỹ ý  muốn chấp thuận lời đề nghị cho tị nạn  của Tổng thống Carter , nhưng hóa ra  là đề nghị này  đã bị hủy bỏ ,  rõ  ràng là  đặt  ưu tiên  việc thiết lập  quan hệ tốt  với  các nhà lãnh đạo mới  của Iran trên  việc cho phép   vua Shah  và gia đình  tị nạn .  Người Mỹ chỉ động lòng  khi vua Shah  bệnh nặng gần chết  và cần đựơc  chăm sóc y tế gấp.  Vào ngày 22 tháng 10 , vua   Shah được  thông báo  là  có thể chuẩn bị đến  Mỹ . Ngài  đến New  York vào sáng  sớm hôm  sau và  đựơc đưa thẳng  vào bệnh viện . Biết  rằng  sự có mặt  của mình  sẽ gây  khó  cho nước  Mỹ ,  cho nên mặc dầu còn  đang  bệnh nặng  , ông ta cũng  rời   nước Mỹ và đến  Panama,  chật vật mới  khỏi  bị trục  xuất  về Iran   và từ Panama  , ông ta quay về Ai cập ,  sống  ở đó cho đến  khi  chết  vào năm 1980 .

      Các nhóm   khác  nhau  trong  vùng  rút  ra  được  2  bài học  từ những  sự kiện này – một là , người Mỹ sẵn  sàng vừa sử dụng  vũ  lực  và âm  mưu  để sắp đặt  hay duy  trì  các  nhà  cầm quyền  bù  nhìn  tại các nước Trung  đông ; hai là , người  Mỹ không phải là  kẻ bảo trợ đáng tin cậy  khi những   bù nhìn  bị dân chúng  tấn công  mạnh mẽ , lúc đó  họ sẽ sẳn sàng   bỏ rơi .  Một  bài học gây nên  sự   óan hận ,  còn bài  học kia  sự khinh bỉ –  quả là 1 sự kết hợp  nguy hiểm.

      Rõ ràng  là  có cái gì   đó liên  quan nhiều  hơn là những mối  bất  bình  cụ thể này , có thể là   rất nhiều  và quan trọng   , là một cái gì đó sâu sắc hơn đã chuyển mỗi   sự bất  hoà   thành 1  vấn đề   và làm cho vấn đề này  trở nên không  thể nào giải quyết được . Cái mà ta  phải đối đầu  hiện nay  không  chỉ là  1  lời oán trách về 1 chính sách  nào đó của Mỹ mà đúng là  1  sự từ chối  và kết tội , chứa  đầy  giận dữ   và khinh  miệt tất cả những gì  mà nước Mỹ được coi là đại  diện  trên thế giới  hiện nay.  
 

      Một khuôn  mặt chủ   chốt  trong quá trình  hình  thành   những thái độ mới   đó là Sayyid Auth ,  người gốc  Ai cập  đã trở thành  một nhà tư tưởng chủ đạo  của  phong trào chính thống  Hồi giáo   và là  1 thành viên tích  cực  của  tổ chức chính  thống  là Các huynh đệ Hồi giáo . Sinh ra  tại  1 làng  vùng  Thượng Ai cập  năm 1906 , ông  này  học  tại Cairo ,   rồi đi  dạy học   vài năm và  sau đó  làm công chức  tại  bộ Giáo dục  Ai cập .  Nhờ có  khả năng , ông ta  được gởi  đi dự 1 khoá  học  đặc biệt tại Mỹ   từ tháng 11/1948 đến  tháng 8/1950 . Tính cực đoan  về chủ nghĩa chính thống và  khả năng viết lách của  ông  phát  triển ngay   sau khi từ Mỹ trở về nước . Sau vụ đảo chánh quân sự tháng 7/1952 ,  lúc đầu  ông ta   liên hệ chặt chẽ với   nhóm  đựơc gọi là  Sĩ quan tự do ,  nhưng sau đó không theo họ nữa  khi những  bài giảng  về Hồi giáo  của  ông va chạm với  cácchính sách   của  phe theo đường lối thế tục   . Sau nhiều   lần đụng độ với nhà cầm quyền ,  vào năm 1955 ông ta bị kết án  15 năm tù . Nhờ sự can thiệp  của Tổng  thống Arif  của Iraq , ông  đựơc thả vào năm 1964 , và vào cuối năm  này  ông  xuất bản  một trong những tác  phẩm chính của  mình , Ma’alim fil-Tariq ( Những chỉ   báo  trên đường Đạo ) . Vào ngày 9 tháng  8 , 1965 ,  ông ta  bị bắt trở lại ,  và  lần  này  bị kết  tội   là phản bội và , cụ thể là  có âm  mưu ám sát Tổng thống Nasser . Sau 1 phiên  xử bỏ qua  những thủ tục , ông  ta bị kết án tử hình   vào ngày 21tháng 8 năm 1966.  Án lệnh đựơc thi  hành 8 ngày sau  đó .

      Thời gian lưu trú tại Mỹ của Sayyid Quth  dường như   là  giai doạn  quyết định  trong sự hình thành  các tư tưởng của  ông ta  về các mối liên hệ giữa  đạo Hồi với  thế giới bên  ngoài , và  nhất là , chính  bên trong thế giới  Hồi giáo . Nhà  nước Israel   mới  vừa được  thành lập  và  tồn tại   đựơc  nhờ đánh thắng trận đầu trong 1  loạt   các cuộc chiến giữa   khối Ả -rập và Israel.  Chính đây là   thời điểm  thế giới mới biết   đựơc sự huỷ diệt  gần như  toàn bộ người Do thái  tại các nước châu Âu  do Quốc xã chiếm  đóng ,  và công luận tại Mỹ , cũng như  tại nhiều  nơi trên thế giới , đa số đều đứng về phía Israel.  Mối liên hệ thời chiến   giữa Đệ tam  Đế chế và các  nhà lãnh đạo Ả -rập  nổi tiếng   như Mufti  tại Jerusalem và Rashid ‘ Ali  của Iraq  cũng   đựơc đưa lên báo , và  như thế cảm tình  của quần chúng đương nhiên  là  dồn cho  phía  đựơc coi là nạn nhân của Hitler   trong  nổ lực  đấu tranh   thoát   khỏi sự tàn sát của   các đồng  phạm của Hitler . Sayyid Quth  bị choáng khi thấy mức độ ủng hộ tại  Mỹ đối  với những   gì mà  ông  ta coi như sự tàn sát của  người Dothái đối với   đạo Hồi  với sự đồng  loã  của  người Cơ đốc .

      Càng  rõ hơn nữa là cái phản  ứng  choáng váng của ông  ta  đối với lối sống  Mỹ – chỉ toàn là  tội lỗi  và  sa đoạ , thói ham  mê   những điều  mà ông ta  gọi   là  sự chung  chạ xác thịt  . Sayyid Quth nhận ra đựơc  sự đối nghịch giữa phương Đông tâm linh và  phương tây  với chủ nghĩa ưa  vật chất , và     coi  nước Mỹ là  1  hình thái tận cùng  của  chủ nghĩa  này . Ông ta viết rằng  , ở Mỹ , mọi thứ , thậm chí  cả tôn giáo  cũng được  đo bằng  những  lời  lẽ vật chất . Ông ta nhận thấy ở Mỹ có nhiều nhà thờ nhưng  lại cảnh báo người đọc  là không  nên hiểu   rằng cứ   nhiều nhà thờ là tình cảm  tôn giáo và tâm linh cũng nhiều  . Theo ông , nhà  thờ ở Mỹ   hoạt động như kinh  doanh , tranh nhau  khách hàng  và quảng  cáo , và  sử dụng các phương pháp như ở cửa  hàng  và  nhà hát  để thu hút khách hàng  và người  xem . Mục sư nhà thờ , cũng giống  như người quản lý  1 doanh nghiệp  hoặc  1 nhà  hát ,   thành công là tất cả , và thành công đựơc đo bằng  kích thứơc –  mức độ to lớn ,  bằng con số . Để chiêu dụ khách  hàng , nhà thờ còn trơ trẻn đứng ra  quảng  cáo  và chào mời  cái mà người Mỹ tìm  kiếm  nhiều nhất – thoải  mái  hoặc vui vẻ ( ông ta   ghi  tiếng Anh – a good time   và fun   trong bản  tiếng Ả -rập ) . Kết  qủa   đưa đến là  các  sảnh    sinh hoạt  của nhà thờ , nơi  mà các giáo sĩ làm  ban  phép lành ,   trở thành nơi nhảy nhót , nơi đàn ông   đàn  bà  gặp nhau , buông tuồng  , sàm sỡ . Các mục sư  thậm chí còn đi đến mức   để đèn mờ nhằm   làm cho cuộc khiêu  vũ cuồng nhiệt hơn. Ông ta viết một  cách kinh tởm  ” Tiếng  nhạc từ máy hát làm  điệu nhảy khích động   hơn ,  sàn nhảy  trở  thành nơi  quay  cuồng giữa  giữa gót chân , và đùi , tay quấn   lấy  hông  ,  môi  vú kề nhau ,  bầu không  khí đầy vẻ dâm dật“.  Ông ta cũng   trích dẫn   bản báo  cáo Kinsey  về hành vi tình dục   để làm căn cứ cho phần  mô tả và kết  tội tính   sa đoạ của xã hội  người Mỹ . Qua nhận thức   này  về phương Tây  và lối sống  của nó có thể giải thích   tạo  sao các tên khủng  bố sùng đạo  lại coi  các  vũ  sảnh ,  hộp đêm   và những  nơi    khác  có thanh niên nam nữ tụ tập là  các  mục  tiêu  hợp logic . Những   lời tố cáo  chống lối sống Mỹ của Sayyid Quth  quá   dữ dội  cho nên  ông ta  phải rời bỏ   vị trí công tác tại   Bộ giáo dục   vào năm 1952 . Hiển nhiên  là sua đó  ông ta  gia  nhập tổ chức Huynh  đệ Hồi giáo .

      Công kích chính trong    các bài viết  và  bài giảng  của Sayyid Quth     nhắm  vào  kẻ thù  nội bộ –  vào cái mà ông  ta  gọi  là  kỷ nguyên  mới của sự ngu  dốt , theo tiếng Ả -rập   là jahiliyya ,  là   1  từ cổ điển Hồi giáo  để chỉ thời  kỳ đầy  rẫy  bọn   ngọai  đạo tại đất  Ả -rập  trước khi  có đấng Tiên tri và đạo Hồi  xuất  hiện .   Theo Sayyid Quth , đợt jahiliyya   mới này đã  nuốt  chửng  các  dân tộc  Hồi giáo  và những tên bạo chúa pharaon  mới – ám  chỉ các chế độ cầm  quyền  hiện  hữu – đang  cai trị họ . Nhưng  mối  đe dọa  của  kẻ thù  bên ngoài càng ngày càng lớn  mạnh . Có  ý cho rằng  thái độ chống  Mỹ của Sayyid Quth   chỉ là kết  quả của    cái thực tế mà ông ta gặp  khi   sang  Mỹ , nếu  ông ta đựơc cử sang bất cứ nước  nào  ở châu Âu  thì  ông ta cũng có thái độ tương tự . Nhưng vào thời điểm đó , người ta chỉ nhắc đến  nước  Mỹ , và  vai trò lãnh đạo của nước  này ,  từ xấu đến tốt  , đối   với các nước không-  Hồi giáo  đựơc   thừa  nhận  và  bàn cãi ngày  càng  nhiều . Chính bộ mặt tội  lỗi và cả sự suy đồi  của nước Mỹ và  sự đe  dọa  nhiên hậu  đối với  đạo Hồi  và tín đồ đạo Hồi  đã trở thành   chủ đề về   đức tin   trong  các  nhóm  Hồi giáo  chính thống .

       Hiện nay , tại các nước Hồi giáo , trên các phương tiện  truyền thông đại chúng , truyền đơn , bài giảng và  trong các   bài phát  biểu trước công chúng , ra  rã  1 bài tụng  dường như  dập  khuôn   về các   tội lỗi của Mỹ . Lấy một ví dụ là trong   một bài  phát  biểu  của  1 giáo sự người Ai cập  tại  buổi  họp  chung   giĩưa  EU   và  Tổ chức Hội nghị Hồi giáo  tổ chức tại Istanbul   vào tháng 3 năm  2002.  Danh sách tội ác đựơc tính ngược  đến  thời mới định cư  sơ khai   tại Bắc  Mỹ bao gồm  việc  tước đọat tài sản và   tiêu diệt   dân  bản địa   và sau đó là ngược đãi những  người còn sống  sót . Tiếp đến   là  việc bắt  làm nô lệ , bóc lột  người  da đen   ( lời tố cáo  kỳ quặc   từ nguồn tin  đặc  biệt  này ) và  người nhập cư   tại Mỹ . Lời tố cáo cũng bao  gồm những  tội ác chiến tranh   chống Nhật bản tại  Hiroshima  và Nagasaki cũng  như tại  Triều tiên ,  Việt nam , Somalia   và  các  nơi  khác . Đáng chú  ý   trong   những tội  ác của  hành  động  xâm lăng đế quốc   là   việc làm của Mỹ tại Liban , Khartoum , Lybia , Iraq  và  dĩ nhiên    có việc  Mỹ giúp Israel   chống  lại ngườiPalestine. Nói rộng  ra  ,   danh sách  buộc tội   còn  nêu   ra  sự ủng  hộ của  Mỹ tại Trung  đông  và  sự ủng  hộ dành  cho một  số nhà  cầm  quyền chuyên  chế khác  , như  vua Shah  tại Iran  và Haile Selassie tại Ethiopia  , cũng như  1 danh sách   ( được  điều  chỉnh  tùy theo  tình huống) các  nhà  độc   Ả -rập , chống lại nhân dân   của  họ .

      Tuy nhiên  lời  cáo buộc  mạnh  mẽ nhất   trong  tất cả   là sự suy đồi  và trụy  lạc của  lối sống Mỹ , và  mối đe  dọa  của  lối sống  này đối  với đạo Hồi . Mối đe  dọa này ,   thọat  đầu là do Sayyid Quth    nêu ra  ,  ngày  nay    đã trở thành  1 thành phần thường trực trong  vốn từ vựng  và ý thức hệ của  nhóm  Hồi giáo  chính thống , và  rõ  nhất là  trong ngôn ngữ của  Cách  Mạng  Iran .  Chính đây là  ý nghĩa của từ Satan đầu sỏ do cố giáo sĩ  Ayatollah Khomeni  gán cho nước Mỹ . Theo  kinh  Qur’an   mô tả thì Satan  cũng   chẳng  phải  là  bọn đế quốc  hoặc  kẻ bóc lột .  Hắn chính là tên dụ dỗ ,”là  tên ma  vương  quỉ quyệt   nhỏ to  vào  lòng   người”( Qur’an  CXIV,4,5) . 

       Chương  V

      SATAN VÀ  LIÊN XÔ  

      Vai trò  mới của  nước Mỹ –    theo nhận   thức của  vùng Trung  đông về vai trò  này –  được minh hoạ đầy sinh động  bằng sự cố   xảy ra tại Pakistan   vào năm  1979. Vào ngày 20 tháng 11  ,  một nhóm hàng ngàn  người Hồi giáo cấp tiến  chiếm giữ Nhà thờ lớn tại Mecca chống lại lực lượng an ninh  một  thời gian . Mục  đích của   họ là  để “làm  thanh sạch  đạo Hồi”và  để giải phóng   đất   thánh  Ả -rập  khỏi”bè   lủ những tên  vô đạo  hoàng gia ” và  các  lãnh đạo tôn giáo thối nát đang ủng hộ chúng .  Qua  loa  phóng thanh , các nhà lãnh đạo sự cố này tố cáo  phương tây   là  kẻ phá  hoại các  giá  trị cơ  bản của Hồi giáo   và  chính quyền  Saudi   là  những kẻ đồng phạm . Kẻ cầm đầu   kêu gọi   nên quay về   những truyền thống xa  xưa  ”   bình đẳng và  công bằng”  của Hồi giáo   . Sau một hồi  giao tranh dữ dội , quân  khởi loạn   bị đè  bẹp . Người  cầm đầu bị xử tử   vào  ngày 9 tháng  giêng  ,1980  cùng với 62    tòng đảng  , trong  đó  có người Ai cập , Kuwait , Yemen  và  công dân  của các nước Ả -rập khác .

      Trong khi đó  ,  tại Islamabad , Pakistan  nổ ra 1  cuộc biểu tình  ủng hộ quân khởi  loạn .  1  tin đồn  lan truyền –  đựơc  Ayatollah  Khomeni  , lúc này   đang  cố   đóng vai   là nhà  cách mạng tại Iran , đồng tình – là  quân Mỹ   có tham gia vào những   vụ đụng  độ tại Mecca. . Đám  biểu tình Hồi giáo tấn công sứ quán Mỹ ,   làm chết 2  người Mỹ và  2  viên chức Pakistan . Tại  sao Khomeni  lại đưa ra  1  báo cáo  không những là giả mạo và   không  thể nào xảy ra đựơc ?.

      Những   biến cố này  xảy ra  trong  bối  cảnh   Cách  mạng Hồi giáo   năm 1979 . Vào ngày 4 tháng 11 , sứ quán Mỹ tại  Tehran   bị   chiếm , và  62  người Mỹ bị   bắt làm con tin . 10 người trong  bọn  họ , là phụ nữ và  người Mỹ da   đen , đựơc  thả ra  ngay ;   các con tin   còn lại   bị giữ 444 ngày , cho  đến khi đựơc thả ra  vào ngày 20 tháng  giêng 1981. Cho đến lúc  này   mới  rõ   động cơ  của   việc bắt giữ    ,  thông qua  lời khia  và  phát hiện sau đó  của  người  bắt con  tin   và  một số nguồn tin khác .  Khi  ấy   người ta  mới biết  là   vụ khủng  hoảng  con tin   xảy ra  không phải  vì  mối  quan hệ giữa Mỹ và Iran xấu đi  nhưng     chính là do   đựơc  cải thiện . Vào mùa thu  năm 1979 , Mehdi Bazargan , là thủ tứơng Iran  chủ trương tương đối  ôn hoà  , nhờ sự giúp đỡ của   chính phủ Algeria , đã  thu  xếp để gặp  cố vấn an  ninh quốc gia Mỹ   là Zbigniew Brezinski . 2  vị này  đã gặp nhau   vào ngày 1 tháng 11    và  theo báo cáo là  có chụp ảnh  bắt tay  nhau . Một  khả năng  có thể trở thành hiện thực – dưới  mắt  của những  người cấp tiến,  một mối nguy hiểm thực sự – có  thể có sự thoả hiệp  nào đó   giữa 2  quốc gia .  Đám  phản đối   chiếm  lấy  sứ quán   và bắt các nhà ngoại giao  Mỹ làm con tin   để     bóp  dí hy vọng  đối thoại xa  hơn . Về việc này , họ     đã  thành công hoàn toàn , ít nhất  cũng vào lúc ấy  .

       Theo Khomeni , thì nước Mỹ   là kẻ thù chính mà  ông ta phải   phát động   thánh chiến để chống lại . Thế thì , cũng như trong quá khứ ,  cái thế giới  của những kẻ không   có  đức tin này   được coi như  là  1 thế lực đáng gờm  đang cạnh tranh và ngăn  không  cho đạo Hồi   chiến thắng  và truyền  bá  theo  sứ mạng  đựơc  thánh thần  giao cho .    Trong tác  phẩm trước  đó của Khomeni   và  nhất là  quyển”Chính quyền Hồi giáo”viết năm 1970  , nước Mỹ đôi  khi  đựơc nhắc , và  sua đó   được nhắc tới khi   nói về chủ nghĩa đế quốc –   ban đầu  chỉ đóng vai trò  hỗ trợ ,   dần dần với tính cách là  người thay thế    cho Đế quốc   Anh  quen thuộc  nhiều  hơn .  Vào thời điểm  cách mạng  xảy ra ,   và khi  sự đối đầu trực tiếp ngày càng tăng  , thì nước Mỹ   theo  ông ta,  đã trở thành  kẻ thù  chính ,  và  là mục tiêu trung tâm  của   sự giận dự và   sự khinh  miệt   của  tín đồ Hồi  giáo.

      Mối   thù đích  đặc biệt   của Khomeini  đối với  nước Mỹ dường như   bắt đầu từ tháng 10 năm 1964 ,  trong bài phát  biểu trước tư dinh tại Qum, , ông ta kịch liệt tố cáo  điều luật trình  Quốc  hội Iran   về đặc  quyền  ngoại giao dành cho phái bộ   quân sự Mỹ ,  cùng với gia đình , nhân viên , cố vấn  , người giúp việc của họ được miễn trừ    theo luật  pháp Iran .  Rõ ràng là  ông ta không biết  rằng quyền  miễn trừ tương tự cũng đã được   đề nghị và  đương  nhiên được chấp  thuận   cho các lực lượng  Mỹ đóng tai Anh trong thế chiến thứ 2 .  Nhưng vấn đề về cái  gọi là  nhượng bộ ,  đặc quyền   miễn  trừ ngoại giao  trong quá khứ dành cho   các thương  gia người Âu  và   du khách  khác  đến xứ Hồi giáo  là 1  vấn đề tế nhị , nhưng Khomeini  lại vận dụng   một cách  khéo léo :”Họ đã  đẩy người Iran  xuống   vị trí thấp hơn  con chó của người Mỹ . Nếu có ai chẹn phải   con chó  của người Mỹ ,  người đó  sẽ bị trừng trị . Ngay  cả vua Shah , nếu  ngài   chẹn chết  1 con chó  của người Mỹ , ngài cũng  sẽ bị trừng trị . Nhưng  nếu 1  đứa  nấu bếp   người Mỹ đụng  phải   vua Shah ,  là nguyên thủ quốc gia ,  thì không  ai có  quyền  xâm  phạm  tên  nấu  bếp đó”Do  đã  đụng  chạm với nhà cầm quyền , sau  bài  phát biểu  này , Khomeini bị trục xuất  khỏi Iran   vào ngày 4 tháng 11 . Ông ta trở lại  chủ   đề này nhiều lần    trong   các  bài   phát  biểu  và  bài viết  sau đó ,   mạt  sát người Mỹ   là miệng thì cam kết tôn trọng nhân  quyền ,  nhưng lại không hề đếm  xỉa  đến  những quyền này  đối với Iran  và  một  số nước   khác , trong  số đó  có các  nước thuộc  châu Mỹ Latinh ”  tại sân  nhà  của  họ .  Những  lời kết  tội  khác  gồm  có  tước đoạt sự phồn vinh  của  Iran  ,   và  ủng hộ chế độ quân chủ Iran. .

      Trong những  bài phát  biểu  sau  khi  trở lại Iran , danh mục  những nổi bất  bình    và   danh sách các kẻ thù  ngày càng dài thêm , nhưng bao giờ nước Mỹ cũng đứng đầu bảng .Và không   chỉ duy nhất tại Iran .  Trong bài phát  biểu    vào   tháng  9 năm 1979 tại Qum , ông ta  than phiền  rằng toàn  bộ thế giới Hồi giáo  đều nằm trong nanh  vuốt của người Mỹ   và  kêu gọi toàn  thể người Hồi giáo trên thế giới  đứng lên chống lại kẻ thù . Chính vào thời điểm  này , ông ta  bắt đầu   gọi nước Mỹ là tên “Satan  đầu sỏ”. Cũng  vào thời điểm  này  , ông ta  tố cáo Anwar  Sadat  của Aicập  và  Saddam Hussein  của  Iraq  là  đầy tớ   và tay sai của Mỹ . Sadat phục vụ người Mỹ khi  ký  kết hoà  bình với Israel ;   Saddam Hussein phục vụ Mỹ vì đã gây chiến với Iran . Sự đối đầu  với Mỹ trong   vụ khủng  hoảng con tin , trong  cuộc  xâm  lăng của Iraq  , và  trong nhiều trận  chiến về kinh tế và ngoại giao  đã chứng minh nhận định của Khomeini  về vai trò  chính của Mỹ trong  cuộc chiến giữa Hồi giáo và phương Tây .  Từ đó trở đi , nước Mỹ là”tên Satan đầu  sỏ”,  Israel là  tay sai của  Mỹ , là”tên Satan  con”,  nhật lệnh là” nước Mỹ phải chết”. Đó là khẩu hiệu  đựơc  hô to và giương lên  trong các  cuộc  tuần hành chống   Mỹ năm 1979. Về sau , khẩu hiệu  này  đựơc  tô vẻ thêm  trịnh trọng ,  đầy nghi  thức tôn giáo cho nên  không còn ý nghĩa thực sự của nó  nữa.

      Các nhà quan sát người Mỹ , bừng tỉnh  vì bị Cách mạng  Iran  lớn tiếng  xỉ vả là  tên Satan đầu  sỏ , cố gắng  tìm  hiểu vì sao  tình cảm chống Mỹ   lại  trổi  dậy  mạnh  mẽ trong thế giới  Hồi giáo  vào  thời điểm đó . Một  cách giải thích có lúc đựơc    nhiều  người chấp nhận , nhất  là  trong giới đối  ngoại Mỹ , là hình ảnh  nước  Mỹ   bị hoen ố trong  thời chiến  và do tiếp tục  liên  kết   với các cừơng quốc thuộc địa   châu Âu . Để biện  hộ cho   đất  nước mình ,  một  số nhà bình luận Mỹ    cho rằng , khác với các đế quốc Tây Âu ,   bản thân  nước Mỹ cũng là nạn nhân của chủ nghĩa thuộc địa , nước Mỹ là  quốc gia đầu tiên  giành đựơc  độc  lập  thoát khỏi sự cai trị của   nước  Anh  . Nhưng các  tác giả Ả -rập  đã nhanh chóng   chỉ ra  rằng đó chỉ là  viễn vông  khi   hy  vọng  rằng  dân bị trị của các  đế quốc Anh và Pháp tại vùng Trung đông   sẽ coi  cách mạng  Mỹ là tấm gương  trong  cuộc chiến chống chủ nghĩa  đế quốc   của họ . Cuộc cách mạng  Mỹ như  họ thường lưu  ý , không phải do người Mỹ bản xứ , mà  lại do   dân  lập nghiệp  người Anh  đứng  lên chiến đấu  ,  như  thế hoàn toàn không phải  là  chiến thắng  chống lại chủ nghia thực  dân , mà đó là  cuộc chiến  chung  quyết  của   chủ nghĩa  thực dân ,  là người Anh tại Bắc Mỹ   đã thành công  trong việc thực dân  hoá  vùng đất này  một cách trọn  vẹn đến mức họ không  cần   đến sự hỗ   trợ   của  mẫu quốc  để chống lại dân  bản địa .

      Không mấy ngạc nhiên  khi thấy  dân  bị trị của  các   nước thực dân cũ   tại vùng Trung đông  coi  nước Mỹ cũng mang tính đế quốc   chủ nghĩa  như  các  nước   Tây Âu .  Nhưng  sự uất hận  của  nhân  dân vùng Trung đông  đối  với các cừơng quốc  đế quốc không  phải  lúc  nào cũng nhất quán . Liên   xô , nước  đã duy trì  và nới rộng   các phần  lãnh thổ do  Sa hoàng  chinh phục , cai trị hà  khắc hàng   chục  triệu người  Hồi giáo tại  các nước cọng hoà  Trung Á và  vùng  Caucasus.  Nhưng  Liên xô  lại không hề bị những cọng  đồng  Arập  thù hận và căm ghét    đến   thế.

      Mối quan tâm  của Nga   tại vùng Trung  đông  có  từ lâu . Qua nhiều thế kỷ các Sa hoàng   đã  mở rộng  xuống phía  nam  và phía đông  , và đã  sáp nhập  nhiều  vùng đất   Hồi giáo rộng  lớn   vào đế quốc  Nga , chỉ trừ nước Thổ và Ba tư  và các nước Hồi giáo đã độc lập tại tại Trung Á. Việc  thất trận của  phe   trục  năm 1945  đã làm nẩy sinh mối đe  doạ mới từ Liên xô. Liên xô lúc này đang nắm chắc vùng Balkan  và  có thể đe  doạ Thổ nhĩ kỳ cà 2  mặt biên giới  đông và tây. Họ đã thọc sâu  vào Iran  khi  chiếm  vùng Azerbaijan . Mối  đe  doạ đối với Iran đã có từ lâu . Trong các  cuộc chiến tranh Nga- Iran  năm 1804-1813 và 1826-1828 , người Nga  đã  chiếm  phía bắc Azerbaijan ,  biến  vùng này  thành 1 tỉnh  của đế quốc Sa hoàng  và sau đó  trở thành  một  nước  cọng  hoà trong Liên bang Xô viết. Trong thế chiến thứ 2 , cùng  với  người Anh ,  Liên xô  chiếm lấy  Iran để bảo đảm  phòng  tuyến liên lạc cho cả 2 nước . Khi chiến tranh  chấm  dứt , người Anh rút  quân ; Liên  xô  vẫn  ở lại , rõ  ràng là  có ý  định  sáp nhập  phần còn lại  của Azerbaijan   vào Liên xô.

      Lần đó họ bị chặn lại . Nhờ sự giúp  đỡ chủ yếu  từ phía Mỹ , người Thổ   gạt phắt  yêu cầu  của Liên xô  đòi  xây dựng căn cứ   tại vùng  eo biển  Dardanelles ,  còn Iran  thì lật  đổ chính phủ cọng  sản  bù  nhìn  mà quân Xô viết chiếm đóng  dựng lên  tại vùng  Azerbaijan Ba tư   và tái xác lập chủ quyền  quốc gia  của chính  phủ Iran  trên  toàn bộ lãnh thổ của mình .

      Trong  một thời gian , ý đồ thực hiện  giấc mộng  nhiều năm của Sa hoàng  của Liên  xô bị   dội  ngược ,  và  cả Thổ nhĩ  kỳ lẫn Iran  đều  gia nhập  liên  minh   Châu Âu . Nhưng hiệp  ứơc khí giới  Nga – Aicập  năm 1955   đã đưa  Nga  trở lại  chơi ván  bài  Trung  đông , lần  này  đóng  vai trò   chủ đạo . Người Thổ và  người Iran  đã có  nhiều kinh nghiệm  với chủ nghĩa đế quốc của Nga   cho nên rất  dè chừng . Còn các nước Ả -rập  chỉ quen với  chủ nghĩa đế quốc kiểu phương  Tây  , cho nên  hồ hỡi  chờ đón  Liên xô . Bằng cách  vựơt qua  rào cản  phía  bắc  và   tiếp xúc  trực tiếp với  các   nước Ả -rập mới độc lập , trong  một thời gian ngắn , người Nga  đã  tạo  dựng  đựơc một vị trí  rất  vũng  vàng .

      Lúc đầu họ đi  những  bứơc  cũng  giống như  những  người  Tây Âu tiền  nhiệm – đặt  căn  cứ quân  sự , cung cấp vũ khí , “hứơng dẫn” quân sự , rồi xâm nhập   kinh  tế và văn hoá . Nhưng với Liên xô  , các  mối quan hệ kiểu này  chỉ   mới là bứơc đầu , ý đồ của  họ rõ ràng là càng tiến xa càng tốt. Không   mấy nghi ngờ là , nếu  không có sự chống đối của  Mỹ , chiến tranh lạnh , và   sau đó  là  sự sụp đổ của Liên xô , thì  thế giơi  Ả -rập  trước sau gì  rồi cũng  rơi vào  số phận  của Balan và Hungari , chắc chắn   hơn nữa sẽ là Uzbekistan.  Nhưng  không  phải chỉ có  thế . Trong  khi  cố đặt  ách bảo hộ lên các đồng minh  Trung đông , Liên xô lại tỏ ra không  xứng  với vai trò bảo hộ chút nào. Trong  chiến tranh   Israel-Ả -rập   năm 1967 và sau đó  năm  1973, họ đã không muốn hoặc không  thể cứu  người  đựơc  bảo trợ khỏi bị thất  bại    và nhục  nhả . Tất cả cái  mà  họ làm được  chỉ là  cùng  với Mỹ kêu gọi Israel ngừng  tiến công.

      Đến  đầu   thập niên 1970 ,  thì sự hiện diện  của Liên  xô  không những không  hữu hiệu  mà  lại còn  gây lắm phiền toái.  Giống như  các đế quốc châu  Âu  đi trước , Liên  xô   xây dựng  nhiều căn cứ quân sự trên đất Aicập    mà không   người Aicập  nào đựơc  phép bén mảng  đến  và  tiến   sang  giai đọan cổ điển   mới  là   ký kết  các hiệp  ứơc  bất  bình đẳng .

      Có  một số lãnh đạo  Trung  đông thấm thía  bài học  và   với ít nhiều  miễn cưởng , quay sang phương Tây . Rõ nhất là Tổng thống Anwar Sadat của Ai cập , vốn  từng thừa  hưởng  mối  liên hệ với Liên  xô   từ người tiền nhiệm là  Tổng thống Nasser.  Vào tháng 5/1971, ông  ta buộc phải ký hiệp  ước  hữu nghị và  hợp tác rất  không bình đẳng  với Liên  xô ; đến tháng 7/1972 , ông ta   ra lệnh buộc tất cả các cố vấn quân sự Liên  xô  phải rời Ai cập  và bắt đầu tiếp cận  với Mỹ và tìm kiếm hoà  bình  với Israel. Tuy nhiên , dừơng như Tổng  thống Sadat  hoàn toàn đơn độc  khi đưa ra  đường lối và  chính sách như  thế y  , và  nhìn chung  thì  những   sự cố trên không  làm sứt mẻ    thiện chí của Liên xô cũng như  tăng thêm  thiện chí  đối với Mỹ . Liên xô không   hề sây sứt    hoặc thậm chí  không hề bị   trách cứ gì vì hành động    đàn áp  Hồi giáo tại   các cộng hoà Trung Á  và vùng Caucasus ,  nơi có đến  50 triệu người theo đạo Hồi. Về mặt  này , người Tàu  cũng  không bị tố cáo  vì  đã từng  đàn áp người  Hồi giáo  tại Tân cương . Người  Mỹ cũng không hề nhận đựơc  bất cứ sự tri ân   nào  khi   ra sức  cứu  người Hồi giáo  tại Bosnia , Kosovo và tại Albania.  Rõ ràng là ỏ đây có  những chuẩn  mực khác .

      Có lẽ thí  dụ   minh hoạ sâu  sắc nhất cho sự  thiên lệch  này   là vụ Liên xô  xâm lăng Afghanistan   vào cúôi tháng chạp  năm 1979   và  dựng   lên  1 chính phủ bù nhìn  tại đây. Thật là khó mà tìm  được  1   ví dụ nào  rõ  ràng ,  hiển nhiên  hơn  về sự xâm  lăng  , chinh phục  và thống trị   của  đế quốc bằng trừơng hợp này.  Tuy  thế ,  hầu  như không hề   có phản  ứng  từ khối Ả -rập , và  của thế giới  Hồi giáo  nói chung  .   Vào ngày 14 tháng  giêng 1980 , sau nhiều lần trì  hoãn ,  cuối cùng Đại hội đồng Liên hiệp quốc  cũng thông qua 1  nghị quyết  về biến  cố này , không phải để tố cáo   Liên xô  xâm lăng nhưng”  rất lấy làm tiếc  về sự can thiệp  bằng vũ lực  tại Afghanistan”. Ở đây không   dùng  từ”xâm lăng”, cụm  từ ”  kẻ can thiệp”cũng không hề đựơc  nhắc tới . Kết  qủa  bỏ phiếu  biểu  quyết là  104/ 18.  Trong  số những  nước  khối Ả -rập , Syria  và Algeria  bỏ phiếu trắng , nam Yemen  bỏ phiếu chống  , còn Lybia  thì  vắng  mặt . PLO  là  quan sát viên , không có  quyền bỏ phiếu  nhưng lại đọc 1  diễn văn biện  hộ mạnh  mẽ cho  hành động  của Liên xô. Tổ chức  Hội nghị Hồi giáo ( OIC)  cũng  không xử sự khá  hơn.  Ngày  27 tháng  giêng,   sau nhiều lần vận động  và thương thuyết ,  OIC  cũng tổ chức  đựơc 1  cuộc họp  tại Islamabad   để thảo luận về vấn đề Liên xô-Afghanistan .  2 nước thành  viên  , Nam Yemen  và Syria tẩy chay  cuộc họp. Đại  biểu  của Libya công kích  kịch liệt  nước   Mỹ , còn PLO , là thành viên chính thức của OIC , lại từ chối  bỏ phiếu  về   nghị quyết   chống Liên xô,  thay  vào đó , trình ra  1  văn bản   bảo lưu .

      Cũng  có  một vài đáp ứng  từ thế giới Hồi giáo  đối  với sự xâm  lăng  của Liên xô- Saudi Arabia  cho một ít tiền , Ai cập  cho một ít khí giới , và   nhiều  quân tình nguyện Ả -rập.  Nhưng  chính   Mỹ là  nước  đứng ra tổ chức mặt trận phản  công  của Hồi giáo  chống lại  chủ nghĩa đế quốc Liên xô tại Afghanistan  có phần nào thành công  . OIC giúp người Afghan  không nhiều , muốn tập  trung  sức lực   vào những   vấn đề khác – hướng  về một  số cộng  đồng Hồi giáo nhỏ  tại  các khu vực chưa   thoát khỏi  ách thực  dân , và  dĩ nhiên   là bao gồm    cuộc  xung đột Israel-Palestin.

      Israel  là 1 trong  số nhiều  điểm ( gồm  Nigeria, Sudan, Bosnia , Kosovo, Chechnya , tân cương , Kashmir , Timor , Mindanao , và v.v…)  mà thế giới Hồi giáo và không- Hồi giáo  gặp nhau . Mỗi nơi trong  những  điểm này  là  1 chủ đề trung tâm   cho những phe tham gia,   và   nhưng lại là  lý do né tránh khó chịu   cho   nhóm  khác . Ngược lại , phương Tây   thường cố hết sức  giải  quyết  những  nổi  bất  bình của người này với cái giá  là   gây bất  bình cho người khác .   Cuộc  xung đột Israel-Palestine chắc chắn là đã gây nhiều chú ý  hơn  bất cứ cuộc xung  đột nào khác  , vì  nhiều lý do .  Một  là ,  vì Israel  là 1   quốc gia dân chủ và   là 1  xã hội  cởi  mở , cho nên  sẽ dễ dàng hơn  khi báo cáo – và  báo cáo  sai –  về những  gì xảy ra  ở đó.  Hai là  , vì có liên quan  đến người Do thái  , cho nên  điều này bảo đảm   sẽ đựơc nhiều người  nghe, trong  số đó  có  người  vì lý do  này hay  lý do khác  ủng hộ hay là chống đối họ . Một  ví dụ tiêu biểu   cho  sự khác biệt này  là chiến tranh Iran-Iraq kéo dài 8 năm  từ 1980 đến 1988. Cuộc chiến  này   đã gây ra nhiều  thương  vong  và huỷ hoại nhiều hơn  tất cả các  trận  chiến Israel- Ả -rập cọng lại   nhưng lại không được  mấy ai chú  ý. Bởi  vì  1 lý do  là , cả Iraq lẫn Iran đều  không có dân chủ , và có nhiều  khó  khăn và   nguy hiểm hơn trong  việc  từơng  trình   . Mặt  khác , do không liên quan đến người Do thái  , với tư cách là nạn nhân  hoặc kẻ thủ ác , cho nên không có gì thú vị khi  tường  thuật  cả .

      Lý  do thứ 3  , chủ yếu  quan trọng nhất  khi đặt  vấn đề Palestine lên hàng  đầu  là  vì , cứ cho  là thế , nổi  bất bình  được  cho phép –   nổi  bất bình duy nhất  được phát biểu tự   do  và  an toàn  tại những  nước Hồi giáo nói trên , nơi mà báo chí chỉ do  nhà nước làm chủ hoặc   bị theo dõi gắt gao  . Thật  vậy , Israel  là  chỗ để trút  mọi lời óan trách  về sự thiếu   thốn  kinh tế và  áp bức  chính trị   mà   đại đa số người Hồi  giáo  hứng chịu , và  được sử dụng  như   1 phương  tiện để làm chệch hứơng nổi căm giận  đó . Phương  pháp này  rất có  ích  khi xảy ra  trùng hợp  với hòan cảnh nội tại của Israel , khi  có   bất cứ sự sai sót nào của chính phủ , quân đội  , của  người lập nghiệp hoặc  bất cứ người nào bị phát hiện   hoặc bất cứ sự dối trá  nào tại  Israel  vừa  bị bị   bóc trần  ,  từ phía   người  Do thái lẫn người Ả -rập , trên  báo chí  và nghị viện Israel.  Đa số những nước  thù nghịch   với  Israel  đều không  bị những  khó  khăn này  trong quan  hệ ngọai giao của  họ .

      Khi  các  đế quốc Tây  Âu suy tàn , thì  tính  chống  Mỹ tại vùng Trung đông  lại đựơc gán cho những nguyên nhân khác , đặc thù hơn :  sự bóc lột kinh tế   thường đựơc  mô tả như là  sự cứơp bóc  các  tài nguyên  của  người Hồi giáo ; sự   giúp  đỡ cho các  nhà độc tài  thối nát   địa phương phục  vụ cho các mục tiêu của nước Mỹ khi  áp bức  và  cứơp  đọat tài sản của chính nhân dân  mình , và  còn nhiều , nhiều hơn nữa   là 1 nguyên nhân  khác :  người Mỹ ủng hộ cho Israel ,  lúc đầu   trong vụ xung đột  của  người  Palestine gốc Ả -rập , sau đó  là  xung đột với  các nước Ả -rập láng giềng  và  cuối  cùng là thế giới Hồi giáo .Trên báo chí  bằng tiếng Ả -rập và Ba tư  chắc chắn  có người ủng hộ giả thiết này , nhưng   sẽ không   phù  hợp mấy nếu cho rằng  không có những  trở ngại này thì các chính sách của Mỹ tại Trung đông sẽ thuận lợi hơn . Vấn đề Palestine chắc chắn đang  gây   nổi căm giận ngày càng lớn , đôi khi  đựơc  hâm nóng   và  trở nên  nghiêm trọng  hơn  vì  các chính sách  và hành động của  chính  phủ   hoặc  các đảng phái Israel .  Nhưng   thực  sự đó có phải là lý do  chính để   gây  nên  tình cảm   chống  Mỹ , như  một  số người lập luận ?.

      Lịch sử cứ diễn lại một  số   oái ăm   . Vào những năm 1930 , các chính sách của  Đức quốc  xã là nguyên  nhân  khiến người Do thái di cư   sang Palestine ,  lúc đó dứơi quyền  ủy trị của  Anh ,  và   kết  cuộc là  làm  tăng  số dân Do thái  ở   đây  .   Bọn Quốc  xã không những chỉ cho phép  di cư , mà  họ còn tạo thêm  điều kiện  thuận lợi    cho đến  khi chiến tranh nổ ra , còn người Anh ,  với hy  vọng heo hắt   là tranh thủ thiện chí của khối Ả -rập , đã đưa ra  các biện pháp hạn chế di cư . Tuy nhiên ,  giới  lãnh đạo Palestine thời ấy , cũng  như các nhà lãnh đạo khối Ả -rập khác , lại  ủng  hộ người Đúc ,  vốn chủ trương   tống  người Do thái sang Palestine,  chứ không  phải  là nước Anh   , cố gắng không   cho  họ đến  vùng  này.

      Cũng  có thể thấy  tình  hình tréo cẳng ngỗng  tương tự trong những  biến cố dẫn đến  sự thành lập nhà  nước  Israel vào năm 1948 và sau đó . Liên xô  lúc ấy  đã đóng 1 vai trò  quan trọng khi vận động   Đại hội  đồng Liên hiệp quốc biểu  quyết  thành lập 1 nhà  nước Israel   tại Palestine và  lập tức  công  nhận Israel  về mặt pháp lý ( de jure) . Nước Mỹ thì  lại dè dặt hơn  và chỉ công nhận trên thực tế ( de facto ) .Quan trọng  hơn  nữa , là  chính phủ Mỹ duy trì  lệnh cấm vận một phần  vũ khí  cho Israel , trong khi đó , đựơc   sự cho phép của Moscow, Tiệp   khắc  lập tức chuyển   ngay một  số lượng vũ khí  để giúp cho  nhà nước  Israel  non  trẻ sống  sót .  Lý do  vì sao Liên xô  có chính sách như thế   vào  thời điểm đó không phải vì   có  thiện  ý đối với  người Do thái  hoặc   ác ý đối  với   người  Ả -rập. Đó là do 1sự tin tưởng  sai lầm-  nhưng lúc ấy  lại đựơc nhiều người  chia  xẻ –   đó là  nước Anh vẫn còn là 1  cường quốc phương tây  , và   như thế   là  kẻ    cạnh tranh chính của Liên xô .Theo  cách nhìn này  ,  thì ai phá nhiễu  người Anh –   kiểu mà người Do thái đang làm trong  những   năm cuối  cùng khi Anh   thực  hiện quyền ủy trị Palestine-  đều đáng được  Liên  xô giúp đỡ .  Sau này , Stalin  nhận thấy  mình  đã sai  cho nên đã chú  tâm vào nước Mỹ thay  vì  nước Anh.

      Trong thập  kỷ   sau , khi   nhà  nước  Israel đựơc   thành lập , việc  đối xử của Mỹ với nhà nước Do thái vẫn còn  hạn chế và  dè chừng.  Sau  chiến tranh  kênh  đào Suez  năm 1956 , người Mỹ đã  can thiệp mạnh  mẻ và quyết liệt   để buộc  các lực lượng Anh . Pháp  , và Israel  rút  lui.  Nhà  lãnh đạo  Liên xô  lúc ấy là Khrushchev ,  khi  cuộc chiến  nổ ra vẫn còn  im hơi thận trọng ,  cho rằng  1 tuyên cáo  thân Arập  cũng không    dẫn đến  đụng  độ với Mỹ , và chỉ từ sau  lần  đó    –  mới   mạnh dạn đứng   về phía  Ả -rập .  Cho đến tận chiến tranh  năm 1967 , Israel dựa vào kho  vũ khí châu  Âu cung  cấp  , chủ   yếu  do Pháp , chứ không  phải của Mỹ.

      Tuy  thế , chủ nghĩa đế quốc  Nga , giờ đây dưới  hình  thức Liên xô , quay lại đóng  1 vai trò   tích cực  hơn   đối với  tình hình  Trung đông đã mang đến   1   đáp ứng  cuồng nhiệt trong thế giới Ả -rập   .  Sau vài  lần  thăm   viếng  ngọai giao cùng với  các họat  động  khác , một mối quan hệ mới  đựơc chính thức  tuyên bố   vào cuối tháng 9/1955 , là  1 thỏa hiệp  về vũ khí  được  ký  kết giữa  Liên xô và Ai cập ,  là nước càng ngày càng lộ rõ là 1 chư hầu của  Liên xô . Thậm chí  hiệp định vũ  khí  đã  tạo  ra một sự chào đón hồ hỡi   còn  ấn tượng   hơn là  chính  bản thân nó trong  thế giới  Ả -rập , vượt qua  mọi  sự khác biệt và   bất  bình  tại  địa phương  .  Hạ nghị viện  các nước Syria . Liban  , và Jordan  họp  ngay  và  đưa ra  nghị quyết  chúc mừng Thủ tứơng Nasser thời đó , ngay cà Nuri Said ,  là nhà  lãnh đạo thân phương Tây  của Iraq , dù đang  tranh  giành  với  Nasser  chiếc  ghế lãnh đạo phong trào toàn – Ả -rập ,  cũng buộc phải chúc mừng người đồng sự   Aicập . Hầu như  toàn bộ giới báo  chí tiếng  Ả -rập  đều nhất loạt  tán  thành .

      Tại sao lại có  phản ứng  này ?  Chắc chắn là người  Ả -rập  chẳng yêu thương gì  nước Nga, cũng như  tín đồ đạo Hồi   trong và ngoài thế giới Ả -rập   lại muốn  đem chủ   nghĩa Cọng  sản   hoặc sức  mạnh của Liên xô  vào  nước  mình . Đó  cũng  chẳng phải   là phần thưởng  cho chính sách  đối với Israel của Moscow , là chính sách khá  thân  thiện . Cái  làm cho người Ả -rập  hồ hỡi   là   họ coi  thỏa hiệp về vũ  khí  – chắc chắn  là đúng như thế –  là  1 cái   tát vào mặt phương tây . Cái tát  này ,  và  hình ảnh phương Tây  bị rối tung  thấy rõ   và nhất là  phản  ứng của Mỹ ,  đã  củng cố thêm    cái tâm trạng  thù  hận  và khinh bỉ   đối với  phương Tây   và   cổ vũ  cho  người  có tâm trạng  đó.

      Do ảnh hưởng   của Liên xô  mở rộng   tại Trung đông   và  thái độ hồ hởi chào  đón của   vùng  này  khiến cho người Mỹ có  thiện cảm  hơn  với Israel ,  giờ đây  đựơc coi như  là  1  đồng minh  tin cậy   và  là 1 đồng  minh có  ích lâu dài  tại  1  vùng đất  đầy   thù nghịch .  Ngày  nay , ít ai còn  nhớ rằng   mối quan hệ chiến lược   giữa Mỹ và Israel   chỉ là hậu  quả , chứ không  phải  là nguyên nhân của sự xâm  nhập  của  Liên xô .

      Đương  nhiên điều quan tâm  đầu tiên  của  bất cứ chính phủ Mỹ nào  cũng là   xác định  quyền  lợi của Mỹ   và  đề ra   chính sách để bảo vệ   và đẩy mạnh các  lợi  ích đó. Trong thời  gian  sau thế chiến thứ 2 , chính  sách của Mỹ tại Trung đông , cũng như tại  các nơi khác , chỉ nhấn  mạnh  yêu cầu làm sao ngăn  chận đựơc sự xâm nhập của Liên xô . Đáng   tiếc là  nước Mỹ đã từ bỏ ưu thế về  đạo đức  của kẻ đứng ngoài   cuộc   và  nhảy  vào  sân khấu :  đầu tiên  là  ủng  hộ   vị trí  đang  rệu  rã của  người  Anh , rồi  sau đó , khi đã rõ  là  không thể nào giữ vị trí   này  vững được , lại tham gia   một  cách trực tiếp hơn và  cuối cùng  là thay thế người Anh  để bảo vệ   vùng  Trung đông  khỏi  bị bên ngoài   tấn công  , nhất là từ Liên xô.

      Nhu cầu  hậu  chiến ngay   sau đó  là chống   trả lại áp  lực  của Liên xô  ở rìa phía bắc –   bảo đảm  để Liên xô  rút  ra khỏi vùng Azerbaijan thuộc  Iran   và từ bỏ yêu sách đối  với  Thổ nhĩ  kỳ . Chính sách này   rõ ràng   và có  thể hiểu được   và ,   nói chung , đã  thành  công  trong  việc cứu    Iran  và Thổ   nhĩ  kỳ . Nhưng khi  thử mở rộng sang  thế giới  Ả -rập  qua  hiệp  ứơc Baghdah  ,  quả tình đã  bị trở quẻ   một cách tai hại  vì   đã  đối đầu  hoặc làm giảm  uy tín những   kẻ   mà nước Mỹ muốn lôi cuốn . Nhà lãnh đạo Ai cập ,  Gamal’ Abd al- Nasser , nhận thấy   hiệp  ứơc  trên  đe  dọa đến quyền  lãnh đạo của  mình ,  nên đã  quay  sang  phía Liên xô . Chế độ   thân  phương tây  tại Iraq bị lật đổ ,  các chế độ thân   thiện khác tại Liban  và Jordan   lâm  vào tình cảnh nguy hiểm  đến  mức  phải     cầu viện  phương tây giúp  đỡ bằng  quân sự mới cầm cự được .  Từ năm 1955 ,  khi Liên xô  nhảy   vượt từ    biên giới phía  bắc   vào  thế giới Ả -rập ,  thì    cả sự đe dọa  lẫn  phương tiện để chống lại  sự đe dọa  này đã  thay đổi một cách  triệt  để . Trong khi  rìa phía băc  vẫn còn giữ vững , thì vùng đất Ả -rập  lại  trở thành  thù  nghịch  , hoặc  ít nhất   cũng giữ thế trung  lập  một cách  áy náy  .  Trong tình  thế này ,  mối quan hệ của  Mỹ đối với   Israel  bứơc  vào 1  giai đọan  mới .

      Mối   quan hệ   này đã  định hình từ lâu dựa  trên  2  sự cân nhắc  hòan  tòan  khác  nhau :  cái thứ nhất  dựa  trên  ý  thức  hệ hoặc  tình  cảm ,  cái kia  là vị trí chiến  lược . Người Mỹ , được  nhồi nhét  Kinh thánh  và  lịch sử nước  họ ,  dễ dàng   nhận thấy  sự ra đời  của nhà  nước Israel  hiện đại  là 1  đợt di dân ( Exodus)  mới  quay về vùng  đất  hứa ,  và cũng dễ cảm tình  vói  những  người dừơng như lập lại  cái kinh nghiệm đi sang  Mỹ lập  nghiệp của  cha ông họ   , những người đi khai phá  và  những  người kế tục . Còn người Ả -rập , dĩ nhiên  không hề nhìn   theo cách này , và nhiều  nước  châu Âu cũng chia sẻ   quan niệm này .

       Mối gắn kết  khác  giữa Mỹ và Israel   là  mối liên  hệ chiến  lược ,   khởi   đầu từ   những  năm 1960  , đã  nẩy  nổ mạnh   trong những năm 1970 và 1980 ,  chao đảo   trong   thập niên 1990   và  trở nên quan trọng  khi  nước Mỹ   cùng lúc  đối diện   với  sự đe  dọa  do tham vọng  bá  quyền   của Saddam Hussein   và  sự khủng  bố của  bọn al-Qa’ida   chính thống , và  từ những  nỗi bất  bình  trong  số các đồng minh của  Mỹ vốn đã có từ lâu , nay  lại tăng  thêm .  Vai trò  lợi thế chiến  lựơc   của  Israel   đối với Mỹ   đã gây nhiều tranh  cải .  Có  một số   người ở Mỹ coi  Israel là 1 đồng  minh chiến lược  chính  trong  khu vực và là 1  thành lũy  tin cậy  chống lại  kẻ thù  trong  và ngoài khu vực . Những người khác  lý luận rằng Isreal  còn  lâu   mới là 1  lợi  điểm chiến  lược ,  chỉ là cái của nợ chiến lược ,   bỏi vì   nó làm rạn  nứt  mối quan hệ của  Mỹ đối với  thế   giới Ả -rập  và    là nguyên do làm  cho  các chính sách của  Mỹ trong khu vực   thất  bại.

      Nhưng  nếu ta  so  sánh hồ sơ  của  chính sách  Mỹ tại vùng  Trung đông   với    các vùng khác ,  ta  sẽ ngạc nhiên  vì  đó  không phải  là  thất  bại  mà  lại  là  thành  công . Nói cho cùng ,  không  hề có Việt nam  tại Trung đông ,  không có Cuba  hoặc Nicaragua   hoặc El Salvador , thậm chí không có Angola   nữa . Ngựơc lại , qua suốt  một lọat  các    khủng  hỏang liên  tiếp làm  rung chuyển   cả khu vực ,  luôn luôn vẫn còn sự hiện diện  đường   bệ của  nước Mỹ trên  các mặt  chính trị , kinh tế và  văn hóa   tại nhiều   quốc  gia  trong khu vực –  cho đến   khi chiến  tranh vùng  Vịnh xảy ra năm 1991 ,  mà  không cần  đến bất cứ sự can thiệp quân sự đáng  kể nào .Và   thậm chí   cho đến lúc đó , sự hiện diện của Mỹ là để giải cứu  những  nạn nhân  của  1  sự xâm lăng  giữa 2  nước  Ả -rập , không  hề có liên quan gì đến  người Israel   hoặc Palestine. Những  ai  chỉ chăm chú  vào   miền Trung đông  luôn  luôn  xoi  mói đến   những  khó khăn  và thất bại  của  chính sách Mỹ tại khu vực  này , nhưng nếu ta  nhìn  rộng  hơn , ta sẽ lấy làm  ngạc nhiên về hiệu qủa  của  chính sách Mỹ tại  vùng này trái ngược  hẵn với chính sách tại Đông  nam Á , Trung Mỹ   hoặc tại Đông Phi .

      Từ khi Liên  xô sụp đổ , một chính sách Mỹ mới  xuất hiện  tại  Trung đông ,  liên quan đến  nhiều mục  tiêu khác nhau . Mục  đích  chính   của chính sách này   là ngăn  ngừa  sự    hình thành 1  bá quyền  khu  vực – tức là  1 cường  quốc duy nhất  trong vùng   có khả năng thống  trị   khu vực   và tiến  đến việc  kiểm  sóat độc quyền  dầu  mỏ khu vực này  .Đây là   mối   quan tâm cơ bản  của  các  chính sách kế tiếp  nhau  của Mỹ đối với  Iran , Iraq  , hoặc đối với bất cứ nước  nào đựơc cảm nhận  là  mối đe  dọa  tương lai    trong   khu vực .

      Cho  tới nay  chính sách được  chấp nhận , nhằm  ngăn   chận 1 bá quyền như  thế, là  khuyến  khích ,  cung cấp  vũ khí , và khi cần  thiết  sẽ hỗ trọ cho 1  hiệp ứơc an  ninh khu vực , chủ yếu  là  các nước Ả -rập. Chính  sách  này đương  nhiên  là  sẽ làm sống lại quá  khứ không có   gì vui  của  những toan tính trước kia , quả là  lợi  bất cập hại . Lần này , hiệp ứơc  đựơc  đề ra có phần   gặp may   mắn hơn. Kẻ thù  giả định   không còn là Liên  xô đáng   sợ , và các kẻ thù  trong  khu vực  lại có  nhận định tỉnh táo hơn về tình hình thế giới và  vị trí của mình . Nhưng  một hiệp ước như  thế ,  dựa trên các chế độ bấp bênh , cai trị những  xã hội dễ thay đổi , rõ  ràng là  liều  lĩnh  bởi  vì  theo  lẽ thường  mắc   xích  yếu nhất  sẽ quyết định   độ mạnh  của dây  xích . Lịch  sử Iraq  mới  đây   đã  cho thấy  rõ ràng vì sao một chính sách   như thế có  thể mắc sai  lầm . Khi tích cực ủng hộ vua Shah , Mỹ   đã đưa   ông ta đến chỗ bị lật  đổ ; khi chăm sóc  Saddam Hussein , Mỹ đã nuôi  dưỡng 1 con quái  vật . Thật  là dễ dàng  một cách tai hại  khi  lập lại   một  hoặc   cả 2  sai lầm trên ,    gây nguy  hiểm cho các lợi ích của phương tây trong  khu vực  và  đem  lại những  hậu quả khủng  khiếp  cho nhân dân sống  trong vùng đó .

      Trong khung cảnh  này , cũng dễ hiểu  khi  thấy   thiện  chí  của một  số chính   phủ Ả -rập  muốn thương thuyết  hòa  bình với Israel  ,  và  người Mỹ muốn đẩy  mạnh  tiến trình hòa bình . Nhiều  nước Ả -rập  bắt đầu  nhận ra rằng , dựa  trên  điểm  mạnh và điểm  yếu của  Israel , Israel  không  phải là  vấn đề nghiêm trọng nhất  đối  với họ , cũng không phải  là mối đe  dọa lớn nhất mà họ phải đối đầu . Một  nước Israel gây chiến với láng giềng sẽ là  1  mối nguy hiểm  thường  xuyên , là  1 cách  đánh lạc hứơng mà  1 Saddam Hussein  mới – thậm chí  cũ  cũng  được – bao giờ cũng  có  thể dùng  tới . Nhưng 1 Israel  hòa bình với   láng giềng ,ít nhất ,   cũng có thể đóng  vai trò  1 yếu tố   ổn định  dân chủ trong  vùng .

      Nói chung , có  2  kiểu  liên minh hòan tòan  khác nhau . Một kiểu là  chiến lược và  có  thể chỉ là  hòan tòan  hòa hõan  tạm thời   dựa  trên cơ sở cảm nhận có chung   những   mối  đe dọa . Một  sự hòa  hõan như thế có  thể đạt đựơc  với bất cứ nhà lãnh đạo  nào cũng đựơc –  không  cần  quan tâm  đến  cách  điều hành chính phủ , mô  hình xã hội   mà  ông ta  cai trị . Phía đối tác của   một liên minh như vậy  có thể thay đổi ý kiến bất cứ   lúc nào ,  hoặc thay ngựa  giữa   dòng    nếu   ông ta  bị lật  đổ   hoặc bị thay   thế . Như thế , liên minh  này có  thể chấm dứt  khi   thay đổi chế độ , thay đổi  lãnh đạo , hoặc   thậm chí  thay đổi tầm nhìn .Các biến cố tại  Lybia , Iraq , Iran  và Sudan sẽ làm rõ  ý này  khi chính trị thay đổi thì  chính sách bị   đảo ngược  hòan  tòan , hoặc  theo chiều hứơng khác như tại Ai cập , dù không thay đổi chế độ , các nhà lãnh đạo cũng  có thể chuyển hứơng từ phương Tây sang Liên  xô  và sau đó quay   về hàng ngũ   phương Tây.

      Phía Mỹ cũng  có tính uyển chuyễn  tương tự . Vì  lọai đồng minh như  vậy  có  thể bỏ rơi  Mỹ bất cứ   lúc  nào ,  Mỹ rõ ràng   là cũng thấy thỏai mái   khi bỏ rơi  những  đồng minh như thế ,  nếu   việc  liên minh  tỏ ra quá  phiền  phức   hoặc không còn  hiệu qủa kinh tế nữa-  lấy ví dụ,  trừơng hợp  của Việt nam , Kurdistan  và Liban . Người ta  có thể bỏ rơi 1 đồng minh chỉ vỏn  vẹn đóng vai trò hòa hõan  chiến lược , mà không hề tỏ ra ân hận  hoặc  lo  lắng   vì bị chỉ trích mạnh  mẽ trong nước .

      Kiểu  liên minh   còn  lại  đặt cơ sở trên sự tương đồng   về định chế , nguyện  vọng ,  và lối sống –   kiểu này khó thay đổi . Liên xô  vào thời điểm   vàng son  ý thức  rõ   điều này   và   đã cố gắng    tạo  dựng  các  chế độ độc tài cọng sản tại  những  nơi  họ có mặt . Các chế độ dân chủ   tạo ra khó khăn hơn  . Và cũng khó  phá hủy  hơn.

Chương IV

      Tiêu chuẩn nươc đôi    

      Trong  nhũng thập niên  gần đây ,  càng ngày người Trung  đông  càng biểu  lộ một sự   óan trách  nhạy cảm    hơn , một  mối bất  bình  mới  chống lại  chính sách   Mỹ : không chỉ nhằm vào sự đồng lõa  của Mỹ với chủ nghĩa đế quốc  hoặc với chủ nghĩa Zion   nhưng là một cái gì  đó  gần gũi   và trực tiếp  hơn – đó là  sự đồng lõa  củaMỹ với các nhà độc  tài thối nát  dang cai trị họ . Vì nhiều lý do  hiển  nhiên  ,   lời  óan trách   cụ thể này  không xuất hiện  thường xuyên  trước công  chúng , cũng  không thể nêu ra trong các cuộc  chuyện  trò  giữa  các viên  chức đối ngọai và  các nhà ngọai giao . Các chính  phủ Trung đông , như Iraq , Syria và  Tổ chức Palestine,  đã học đựơc  cách kiểm  sóat  khéo léo  cơ quan ngôn luận trong nước và lôi  kéo  cả    các phương tiện  truyền  thông  phương Tây .  Những lời óan thán này cũng không đựơc  nêu  ra trong  khi  thương thảo ngọai giao  cũng vì  những lý do   hiển nhiên tương tự .  Nhưng  càng ngày  vấn đề càng trở nên   bức  xúc  và khắc khỏai  hơn khi được  đưa  ra bàn luận  riêng với những ai  đáng tin cậy , và gần đây thậm chí công  khai –  mà không những chỉ giữa những người  Hồi giáo cấp tiến ,  bởi  vì đối với nhóm này  đây  là 1 vấn đề ,  là  1  chủ đề chính . Một  điều  khá thú vị ,   Cách mạng  Hồi giáo  Iran năm 1979 là thời điểm  mà sự oán hận này  được phát biểu công khai  . Vua Shah  bị tố cáo đã ủng hộ nước Mỹ , nhưng nước Mỹ   cũng bị công kích   vì  đã dựng lên  một  chế mà các nhà   cách mạng  coi là  vô đạo  với   nhà  lãnh đạo  độc đoán đóng   vai  bù nhìn . Trong những năm sau đó , người Iran phát hiện ra rằng những tên độc tài   sùng   đạo  cũng có  thể xấu xa bằng  tên độc tài vô đạo , hoặc còn  tệ hơn,  và như  thế cái nhản  hiệu  độc tài này  không thể đổ lỗi  là do nước  ngoài  nặn ra  hoặc bảo trợ .

      Những  lời  cáo buộc  thường chỉa   vào  nước Mỹ , và  nói chung là  phương tây,   có  một số điểm đúng  :  Người   Trung đông   càng ngày càng  than  phiền  rằng phương Tây  đánh giá  họ theo  những tiêu chuẩn  khác biệt  và  thấp hơn  so với  người Âu và Mỹ , cả 2 mặt  về những gì   mong  đợi  ở họ   và ở những gì  họ   mong đợi , đó là  nói về sự sung túc  kinh tế   và tự do  chính trị của  họ . Họ   quả quyết  rằng   phương Tây nhiều lần  bỏ qua   hoặc  thậm chí còn bảo vệ    các hành  động  và giúp đỡ    cho các  nhà  cầm  quyền  mà  chính tại  quê hương họ cũng  không  dung nạp  được.

      Có một số tương  đối   ít   tại  phương Tây   tự cho  rằng đang  lâm  vào cảnh  đối đầu với  đạo Hồi .Tuy nhiên , có 1  cảm nhận rộng   rãi  là  có sự khác biệt  khá lớn  giữa   chấu Âu  tiến  bộ với  phần còn lại của thế giới ,  nhất là  các dân tộc theo đạo Hồi và  chính  những  người  theo đạo Hồi này bằng  nhiều cách khác nhau  , thường  ngầm  cho rằng   mình thuộc hạng  hèn kém . Những  vụ vi phạm nhân quyền trắng trợn , quyền tự do  chính trị , thậm chí  sự tử tế của  con người  cũng   không được đếm  xiả   hoặc bị che đi , và  các tội ác  chống lại nhân lọai , nếu   ở châu Âu hoặc  tại Mỹ   sẽ   gây nên   1  làn sóng  phản  đối dữ dội , còn  tại Trung đông thì   không có gì  đặc  biệt  , thậm chí lại còn đựơc chấp nhận . Các chế độ   vi phạm   không những đã  đựơc  dung thứ ,  mà thậm chí lại còn được  bầu  vào  Ủy ban nhân quyền của Liên  hiệp  quốc ,  như Saudi Arabia , Syria , Sudan   và  Lybia.

      Lý  luận cơ  bản  của tất  cả những điều  này  là các dân tộc trên  không có khả năng   điều  hành 1 xã hội dân chủ và  cũng như    việc quan tâm  và khả năng thu  nhận  tính tử tế của con người . Nhất lọat  họ chỉ đáng  để các chế độ độc tài  thối nát cai trị .  Không phải là việc  của phương Tây  uốn  nắn họ ,  càng không phải làm cho  họ thay đổi  , nhưng chỉ để bảo đảm là các nhà độc   tài thân   thiện  thay vì   đối nghịch  với các  quyền  lợi  phương  Tây. Trong  bối  cảnh này ,  quả thật  là nguy hiểm khi   xoi mói  vào  cái trật tự hiện  có  và những  ai  mưu  cầu cuộc  sống   tốt  hơn  cho bản thân và đồng  bào lại bị chê bai , và lắm  khi  nản chí . Quả là  đơn giản ,  ít  tốn  ,  và an tòan hơn  khi  thay  thế 1    bạo chúa   gây lắm phiền  tóai bằng  1   bạo chúa  dễ bảo , thay  vì   phải đối  diện  với  nguy cơ  không  đóan  được  khi  chế độ thay đổi , nhất là  khi  sự thay đổi này là  do ý chí   của  người dân thể hiện qua  bầu cử tự do.

      Nguyên  tắc” ma quen  mặt “( devil-you-know)  dường  như là nền  tảng của  các chính sách ngọai giao  của nhiều chính phủ phương  Tây  đối với    các  dân tộc   trong thê`  giới Hồi giáo .  Thái độ này   đôi  khi  được trình bày   và   thậm chi được chấp nhận   như là    cách biểu  lộ tình cảm và   giúp đở cho nhân dân   Ả -rập   và chính nghĩa của  họ ,  tin  rằng khi  bỏ qua   cho các nhà lãnh đạo  Ả -rập  các qui luật  thông thường  phải cư  xử    theo văn minh   thì chúng   ta cũng  đã ít nhiều   tỏ ra  hào hiệp  đối với  các  dân tộc Ả -rập   rồi . Trên thực tế ,  sự miễn trừ này   chẳng hề có ý nghĩa gì , chẳng  qua  chỉ là  đòi  hỏi cần   phải có  1 liên  minh tạm thời    vì  lợi  ích chung  và  nhắm  vào 1  kẻ thù chung , đôi  khi cũng vì  có cùng   thành  kiến . Đào  sâu  hơn  vào thực  tế này , ta  thấy  đó  chẳng qua   chỉ   là  biểu hiện cho  1 sự thiếu  tôn   trọng   và  vô tình  – thiếu  tôn trọng  về quá  khứ vùng  Ả -rập , vô tình đối với  hiện tại và  tương lai của  họ .

      Cách  tiếp cận này cần   có sự   tiếp tay của  cả giới   ngọai giao lẫn  giới học thuật  tại Mỹ   và khá   rộng   rãi  ở châu Âu .  Các nhà lãnh đạo  Ả -rập  vì thế có thể tàn sát  hàng  chục ngàn dân  trong nước , như tại Syria  và Algeria , hoặc giết  hàng trăm ngàn  người như tại  Iraq  và Sudan , tước đọat  quyền  công  dân  của   hầu hết  đàn  ông và của  tất cả phụ nữ   , và nhồi nhét  cho   học sinh   thái độ cố chấp và thù ghét  người khác , mà  không hề có sự phản đối quan trọng nào  từ các  phương  tiện  truyền thông   và  các   định chế tự do  từ phương  Tây , thậm chí  không hề   có  ý định trừng  phạt   như  tẩy chay ,  gạt bỏ hoặc tố cáo  từ trụ sở EU tại Brussels . Thái độ ngọai giao qua  quít   đối với  các chính phủ Ả -rập  đã  làm  hại rất nhiều   cho  nhân dân Ả -rập , một thực tế    mà họ đang cảm  nhận một  cách đau   xót .

       Khi  có nhiều người  Trung đông  nhận  ra vấn đề này ,   thì   lập trường  cơ bản của các chính phủ   châu Âu  và Mỹ như sau :”  Chúng tôi không  quan tâm đến những  gì  các ông  làm  đối với  dân các ông ,  miễn là   các ông hợp tác đáp ứng  các  yêu cầu   của  chúng  tôi  và  bảo  vệ quyền  lợi cho chúng tôi”.

      Đôi  khi , khi quyền lợi của Mỹ   bị đụng   chạm  , chính  phủ Mỹ   sẵn sàng  phản  bội những  ai  mà họ đã hứa  hẹn   giúp đỡ và  thuyết phục họ chấp nhận rũi  ro .   Lấy  1 ví dụ khá  rõ  xảy ra vào năm 1991 , khi  Mỹ kêu gọi  dân Iraq  chống  lại Saddam Hussein . Người  Kurd  ở phía bắc    và người Shi’a  ở phía  nam  Iraq đã  đứng  lên ; còn các lực lượng chiến thắng của Mỹ   chỉ đứng  im  nhìn  Saddam Hussein  đem  máy  bay trực thăng ( theo  thỏa  hiệp ngưng  bắn cho  phép Iraq  được giữ lại )  đàn  áp  đẩm máu   và  tàn  sát   quân nổi dậy  từng   nhóm  một  , từng  vùng   một .

      Cũng  không  khó  mấy  để hiểu được lý  lẽ   cho  hành động này –  đúng  ra  là   bất  động .   Đương  nhiên  là,  liên  minh chiến thắng  vùng  Vịnh  muốn chính   quyền  tại  Iraq có sự thay đổi  , nhưng  họ lại  mong   một cuộc đảo chính , thay vì một cuộc  cách mạng .  Họ cho rằng quả là  nguy hiểm  khi  có một  cuộc  nổi  dậy thực sự   do  quần chúng nổ ra –  bởi vì  có  thể dẫn tới  tình trạng mất ổn định  , thậm chí  tình trạng  vô  chính phủ trong vùng . Cuộc   nổi dậy này còn  có  thể đẻ ra 1  nhà  nước dân chủ ,  là  một   viễn cảnh  đầy  hỏang sợ cho các đồng minh của Mỹ trong vùng .  Một  cuộc đảo chính sẽ dễ dự   đóan trước  vì  có  thể đạt  đựơc  kết qủa  mong  muốn : thay  thế Saddam Hussein bằng 1  người khác , một  tay độc  tài dễ sai hơn , người  sẽ thay cho ông  ta  vị trí   đồng minh trong liên minh .Chính sách này  đã thất bại  một  cách thảm  hại , và  trong   vùng  coi đó là  1  hành động phản  bội  , hoặc  là mềm  yếu , ngu  xuẫn  hoặc  giả đạo đức.

      Một  ví dụ khác   về tiêu chuẫn  nước đôi   này đã   xảy ra  tại thành  phố Hama của Syria  vào năm 1982.  Những   vụ lộn xộn  tại  Hama  bắt đầu   bằng   1  cuộc nổi dậy  do  nhóm Huynh đệ Hồi giáo cấp tiến   dẫn đầu.  Chính phủ Syria thẳng  tay đàn  áp  tức  thì .  Họ chẳng  cần sử dụng  súng phun nước  và đạn   cao su ,  cũng  chẳng  cần đưa  lính tới   để ứng  phó với mấy tay bắn tỉa  hoặc gở mìn con cóc ( booby trap ) khi  lục sóat từng nhà  nhằm phát hiện  kẻ thù   lẫn trốn trong dân chúng.  Phương pháp  của họ đơn giản hơn , an tòan  hơn  và  chóng  vánh hơn.  Họ đem  xe tăng , pháo binh  , máy bay thả bom  đến tấn công thành  phố , sau đó  đem xe ủi  đất  đến   để hòan tất  công trình  tiêu diệt. Trong một thời gian  rất ngắn  , họ biến  phần lớn thành phố thành   đống gạch vụn  .   Số người  bị giết , theo Tổ chức Ân xá  quốc tế , ứơc tính    đâu đó  giữa con số 10.000 và  25.000. 
 

      Hành động  này ,  do chính Tổng thống Syria , là Hafiz al –Assad , ra lệnh và  chỉ đạo , không được  chú   ý  mấy vào   thời điểm đó .  Thật  là  1 đáp ứng  nghèo  nàn trái ngược hòan tòan với  1 vụ thạm  sát  khác  , xảy ra  vài tháng sau đó  tại 1 trại tị nạn Palestine tại Sabra  và Shatila , tại Liban.  Trong  biến cố này , có khỏang 7-800   người Palestine  bị dân quân Cơ đốc Liban , đồng minh của Israel ,tàn sát   . Cuộc giết chóc này   đã  dấy  lên  1  sự chê trách  dữ dội  và rộng  rãi tại Israel  cho đến tận bây giờ .  Cuộc thảm  sát tại Hama không hề ngăn  Mỹ thôi ve  vãn  Assad ,  người   đứng ra đón tiếp  một lọat các cuộc thăm  viếng của các đời Ngọai trưởng Mỹ , từ James Baker ( 11 lần  từ 9/1990  đến 7/1992), Warrren Christopher ( 15 lần   từ tháng 2/1993   và 2/1996)  và Madeline  Albright ( 4  lần  từ   tháng9/1997  đến  tháng 1/2000) , và  ngay cả đến Tổng thống Bill Clinton ( 1  lần  viếng Syria   và 2 lần gặp tại Thụy sĩ  tháng  1/1994   và tháng 3/2000 ) . Khó mà có  thể chấp nhận rằng người Mỹ lại  sẵn lòng vồ vập  1 nhà  lãnh đạo  gây ra những tội ác  như thế trên đất phương Tây , với nạn nhân là người châu Âu . Hafiz al -Assad chưa bao giờ là đồng minh của Mỹ hoặc ,  như  theo  những người  khác, là bù nhìn , nhưng chắc chắn không phải là do nền ngoại giao của Mỹ không  cố gắng.

      Phe  Hồi giáo  chính thống  cảm nhận có 1  sự bất bình đẳng   khác biệt – một  sự bất bình đẳng khác không kém  phần  sâu sắc  về   các  tiêu chuẩn nước đôi . Những   người  bị tàn sát tại Hama là nhóm Huynh đệ Hồi giáo cùng  với gia đình và láng giềng của  họ , đã không khơi dậy được  mấy sự quan tâm ở phương tây . Dường như dưới mắt phương tây , nhân  quyền không hề áp dụng cho  các nạn nhân đạo  Hồi  ngoan đạo ,  cũng như  những  hạn chế về dân chủ    đem  áp dụng  cho các tên giết người”thế tục”.

      Sự ngờ vực  của phương Tây  đối với   các  phong trào chính trị Hồi giáo , và sẳn lòng  dung  thứ    hoặc  thậm chí còn  giup đỡ   các nhà độc tài tìm cách gạt  không cho  những phong trào đó  nắm quyền  càng thấy  rõ  hơn trong trường hợp Algeria , khi  bản hiến  pháp dân chủ được cuộc trưng cầu ý  kiến  tháng 2/1989 thừa nhận  và  1 hệ thống  đa đảng  chính thức ra đời vào tháng 7 cùng năm. Vào tháng  12 năm 1991 , Mặt trận cứu  nguy Hồi giáo       ( FIS) chiếm ưu thế trong  vòng đầu  phiếu  đầu tiên bầu  Quốc  hội  và hình như có rất  nhiều khả năng  sẽ thắng  đa số trong vòng  2.   FIS đã  thách thức  giới  quân đội Algeria , đã  tố cáo họ đàn áp nhân dân giỏi hơn là ra tay   giúp đỡ người anh  em  trong cơn nguy  khốn. Người anh em  đang nguy  khốn là  Saddam Hussein , người mà  qua việc   xâm lăng Kuwait  và  thách thức phương tây  đã khơi lên một tình cảm  cuồng nhiệt   cho nhóm Hồi giao chính thống  tại Bắc Phi  , và đã thuyết phục  các nhà lãnh đạo  của họ chuyển lòng trung thành  đối với những người  bảo trợ ở Saudi Arabia  sang vị anh hùng mới ở   Iraq . Vào tháng giêng  năm 1992, căng thẳng càng  lúc  càng tăng , phe quân sự hủy  bỏ vòng  bầu cử lần 2 . Trong  những tháng  sau đó , họ giải tán  FIS   và  thiết lập  1 chế độ”thế tục” ,  thực tế là 1 chế độ độc tài  tàn  nhẫn , có sự đồng tình  từ Paris, Washington  và  các thủ đô phương  Tây  khác. Tiếp sau đó là 1 cuộc chiến cay đắng và  đầy chết chóc , với lời tố cáo   đó  là những cuộc tàn sát  từ 2  bên-  phe  chính thống là do  quân đội  và các  công cụ khác  của  nhà  nước,  còn  phe chính thống thì  cho  đó là do bọn  chủ trương thế tục  và  cải cách   cùng  với những kẻ chờ thời không  đảng phái . Năm 1997, Tổ chức Ân xá   quốc tế ước  tính con số nạn nhân khoảng 80.000 người , đa số là dân thường  , tính từ khi  cuộc  chiến đấu bắt đầu .

      Al- Qa’ida một  mực  cho rằng  nước Mỹ   chịu trách  nhiệm   về việc giới quân sự cướp quyền  tại Algeria. Ở đây cũng như tại  nơi khác , Mỹ- kẻ đầu sỏ   của  thế giới  những tên vô đạo –  đương nhiên   là  bị chê trách  cho tất cả những  gì  sai trái , nhất là đối với việc đàn áp các  phong  trào   Hồi giáo ,    tàn sát  các  tín đồ đạo này , việc dựng lên những cái được  coi là  nền cai trị độc tài chống lại  đạo Hồi   với sự tiếp tay  của phương Tây – và nhất là Mỹ . Ở đây  , người Mỹ cũng   bị trách  cứ –   do nhiều người vì  không  phản đối  sự vi phạm  các quyền tự do  dân chủ , do  một số vì đã  tích cực khuyến  khích và  giúp đỡ   cho chế độ quân sự . Những vấn đề   tương tự cũng đã  xảy ra  tại Ai cập, Pakistan   và tại  một  số quốc gia  Hồi giáo  khác  là những nơi  mà  nếu cho bầu cử tự do  và  công  bằng  thì   phe  Hồi giáo  có khả năng  thắng cử.

       Về mặt  này , phe dân chủ đương nhiên  là bị bất lợi . Ý  thức  hệ của họ đòi  hỏi  phải cho phe đối lập Hồi giáo  tự   do  và  quyền lợi   ,  ngay  cả khi họ đang cầm   quyền . Phe Hồi giáo , khi lên cầm quyền ,  đúng ra   phải chịu sự bó buộc tương tự . Nhưng ngược lại , nguyên tắc của phe  Hồi giáo  là phải đàn áp  những  gì  mà họ coi là các hoạt động  không  sùng đạo và  lật đổ .

      Đối với  nhóm chủ trương Hồi giáo ( Islamist) , thì  nền  dân chủ , bày tỏ ý  muốn người dân,  là con đường để nắm quyền lực , nhưng đó  là đường  một chiều , không có điểm lùi , không được từ bỏ quyền lực của Thượng đế , được thể hiện  qua  những  người  đại diện  được chính Thượng đế lựa chọn . Chính  sách  bầu cử của họ được  tóm  tắt kinh điển như sau :”Một người ( chỉ dành cho  nam giới ) ,  một phiếu , một lần duy nhất”.

      Rõ  ràng là ,  trong thế giới Hồi giáo  cũng như tại châu Âu , bầu cử tự do  và  công bằng  chỉ là  1 kết  quả cuối   cùng , chứ không  phải là  sự khởi đầu   của 1  tiến trình xây dựng   dân chủ . Nhưng  đo không phải là lý do để ve vãn các nhà độc tài .

Chương V

      Sự thất bại của phong trào Cách tân    

      Dường như   toàn bộ thế giới Hồi giáo   đều chịu cảnh nghèo nàn và  ách chuyên chế .  Cả 2 vấn đề này đều  được qui cho nước  Mỹ , nhất là đối  với những ai  cố tình đánh lạc hướng  để khỏi  bị chú ý   – vấn đề thứ 1  là sự thống trị và  bóc lột  kinh tế của Mỹ mà hiện nay được   cải trang  qua  quít   dưới dạng “toàn cầu hóa’ ; vấn đề thứ 2  là sự ủng hộ của Mỹ cho nhiều  tay được  gọi  là độc tài Hồi giáo  đang  phục vụ cho  các mục đích của họ. Toàn cầu hóa  là 1  chủ đề chính trên  các phương tiện truyền thông Ả -rập,  và luôn luôn được coi là  có liên quan  với sự xâm nhập  kinh tế của Mỹ .  Tình hình kinh tế càng ngày càng bi đát tại phần lớn thế giới Hồi giáo , khi so sánh không những  chỉ với  phương Tây  mà  còn  với  các nền  kinh tế đang lên nhanh chóng tại Đông Á , lại  càng làm cho  nổi  căm giận  bùng  lên. Chính vì  uy thế tột đỉnh của Mỹ , theo  cách nhìn  của  người Trung đông ,  đã chỉ ra  nơi nào để trút  sự   chỉ trích  và  hành vi thù địch .

      Sự kết hợp giữa năng  suất lao động thấp  và tỉ suất sinh cao tại Trung đông đã tạo nên một hỗn  hợp  bất ổn , giữa 1 dân số lớn  và càng ngày càng tăng thêm gồm toàn  các thanh niên thất  nghiệp , ít  học  và  chán  nản. Theo tất cả các chỉ tiêu  của Liên hiệp  quốc ,Ngân hàng  thế giới  , và   các  cơ quan  khác , về các vấn đề   như tạo việc làm , giáo  dục , trình độ công nghệ và năng lực sản  xuất,  các nước Ả -rập  càng ngày  càng tụt hậu   sau phương Tây . Tệ hơn nữa , là  các nước Ả -rập cũng tụt  hậu so với  những  nước mới đi theo  con  đường cách tân   phương tây , như Hàn quốc , Đài loan , Singapore.

      Các  con số so sánh  về năng lực thực hiện của các  nước Hồi giáo, phản  ánh  trên con số thống kê ,  lại càng tệ hại . Trong danh sách các  nền kinh tế tính   theo  GDP , xếp hạng  cao nhất  tại 1  nước đa số đạo Hồi  là Thổ nhĩ kì , với 64 triệu dân ,  chỉ đứng  hàng thứ 23 , giữa Áo  và Đan mạch ,  là những   nước  có số dân xấp xỉ 5 triệu .  Nước tiếp theo là Indonesia ,  với 212 triệu dân , chiếm  vị trí thứ 28 ,  đứng  sau  Norway  với 4,5 triệu dân ,và  kế tiếp là Saudi Arabia  có 21 triệu dân . Khi so sánh  với năng lực mua sắm , nước Hồi giáo   đầu tiên là  Indonesia xếp hàng  thứ 15 , tiếp đến là Thổ nhĩ kì hàng  thứ 19 .Nước Ả -rập  xếp hạng cao nhất  là Saudi Arabia , ở vị trí 29 , sau đó là Ai cập . Về tiêu  chuẩn sống  , tính theo GDP đầu người , nước Hồi giáo  cao nhất  là Qatar , vị trí  thứ 23 ,  sau đó là Các tiểu  vương quốc  Ả -rập ( UEA) , vị trí 25  và Kuwait  vị trí 28.

      Xếp theo  năng  suất  công  nghiệp , nước Hồi giáo  xếp hạng cao nhất  là Saudi Arabia , thứ 21 ,  theo sau là Indonesia , cùng hạng 22 với Áo  và Bỉ , còn Thổ nhĩ  kỳ cùng hạng  27 với Norway . Xếp theo năng suất  chế tạo , nước Ả -rập có vi trí  cao nhất  là Ai cập , cùng hạng thứ 35 với Norway .Xếp theo kỳ vọng  sống , nước  Ả -rập  cao nhất  là Kuwait , hạng thứ 32 , đứng sau Đan mạch  và  trước Cuba . Về số lượng máy điện thoại trên  100 dân , nước  Hồi giáo  xếp hạng cao nhất   là Các tiểu  vương quốc  Ả -rập ( UEA) , chiếm  vị trí 33 , đi sau Macau , trước Reunion. Về số lượng  máy  vi tính  trên 100  dân , nước  Hồi giáo  xếp  hạng  cao nhất  là Bahrain , vị trí 30 ,  trước Qatar  vị trí  32  và Các tiểu  vương quốc  Ả -rập   ( UEA)  vị trí 34 .

      Về số lượng  sách được  bán  lại  là  một bức tranh ảm đạm hơn . Trong bảng  xếp hạng 27  quốc gia, đầu bảng là Mỹ , cuối bảng Việt nam , không  hề có  tên một  nước Hồi giáo  nào cả. Về chỉ số phát triển  con người ( HDI ) , Brunei hạng thứ 32 , Kuwait  thứ 40 , Qatar  thứ 41 , Các tiểu  vương quốc  Ả -rập ( UEA)  44 , Lybia 66 , Kazakhstan 67 , và Saudi Arabia  cùng hạng 68 với Brazil.

      Trong báo  cáo về vấn đề Phát triển con người  Ả -rập năm 2002 , do 1 tiểu  ban  gồn các trí thức Ả -rập   chuẩn  bị và xuất bản  dưới sự bảo trợ của  Liên hợp  quốc , một lần  nữa lại phát hiện  những  điểm đối nghịch đập ngay  vào mắt .” Thế giới Ả -rập dịch mỗi năm khoảng 330 quyển sách ,  bằng 1/5 số sách  dịch của Hi lạp . Toàn bộ số sách  dịch tính  dồn  từ thời Caliph  Maa’moun ( sic) ( thế kỷ thứ 9) khoảng 100.000  quyển , bằng  con số trung bình mà Tây ban nha dịch trong  1  năm . Tình hình kinh tế cũng không khá hơn :”GDP  của tất cả các nước Ả -rập   cọng lại chỉ được  531,2 tỉ USD  vào năm 1999 – còn thấp  hơn   nước  châu Âu  là   Tây   ban  nha ( 595,5 tỉ ) .” Một khía cạnh khác của  tình trạng  kém  phát triển được trình  bày  trong  bảng “các nhà khoa  học  nghiên cứu tích cực , các   bài báo , và  các tạp chí  được   trích  dẫn  thường  xuyên tính trên triệu dân , 1987” .     

      

Nước Các nhà khoa học nghiên  cứu Các bài báo  có từ 40  lần trích  dẫn  trở lên Số tạp chí được trích  dẫn /1 triệu  dân
Mỹ 466211 10481 42,99
Ấn độ 29509 31 0,04
Úc 24963 280 17,23
Thụy sĩ 17028 523 79,9
Trung  quốc 15558 31 0,03
Israel 11617 169 36,63
Ai cập 3782 1 0,02
Hàn quôc 2255 5 0,12
Saudi Arabia 1915 1 0,07
Kuwait 884 1 0,53
Algeria 362 1 0,01


      Không  có gì ngạc nhiên , khi  so sánh các  con số về tình trạng  không biết đọc.

      Trong  bảng  sắp 155 nước  có tự do  kinh tế năm 2001 , các nước Ả -rập  vùng  vịnh có  vị trí khá tốt , Bahrain  hạng thứ 9, Các tiểu  vương quốc  Ả -rập ( UEA)   thứ 14, vàKuwait  thứ 42 . Nhưng năng  lực  kinh tế chung của  khối Ả -rập và  của  khối Hồi giáo nói chung  vẫn còn  khá nghèo . Theo Ngân  hàng  thế giới , vào năm 2000 lợi  tức bình  quân  tại các nước Hồi giáo  từ Morocco  đến Bangladesh   chỉ bằng  nửa bình quân  thế giới  , và  vào những năm thuộc thập kỷ 1990 GNP  kết hợp  của Jordan , Syria  và Liban –  tức là  3 nước Ả -rập láng giềng  của Israel –  còn thấp  hơn  Israel  một  mình . Các con số tính theo đầu người còn  tệ hơn . Theo  thống kê Liên  hợp quốc , GDP  đầu người của  Israel gấp  3 ,5 lần   của Liban  và Syria , gấp Jordan 12 lần , và gấp 13,5 lần so với  Ai cập .

      Sự đối nghịch với phương  tây , và giờ đây  với  Viễn  đông , lại càng làm chưng hửng  nhiều  hơn. Trong quá khứ ,  đã có những  sự cách  biệt như thế nhưng  đại đa số   quần chúng  không hề hay  biết . Ngày nay  nhờ các  phương  tiện  truyền thông  và  thông tin hiện  đại , ngay cả 1 người  dân nghèo nhất , ít học  nhất  cũng  thấy  đau  xót về sự khác biệt  giữa họ với người khác , theo từng  mức cá nhân , gia đình , địa phương , và cấu trúc  xã hội .

      Sự canh tân  về chính trị cũng  không đưa   đến  kết  quả tốt hơn –  có lẽ còn  tệ hơn –  so với chiến   tranh  và kinh tế . Nhiều quốc gia  Hồi giáo đã trải qua các  định chế  dân chủ dưới hình thức này hoặc hình thức  khác. Một  số nước , như tại Thổ nhĩ kì  và Iran , các định  chế    này  là do  các nhà cải cách  bản xứ có  tính thần  sáng  tạo  đưa vào ; tại các  nước khác  , như tại nhiều nước Ả -rập  , các định chế trên  được đế quốc  dựng lên  rồi  trao lại  khi rút lui . Chỉ trừ ngoại lệ Thổ nhĩ kỳ , tất cả đều là thất bại  không cứu vãn  được . Các đảng  phái  chính trị và nghị viện  rập theo  phương tây hầu  như bao giờ cũng   đưa  đến   các nền  cai trị độc tài thối  nát,  được  duy trì bằng   sự đàn  áp  và  nhồi  sọ giáo điều . Mô  hình  phương tây duy  nhất có tác dụng ,  về mặt  đạt được mục đích , là nền độc tài  1 đảng . Đảng Ba’th , có nhiều  nhánh chia  ra cai trị Iraq  và Syria trong nhiều thập kỷ , là  sự kết  hợp  những  tính chất  tệ hại nhất  của mô hình Quốc xã và  Liên xô. Từ khi nhà lãnh  đạo Ai cập , Tổng thống Nasser , qua  đời  năm 1970 ,  không  có nhà lãnh đạo  Ả -rập  nào  có  được  sự ủng hộ rộng  rãi  bên  ngoài nước mình . Thật vậy , không  có  nhà  lãnh đạo  Ả -rập  dám  thử thách    quyền lực   của  mình   qua bầu cử tự do . Những  nhà lãnh đạo được lòng   toàn thể khối  Ả -rập là  Mu’ammar Qaddafi  của Lybia   vào   những năm  thuộc thập  kỉ 1970  và gần đây  nhất  là  Saddam Hussein .Vì sao  2  nhà  lãnh đạo  này , trong  số tất  cả các  nhà lãnh đạo Ả -rập , lại được ủng  hộ   rộng  rãi như thế là 1 điều  kinh  khủng và cần  phải  tìm  hiểu .

      Nhận định về vấn đề này ,  sẽ không hề ngạc  nhiên  khi  nhiều   người  Hồi giáo   nói  đến   sự thất bại của việc  hiện  đại hóa   và ứng  phó  với  các chẩn đoán   khác  nhau  về căn  bệnh của  xã hội  của mình , cùng với các đơn  thuốc   để chữa trị .

      Đối với nhiều người , câu trả lời   là  cần  hiện đại hóa  nhiều   hơn  , tốt hơn  nữa , để đưa  vùng  Trung  đông  bắt kịp  thế giới  hiện đại  và  đang  hiện đại hóa  . Đối với  những  người khác , hiện  đại  tự   nó  là 1 vấn đề , là là  nguyên  nhân  của tất cả những  nổi thống  khổ của họ .

      Nhân dân  vùng   Trung đông ngày  càng   ý thức   về cái hố sâu càng ngày càng rộng  giữa các cơ  hội  của thế giới tự do  bên   ngoài  biên  giới  của họ và sự thiếu thốn và  áp bức  kinh hoàng   trong  nước . Nỗi căm  giận  từ đó  đương  nhiên là  nhắm vào  trước hết  các nhà  cầm quyền , và sau  đó  là  nhằm  vào những ai  vì lý do  ích kỷ đã  giúp cho những  người cầm  quyền  này giữ được  quyền lực  . Chắc hẳn là  có ý nghĩa  khi  tất cả những tên  khủng  bố tham gia  vào vụ tấn công 11/9   vào  New York  và Ngũ giác đài   đều đến  từ Saudi Arabia   và Ai cập – tức là   các quốc gia  mà các nhà lãnh đạo  được coi là thân  thiện với Mỹ .

      Một  lý do giải thích thực tế kỳ quặc này , do  1 đặc vụ Al Qa’ida đưa  ra , là  những tay  khủng bố từ các quốc gia thân  thiện ít  bị khó khăn khi  xin thị thực  vào nước Mỹ . Một lý do  có tính cơ  bản   hơn  là tại  những  nước  mà Mỹ nhúng tay duy trì   các chế độ độc đoán   vốn  có  thái độ thù nghịch    sâu sắc hơn  . Một  trường hợp đặc biệt , đang được  xem  xét  kỹ hơn ,  đó  là Saudi Arabia ,  là   nơi  có một số khá đông thành viên  của chính chế độ đó dường  như  có   lúc cũng  chia  xẻ  và  hun  đúc  mối thù  nghịch  này.

Chương VI

      Cuộc hôm nhân giữa quyền lực nhà Saudi và lời giảng của Wahhabi  

      Việc từ bỏ   tính hiện đại để quay  về   với  quá khứ thần thánh  đã từng là 1 lịch  sử lắm vẻ và   đầy  ngóc ngách  trong  vùng và  đã  phát  sinh  ra một  số   phong  trào .Quan trọng nhất trong  những phong trào  này  chắc chắn phải là phong trào Wahhabit  đặt theo  tên người sáng lập Muhammad ibn ‘Abd al-Wahhab ( 1703-1792)  , là  1  nhà thần học vùng Najd  thuộc Arabia ,  vùng này   do  các sheik  thuộc gia tộc Saud cai trị . Năm 1744 , Wahhab  phát động  1 chiến dịch  thanh giáo  và phục  hưng . Mục  đích  công  khai  là quay  trở lại  Hồi  giáo thuần khiết và  chân  chính  của  Đấng sáng lập , lột bỏ , và nếu cần , triệt  phá tất cả những  gì  sau  này mới thêm  vào và  làm  sai   lệch .

      Sự nghiệp  của Wahhabi  được   các nhà  cai trị dòng  Saud  tại Najd   chớp lấy,  rồi có lúc đã khuyếch trương   thành công nhờ vũ  lực . Qua  nhiều  chiến dịch  quân sự ,  họ đã đặt  được nền  móng  cai trị và đức tin  tại  phần lớn  vùng trung  và phía đông bán  đảo Ả -rập   và  thậm  chí  còn  tấn công  vùng  Lưỡi liềm phì  nhiêu   do đế quốc  Ottoman cai trị   trực  tiếp .  Sau khi  cướp  được  Karbala ,  là thánh địa  của  dòng Shi’a  tại Iraq ,  họ quay sang chú ý  Hijaz  và  vào  năm 1804-1806  , họ chiếm   được  nơi này  và sau  đó – theo  lời  họ –  đã  làm  tinh  khiết   các thành phố linh thiêng  Mecca  và Medina . Lúc này   rõ  ràng   là  họ đang  đối   đầu  và thách thức  sultan của đế quốc Ottoman , người mà  nhà  cai  trị   dòng Saud tố cáo là kẻ đã  sa  ngã ,  xa rời  niềm  tin Hồi giáo  và  là kẻ   thoán đoạt tại  1  nhà  nước  Hồi giáo   .

      Đế quốc Ottoman ,  dù  đang   ở trong giai  đọan   suy tàn   ,  nhưng  vẫn đủ sức   đối đầu   với 1  tên  phiến lọan  vùng  sa mạc . Nhờ sự giúp đỡ của viên Pasha tại Ai cập gởi  quân  tiếp viện  , công  việc   bình định  hoàn tất năm  1818 ,  thủ đô   Saudi bị   chếm , viên  emir  Saud bị   bắt  dẫn về Istanbul xử trảm .    Vào thời điểm này , nhà  nước Saud  không  còn tồn  tại , nhưng học thuyết của  Wahhabi   vẫn  còn , và từ năm 1823 trở đi ,  một thành  viên khác của tộc  Saud   phục  hồi   được  1   lãnh địa  Saud  , đóng đô tại Riyadh .  Một   lần  nữa , các thủ lãnh   của  tộc Saud  lại  đứng ra  giúp đỡ và được  sự giúp  đỡ của  các luận   điểm   của  học thuyết Wahhabi.

       Sự ra đời  của  học thuyết Wahhabi  tại  bán đảo  Arabia  vào thế kỷ 18    trong chừng mực nào đó  là  1  đáp ứng  đối với  sự chuyển  mình   của  thời đại . Dĩ nhiên  một trong  những tình huống  đó  là sự thoái trào  của  đạo Hồi   và  bước tâng công tương ứng của  thế giới  Cơ đốc.   Điều này   đã  xảy ra từ lâu rồi , nhưng    đây  là  1  tiến trình  chậm và  từ từ , và   khởi  sự tại những  vùng  biên   xa   xôi    thuộc thế giới Hồi  giáo. Đến thế kỷ 18 , nó mới  trở nên  rõ ràng  tại  vùng trung tâm .  Sự thoái   lui  lâu  dài  và  chậm  của đế quốc Ottoman   ở vùng Balkan  và  sự dấn bưóc của  người  Anh   tại Ấn độ , tuy vẫn còn  xa  xôi đối với bán đảo  Arabia ,  nhưng  tác động  của  nó vẫn được  cảm nhận ,   một  mặt từ   phiá  đế quốc Ottoman ,  mặt kia từ phía  vùng vịnh Ba tư , và chắc chắn  đã được  phản ánh  qua các  khách hành  hương   từ khắp thế giới  Hồi giáo đến Arabia   hàng năm .  Sự căm giận của  những  tin đồ Wahhabi  không  chỉa  thẳng    vào  người  bên  ngoài  , nhưng  nhắm vào   nhưng người mà  họ cho là phản bội và làm giảm uy tín Hồi gian từ bên trong :  một mặt   là những người chủ trương  cải  cách  canh  tân  ,  mặt khác  – và đây chính là  mục tiêu trực tiếp hơn- đó là  những   người    mà   nhóm Wahhabi   cho là  đã  làm thối nát  và  làm   xấu đi  di  sản  Hồi giáo  chân chính   của  Đấng  tiên  tri   và  Chiến hữu của   Người .  Dĩ  nhiên ngoài chính  họ ra  ,  còn lại   họ chống đối  mạnh   mẽ    mọi  trường  phái   hoặc  phe phái   Hồi giáo  , dù đó là Sunni  hoặc Shi’a .   Họ hết sức chống phái Sufi ,   tố cáo   phái này  không những  ở chủ trương thần bí   và tính khoan  dung  mà  còn  ở điểm   họ cho  rằng  phái này  thờ phụng   tà giáo .

      Ở bất cứ nơi  nào , khi  có điều kiện   thì  họ thể hiện  niềm tin  của mình  cực  kỳ tàn  bạo và  nghiêm  khắc   như phá  hủy  lăng  mộ , báng  bổ những  chốn linh  thiêng   mà  họ cho là   giả ngụy  và  thờ ngẫu tượng ,  và  tàn sát  vô số đàn  ông , đàn bà , và  trẻ em  là  những người không  đạt đựơc  các  tiêu chuẩn Hồi giáo thuần  khiết  và  chân chính.   Wahhabi cũng  thực  hiện  việc qui  tội  cho  sách    và đốt  sách .  Đó   chủ yếu  là  những  công trình  Hồi giáo về thần  học  và luật  được  coi   là trái   ngược  với học  thuyết Wahhabi .  Cùng với đốt  sách  là  việc  xử tử ngắn gọn những ai viết  sách , chép sách  hoặc  dạy   theo  sách  đó .

       Liên  minh lần 2  giữa  học  thuyết Wahhabi   và   lực luợng  vua Saud   bắt đầu     vào những năm  cuối  của đế quốc Ottoman  và còn  kéo  dài  đến tận  ngày  nay.  Có  2 sự phát triển  vào đầu thế kỷ 20  đã chuyển    đổi  học thuyết Wahhbi  thành  1 lực lượng chính  bên trong   thế giới  Hồi giáo và  vượt  ra  ngoài .   Sự phát triển thứ 1 là  việc  củng cố và  mở rộng  vương quốc Saudi .  Vào những năm cuối cùng  của đế quốc Ottoman, Sheikh ‘Abd al’Aziz Ibn Saud ( sinh năm 1880 ,  trị vì  1902-1953)  đã khéo léo  chống lại  vua Ottoman  phía   bắc và sự bành   trướng quyền  lực của  Anh ở  phía đông  bán đảo Ả -rập. Vào tháng  12 năm 1915 , ông  ta  ký 1 thỏa  ước với Anh  ; nhờ đó  trong khi  vừa  giữ   được   nền  độc lập ,  lại nhận    đựơc  sự trợ cấp    và   lời hứa  sẽ được giúp  đỡ nếu bị tấn  công.  Chiến  tranh  chấm  dứt  và  sự tan rã  của đế quốc Ottoman    đã  chấm dứt   giai  đoạn này , và  để lại  một  mình   ông  ta  đối diện  với người Anh . Ông  ta kiếm chác  khá   trong  hoàn  cảnh  mới  này và  có  cơ hội mở rộng cương vực  thừa kế   qua  nhiều  giai đoạn  kế tiếp nhau . Vào năm  1921 , cuối cùng   thì  ông ta cũng   đánh   bại  được  kẻ kình dịch lâu đời  là Ibn Rashid  tại  vùng  bắc Najd ,  sáp nhập  lãnh thổ của  kẻ thù  là lấy  tước  hiệu  là   sultan  vùng Najd .

      Giờ đến giai đoạn phải chiến đấu  quyết  liệt  hơn , để dành quyền  kiểm  soát Hijaz.  Vùng   đất  này ,  có  2 thành  phố thiêng   liêng  của đạo  Hồi  là Mecca   và Medina , trên 1000  năm   dưới quyền  cai trị của con cháu   triều đại Hashimite , hậu  duệ    của  Đấng tiên  tri ;  những   thế kỷ sau  này  dưới  quyền   bá chủ lỏng lẻo  của  đế quốc  Ottoman. Sự   hình  thành các  vương  quốc   Hashimite ,   do nhiều  nhánh  của gia  tộc này   cai trị , tại Iraq  và  tại Transjordan    như là  1 phần của  việc  tổ chức  lại  các tỉnh Ả -rập thuộc đế quốc Ottoman trước  kia  sau  khi  thế chiến thứ nhất  chấm dứt ,   theo Ibn Saud  là 1 sự đe  doạ cho  vương  quốc của  mình . Sau nhiều  năm  quan  hệ tồi tệ , vua Hussein tại Hijaz đưa ra  1  lý  lẽ nước  đôi  ,  một  là    là tự phong cho mình  tước  hiệu Caliph , hai là  cho   kiểm soát  chặt  chẽ   các khách hành hương nhóm Wahhabi  khi  vào 2 thành   phố thiêng liêng  này . Ibn Saud  phản  ứng  bằng  cách tấn  công Hijaz .

       Chiến tranh chinh  phục  của  nhà Saud  đạt  được  thắng lợi hoàn toàn.   Lực lượng  của  họ đầu tiên chiếm Mecca   ; sau đó , vào  ngày 5 tháng 12 ,1925 ,  Medina ngoan ngoãn đầu  hàng  sau khi bị bao vây 10 tháng . 2 tuần  sau , vua Ali , người kế nghiệp  vua cha Hussein ,  nhờ viên phó Lãnh sự người Anh  tại Jedda   báo cho Ibn Saud  là  ông ta  sẽ rút lui khỏi Hijaz cùng  với tư  trang  cá nhân .   Được  coi  là nhà vua thoái  vị , ngày  hôm  sau  quân của Saud  tiến vào Jedda. Giờ đây rộng đường cho  Ibn Saud  thoải  mái  tự   xưng là  vua Hijaz  và Sultan Najd  và   các  vùng phụ thuộc   vào  ngày 8  tháng giêng  năm 1926.  Chế độ mới  lập tức  được các cường quốc  châu Âu  thừa  nhận  , đặc  biệt  là Liên  xô  đã thông báo ngoại  giao  cho Ibn Saud” căn cứ trên nguyên tắc quyền tự quyết của  dân tộc  và xuất  phát  từ    nguyện vọng  của  nhân dân Hijaz  chọn  ngài  làm vua   của họ“.  Một  hiệp  ước chính thức  giữa Ibn  và nước Anh , thừa  nhận sự độc lập toàn vẹn  của  vương  quốc , được ký  vào  ngày 20 tháng 5 , 1927 . Một  số quốc  gia châu Âu  khác cũng  theo  gương này.

       Sự thừa  nhận  từ khối Hồi giáo  ngược lại  chậm  hơn và có  tính   miễn  cưởng  hơn. Một  phái  đoàn  Hồi giáo từ Ấn độ viếng Jedda và  yêu  cầu  nhà  vua trao  quyền kiểm  soát  các thành  phố thiêng  liêng   cho  1  uỷ ban   gồm các đại biểu  được tất  cả các nước  Hồi giáo  chỉ định  . Ibn Saud không  thèm đáp ứng  yêu cầu   này   và tống  phái đoàn  về Ấn   bằng  đường  biển . Vào tháng 6 năm đó , ông  triệu tập  Hội nghị toàn  Hồi giáo  tại Mecca , mời  các  vua chúa   và   lãnh đạo  các  nước  Hồi giáo  độc lập  và đại biểu   thuộc các tổ chúc  Hồi giáo   tại  các  quốc gia  không thuộc  quyền   cai trị Hồi  giáo . Có 69 đại diện từ mọi nước  thuộc thế giới   Hồi  giáo     tham dự . Phát  biểu trước  hội nghị , Ibn Saud nói  rõ là  giờ đây ông ta  là   người cai trị Hijaz .  Nhà vua có   nhiệm vụ gìn  giữ các thánh  địa    và  bảo vệ   cho người hành  hương  nhưng  lại  không cho phép  bất cứ sự can thiệp bên  ngoài nào  xía vào    những  nhiệm vụ trên.

       Khi  đó  , ông ta đã làm cho   mọi người    ngơ  ngác . Một số tức  giận  và bỏ đi ;  một  số khác  thừa  nhận  trật tự mới .  Trong  nhóm sau ,  đáng chú ý nhất  là người   dẫn đầu   đoàn đại   biểu  tín đồ Hồi giáo  ở Liên xô , vị trưởng đoàn   này trong  bài  phỏng vấn  của  Thông tấn xã  Liên  xô  TASS ,  đã  tuyên  bố rằng Hội  nghị Hồi giáo  này   công nhận  vua Ibn Saud là   người Cai quản  các thánh địa ,  hội nghị cũng  kêu  gọi  nên chuyển giao những phần đất  của Jordan  sang cho  vương  quốc Hijaz mới thành lập  , và  nói chung  là bày tỏ sư    ủng  hộ   đối với vua Ibn Saud. Mãi về sau này các  quốc gia Hồi giáo và  các  nước Ả -rập  mới thừa  nhận .  Các  hiệp ứơc  hữu nghị được ký    kết với Thổ nhĩ kỳ và Iran  vào năm 1929, với Iraq  năm 1930  và  với Jordan  năm 1933. Ai cập  chỉ chính  thức  cộng nhận  sự sáp nhập   vào  Saudi Arabia  khi ký hiệp   ứơc   vào tháng 5 /1936.

       Vào thời điểm  này , vua  Ibn Saud  nhanh  chóng thực hiện  việc tổ chức  và  cơ cấu lại  vương quốc  bao la  của mình  và   vào tháng 9/1932 , một  nhà  nước thống nhất  với tên gọi là  Vương quốc  Saudi Arabia đựơc  tuyên   cáo . Năm sau , ông ta chỉ định người con trưởng , Saud  , làm người  kế vị ngai vàng .

       Cùng   năm đó , cũng có 1  sự kiện lớn  khác    gây ảnh hưởng đến   khu vực , đó là việc ký kết một  thỏa  hiệp giữa    bộ trưởng  tài chính Saudi  Arabia   và  đại  diện của  công ty dầu hỏa Standard Oil   of California vào ngày 19 tháng  5  năm 1933  .Nền chính trị Saudi  và các học  thuyết  của Wahhabi  giờ đây   đã  tạo  được  1 cơ sở tài chính vững  chắc.    

      Các   quyền  lợi  của  phương  tây về mặt  dầu  hỏa  tại Trung đông     bắt  đầu từ đầu thế kỷ 20  và chủ yếu là   do các công ty của Anh , Hòa lan và Pháp  nắm giữ . Quyền   lợi của Mỹ chỉ mới có   vào  đầu những năm 1920 , do  người Mỹ càng  ngày càng lo  cho  sự cạn kiệt  các nguồn dầu mỏ trong nước  và lo sợ sự độc  quyền   của  các nước  châu Âu  đối với  dầu  mỏ Trung đông. Khởi đầu  các  công ty Mỹ chỉ là những  người hùn  hạp nhỏ với các  tổ hợp lớn  châu Âu khi   mới vào thị trường  dầu mỏ Trung đông . Standard Oil   of California  là  công ty Mỹ đầu tiên tham gia  nghiêm túc  việc  thăm  dò  dầu  mỏ . Sau   một  số cố gắng không  đạt mấy  kết  qủa  tại các  nước  vùng Vịnh , cuối cùng   , Standard Oil   quay sang   Saudi Arabia  và  vào năm 1930   xin phép  thăm dò  địa chất tỉnh phía   đông . Vua Ibn Saud lúc đầu  từ chối   yêu cầu này  nhưng sau đó  đồng  ý  tiến hành thương  thuyết , cúôi cùng  dẫn tới  thỏa  hiệp   năm 1933. Hiển nhiên ,  một  trong  những  yếu tố xui nhà  vua thay đổi ý  kiến   là tình hình suy thoái kinh tế bắt đầu từ năm 1929 ,  từ đó đã làm cho nền tài chính của vương quốc  càng ngày càng  lâm  vào cảnh   sa  sút nghiêm trọng .

      Chưa đầy  4 tháng  sua  khi ký kết thỏa  hiệp , các nhà địa chất Mỹ đổ bộ lên  phía đông Arabia .   Đến cuối năm , các nhóm thăm dò  đựơc  thành lập xong  ,   và năm sau , các toan người Mỹ đã bắt  đầu  khia thác và xuất cảng   được  dầu hỏa . Tiến trình  phát  triển  bị gián đọan  trong thế chiến  thứ 2    nhưng  lại tiếp tục   khi chiến tranh chấm dứt . Một  vài  chỉ dẫn  cho biết  mức  độ phát  triển  qua các  con số   dầu  mỏ được khia  thác  tại Arabia , tính   theo triệu thùng : 1945:21,3 ; 1955: 356,6; 1965:  804,8 ; 1975 : 2.582,5.

       Dầu mỏ xuất   ra , tiền  bạc ào  ào  chảy vào  đã  đem lại  nhiều  sự   thay đổi  cho vương   quốc Saudi  ,  về cơ  cấu  nội  tại  và  lối  sống ,  cùng với vai trò  và ảnh hưởng  đối ngọai ,  cả tại các quốc gia tiêu thụ dầu  mỏ và , mạnh hơn  nữa , là trong thế giới  Hồi giáo . Sự thay đổi có  ý nghĩa  nhất  là  ảnh hưởng  của  học thuyết  Wahhabi  và  vai trò  của những kẻ theo học  thuyết này. Học thuyết Wahhabi  giờ đây  là  học thuyết chính thức ,  đựơc   thi hành  bởi  một   chính quyền   có nhiều  ảnh hưởng nhất   trong tòan thế giới Hồi giáo –  đó  là người cai quản  2 thánh địa  linh thiêng  nhất  của đạo Hồi , nơi mà hàng năm có đến  hàng triệu  tín đồ đạo Hồi trên  khắp thế giới  đến hành hương  và  thực  hiện  các nghi  thức  và nghi  lễ tôn giáo  . Trong khi đó , các  thầy giảng  và giáo sĩ Wahhabit có dứơi tay nguồn tài chính  vô hạn , đem  ra phân phát   để đẩy  mạnh và  khuyếch trương   học thuyết    Hồi  giáo mới của  họ . Ngay cả tại  các  nước phương Tây  tại châu Âu và Mỹ , nơi mà  hệ thống giáo dục  công lập   đã tốt  rồi , nhưng  để dạy  giáo lý Hồi giáo  cho  những tân tòng  và  khi   các bậc  cha mẹ Hồi giáo  muốn  giáo dục cho  con cái một  số cơ   bản  về truyền  thống văn hóa  và tôn giáo  Hồi giáo ,  thì   duy   nhất chỉ có  các trung tâm truyền bá  giáo lý  Wahhabi  làm việc  này .  Việc truyền bá   giáo  lý  này được  triển  khai  tại các trừơng  tư , các  hội   thảo   tôn giáo ,  các trừơng học nhà thờ ,  trại hè , và càng  ngày càng  nhiều hơn ,  tại  các    nhà tù .

      Theo ngôn ngữ truyền thống Hồi giáo ,  madrasa  là  1 trung tâm giáo  dục kiểu đại  học ,  có  nghiên cứu  ,   giảng dạy  . Madrasa  Hồi giáo cổ điển   là tiền thân  và  trên  nhiều mặt cũng  là   khuôn  mẫu  cho các trường   đại học tổng hợp  lớn ở châu Âu  thời trung cổ .  Theo  ngôn ngữ hiện đại , từ madrasa   có ý  nghĩa   tiêu  cực ;  dùng để chỉ   một nơi  nhồi  nhét  sự cố chấp và  bạo lực .  Lấy   một  ví dụ    để chứng minh  là  khi  nghiên cứu  lý  lịch họat  động của  một  số người Thổ  nhĩ kỳ bị bắt vì tình nghi   tham gia  vào  các   động khủng  bố . Tất cả bọn   họ đều  sinh ra và được   giáo dục tại Đức ,  không có  người nào từ   Thổ nhĩ kỳ .  Chính phủ Đức  không giám  sát  việc  giáo dục   tôn giáo   của các  nhóm thiểu  số.  Nhưng chính  phủ Thổ lại luôn dè chừng  những  vấn đề này . Tại  châu Âu  và Mỹ , do nhà  nước  không  muốn  can dự vào các vấn đề tôn giáo , việc dạy giáo lý Hồi giáo  ở trường  và  ngoài nhà trừơng  hầu như  nhà cầm  quyền không hề   để mắt tới .  Tình hình này  rõ ràng là  tạo  điều  kiện cho những  kẻ liều  lĩnh , cuồng tín  và có  quá  nhiều tiền  bạc .

       Có lẽ   ta  có  thể diễn  tả kết qủa  sẽ ra  sao  bằng  1  ví dụ tưởng tượng .  Hãy tưởng  tượng  là  nhóm Ku Klux Klan   hoặc  tương tự chiếm quyền  kiểm  sóat hòan tòan bang Texas , chiếm các giếng  dầu  mỏ cùng với lợi tức từ dầu  mỏ ,   và họ cũng làm như  thế , bỏ nhiều  tiền ra xây dựng  1  hệ thống  các trừơng trung học và   cao đẳng  trong tất  cả thế giới  Cơ   đốc  , nơi  nào cũng  dán  nhản  Cơ đốc  giáo . Ví dụ tương đương   này có phần ít  khốc    liệt hơn thực  tế ,  bởi vì đa số các nước  Cơ đốc   đều    đứng ra quản  lý  hệ thống  trường  công . Tại một  số nước Hồi giáo ,  họ không làm  như thế , và  các trừơng trung  học và  cao đẳng  do  phái  Wahhabi bảo trợ là  nơi cung cấp  một  nền giáo dục  duy nhất cho  các thanh  niên Hồi giáo . Bằng   cách này ,  tín đồ Wahhabi  mang  thông điệp của họ đến  các nước  theo  Hồi giáo  và  càng  ngày càng tăng  tại   các cộng  đồng  thiểu số tại  châu Âu và  Bắc Mỹ .  Sinh họat công cọng  ,  giáo dục  và   thậm chí việc thờ phụng đựơc tổ chức  theo khuôn phép Hồi giáo  , đều được    nhóm Wahhabis  tài trọ rộng  rãi đến  mức  kinh ngạc ,  và  như thế phiên bản đạo Hồi mà họ thực  hành và  rao giảng  đều  bị chi  phối  bởi các nguyên  tắc và quan điểm của  phái Wahhabi  . Quyền  cai quản các thánh địa   và  lợi tức  từ dầu  mỏ đã khiến    cho  một vùng đất biên địa của  nhóm tín đồ cực đoan tại 1 quốc gia  xa xôi trở thành  1 trung tâm  gây  ảnh hưởng  trên tòan thế giới ..  

      Việc khai thác dầu mỏ đã mang  lại   một  số   giàu có   vô tận  mới  và   cùng  với nó  là những   mối căng thẳng xã hội  mới   ngày càng  trở nên sâu sắc. Trong xã  hội cũ , sự cách biệt giữa  giàu và nghèo  không  nhiều ,  và  hệ qủa   cũng  có chừng mực – một mặt   ,  giữa  người giàu  và nghèo  có   những mối   liên  kết  xã hội truyền thống và , mặt khác ,  do kiểu sống  kín đáo trong gia đình của  người Hồi giáo  .  Quá trình  hiện đại  hóa  lại làm cho  hố ngăn  cách  ngày càng rộng ra , phá hủy  những  mối  ràng  buộc  xã hội , và  do  các phương  tiện  truyền  thông đại chúng  trở nên  phổ biến   càng làm cho  những hình ảnh  bất bình đẳng  hiển  hiện   một cách   nhức  nhối .  Tất   cả những điều  này  đã    hình thành 1  lớp người  mới , dễ   nghe theo   giáo lý   của nhóm Wahhabi  và những   nhóm có tư tưởng  tương tự , trong  số đó   có  nhóm Huynh đệ Hồi giáo  tại Ai cập và Syria  và nhóm Taliban tại Afghanistan.

       Sự giàu có do  dầu mỏ cũng đem lại những hệ qủa  tiêu cực  về chính trị , làm  hạn chế sự phát triển của các định chế đại diện   cho nhân dân .”Không đóng  thuế thì  không có đại diện”là  1 bứơc  quan trọng  trong sự hình thành  nền  dân chủ phương Tây. Rủi thay ,  điều  ngựơc  lại cũng đúng- không  có đại  diện  nếu  không đóng  thuế.  Các chính  quyền  giàu có  nhờ dầu mỏ không cần   quốc  hội  để đặt  ra  thuế và  thu thuế ,  và  không ít khi    họ chẳng cần đếm  xỉa gì đến  công luận . Ngay cả từ công luận  cũng chẳngcó  mấy  ý nghĩa  trong những  xã  hội  đó. Không tìm ra  đựơc lối thóat nào khác ,  cho nên  những  nổi bất bình  mới , sôi sục   đã tìm đựơc cách  biểu thị nơi các phong trào   tôn giáo cực đoan.

      Hiện nay  ta thường gọi những phong trào này  là phái chính thống ( fundamentalist).  Tên gọi  này không   được may mắn  vì   một  số lý do .  Khởi thủy  đó là 1  từ của Tin lành Mỹ , dùng để chỉ một số   nhà thờ khác  với  các  nhà thờ thuộc  dòng chính phái ở một  số điểm . 2 sự khác  biệt chính  là  thần  học tự do  và sự phê   phán kinh thánh , cả 2 đều được  coi là có  thể phản bác . Thần   học  tự do  đã  từng là 1 chủ đề đối với người Hồi giáo  trong quá khứ   và có thể lại xảy  ra  trong tương lai . Giáo điều cơ bản của Hồi giáo là kinh Qur’an với từng  câu từng chữ đều có  tính thần thánh  và không thể sai lầm được ,  và  mặc dù  có  người nghi  ngờ về điều này  nhưng không ai dám  lên tiếng . Những  sự khác  biệt  này không hề   giống chút   gì  với  những điều    phân biệt   giữa   phái  Hồi giáo chính thống với   dòng  Hồi giáo chủ đạo , vì vậy  từ này    có  thể gây  sai  lạc . Tuy nhiên  , ngày nay  lại  trở nên thông  dụng ,  và được   dịch nguyên   văn  sang  tiếng  Ả -rập , Ba tư  và  Thổ nhĩ kỳ .

       Sự lu  mờ của  chủ nghĩa tòan -Ả -rập  đã  làm  chủ nghĩa chính thống    trở thành  một  sự lựa  chọn  hấp dẫn nhất  cho  những  ai  nghĩ rằng phải  có  một cái gì  đó  tốt  hơn ,  chân thực  hơn và  mang lại  nhiều hy vọng  hơn  là  các chế độ độc tài lạc lõng  đang cai trị , và các ý  thức hệ phá sản đựơc tuồn  từ bên  ngoài vào  xứ họ . Sau  khi tất cả những phương thuốc chính trị và kinh tế , hoặc   do  ngọai nhập   hoặc   do  sao chép tại  chỗ đều thất  bại , dẫn tới sự vỡ mộng và căm giận  tạo điều  kiện cho  những  phong trào này phát  sinh  và tồn tại  nhờ tình trạng   thiếu  thốn  và   bị lăng  nhục  .  Như nhiều người  tại  Trung đông  và Bắc Phi nhận xét , cả   chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa  xã hội đều   được  đem  thử   rồi cùng  chịu  thất  bại ; cà 2  mô hình  phưong Tây   và  phương Đông  đều chỉ tạo ra   sự nghèo  đói và  độc tài . Dường như  không  công bằng khi  nói rằng  sau  khi  độc lập , như  tại  Algeria  chẳng  hạn , phương  Tây  đáng bị trách cứ vì  các chính sách  Stalinist  giả tạo  của 1 chính  phủ chống- phương Tây , vì sự thất  bại của  của này  và sự lạc lõng  của  cái kia. Nhưng  tình cảm của quần  chúng  không phải hòan  tòan  sai  khi cho rằng  thế giới phương Tây và  các tư tưởng phương Tây  là   nguồn gốc  chủ yếu của những thay đổi  chính  đã làm biến  chuyển    thế giới Hồi giáo trong thế kỷ vừa qua hoặc   về sau.  Kết cuộc là , phần  lớn  những nổi căm giận   của  thế giới Hồi  giáo    đều nhắm  vào  phương Tây , vốn được coi    là  kẻ cựu thù    xa xưa  của Hồi giáo  kể từ khi có những  xung đột  đầu tiên giữa  các Caliph  Hồi giáo  và  các  hòang đế Cơ đốc ,   và chống cả những người chủ trương theo phương  Tây ,  bị coi là  công  cụ hoặc  tòng phạm   của phương tây  , là kẻ phản  bội  đức   tin và  dân tộc của mình .

      Phái  chủ trương chính thống  về tôn  gíáo  hưởng  đựơc  nhiều   ưu thế so với  các  ý thức  hệ cùng   tranh giành . Chủ trương này dễ hiểu  đối với cả người Hồi giáo có  học  và thất học .  Học thuyết chính thống đưa ra   một  tập hợp   các chủ đề , khẩu  hiệu  và biểu tượng hết sức  quen thuộc   có hiệu  qủa trong việc  huy động   sự ủng hộ và đưa  ra  được  1 lập trừơng phê  phán   cái gì sai  cũng như   đưa ra  chương trình  cải tạo  nó. Các phong  trào tôn giáo cũng hưởng  được   một ưu thế   thực  tiển khác   trong  những  xã  hội  giống như  xã hội vùng Trung đông  và Bắc Phi  là những nơi đang đựơc cai trị bởi các chế độ độc đóan nhiều  hoặc  ít : các   nhà độc tài  có  thể cấm các đảng  phái họat động ,  có thể cấm không cho hội họp –nhưng  lại không   thể cấm  việc thờ phụng  công cộng  , và nếu có , chỉ   giới hạn việc  giảng đạo  trong mộ chừng mực  nào đó .

       Kết  quả   là  chỉ còn  có  các  nhóm chống đối   tôn giáo  mới có  nơi   hội họp  thường xuyên , nơi mà họ có thể tụ tập   và tổ chức  được  1 mạng lưới   nằm  ngoài  vòng kiểm  sóat của  nhà  nước  hoặc ít  nhất cũng không bị nắm  hòan tòan .  Chế độ càng  áp  bức , thì càng  giúp cho  nhóm  chủ trương chính thống    khi tạo cho họ hầu  như độc  quyền chống đối .

      Chủ trương cấp tiến Hồi giáo  bằng   quân sự không  phải mới có. Đã  xảy ra  nhiều lần  kể từ khi có ảnh hưởng  của phương tây  vào  thế kỷ 18, đã   từng  có  nhiều  phong  trào chống đối     nổ ra dưới hình thức  quân sự .  Cho đến nay ,  tất  cả đều  thất  bại . Đôi khi , những phong trào này thất bại  một  cách dễ dàng  và tương đối êm thắm   vì  bị đánh bại  và  đàn áp ,  trong trường hợp   này họ cũng   đựơc coi là thành công vì có  người tử vì đạo . Đôi khi  họ thất bại chua  xót hơn , khi nắm được quyền lực , nhưng lại phải đối đầu với  những  vấn đề kinh tế và  xã hội  mà  họ không   giải quyết  được . Điều  thường xảy ra là  họ lại trở thành  kẻ đi áp bức  và cũng nực cuời như người    bị   họ lật đổ .Chính  vào   giai đoạn  này họ có thể trở nên rất nguy hiểm , nói  theo ngôn  ngữ phương tây , là khi  cuộc cách  mang  chuyển sang  giai đọan Napoleon   hoặc   giai đoạn Stalinit . Với 1 chương trình xâm  lăng và  bành  trứơng , các phong trào này  , giống   như các đàn anh phái Jacobin  và Bolshevik sẽ có ưu thế là  sự tiếp tay của những đội quân thứ 5  tại mỗi  nước  và mỗi cộng  đồng   mà  họ có  những  tương đồng  về văn hóa   .

         Nói   rộng ra ,   phái  Hồi giáo chủ trương chính thống   là  những người   cảm thấy ràng  tất cả những  rối  rắm  của thế giới Hồi giáo   hiện nay không   phải là do  hiện đại   hóa     chưa đủ   nhưnglà do  hiện đại hóa  quá mức ,   theo họ đó là  sự phản  bội  các giá trị Hồi giáo đích thực . Theo họ , phương thúôc  là  quay về với  Hồi giáo  đích thực , bao gồm việc bải bỏ   tất cả các luật pháp và những điều  vay mượn  về mặt  xã hội  từ phương tây  và phục hồi  Thánh luật  Hồi giáo , shari’a ,  là  luật phù  hợp  của đất  nước . Từ quan  điểm  này , cuộc  chiến cuối cùng  không phải dành cho kẻ đột  nhập  phương tây nhưng  là  để   chó6ng   lại  tên phản  bội  theo phương  Tây trong  nước .Kẻ thù nguy hiểm  nhất ,  theo họ ,là  những  tên Hồi giáo trá ngụy   và phản  bội   đang  ngồi cai trị các quốc  gia trong thế giới Hồi giáo , và  là  nhữn  kẻ đã   nhập  cảnhg  cũng  như  áp  đặc   lối  sống  của  bọn vô đạo   lên    nhân dân Hồi giáo .

       Điểm này   được  nêu rõ   trong 1 bài  viết  ngắn  của ‘Abd al- Salm Faraq ,   người Ai cập  bị xử tử   cùng với đồng  bọn   vào tháng 4/1982  vì tội danh  đã  âm mưu   và thủ mưu ám sát  Tổng thống Sadat . Nhận xét  của Faraq   cho ta biết  rõ thêm  về động cơ của  hắn :   

Cơ sở   để bọn đế   quốc  hiện diện   trên  các vùng đất Hồi giáo  là    những tay   cầm  quyền  tương tự .  Đứng ra chống bọn  chủ nghĩa đế quốc  là 1  công việc chẳng hề mang  được lợi ích  hoặc vinh vang gì , chỉ tốn thời gian vô  ích .    Bổn phận của  chúng ta là tập trung   vào  sự nghiệp  Hồi giáo , đó là  phải thiết lập  trước hết , luật của Thượng đế trên đất  nước chung ta và làm  cho tiếng  nói của Thượng đế chiếm  ưu thế .  Không  còn gì nghi  ngờ là trận chiến  đầu tiên của  cuộc thánh chiến  là  việc  tước  bỏ quyền  lãnh đạo của  bọn vô đạo  và  thay thế bằng  1  trật tự   Hồi giáo  hòan  hảo ,  và từ đó sẽ giải phóng  được  năng lực của chúng ta .    

Trong khỏang thời gian từ lúc Tổng  thống  Sadat  bị mưu sát  cho đến lúc bắt đựơc  bọn sát thủ ,  người cầm  đầu  bọn họ đã  đắc thắng   la to” Ta đã giết  được   tên Pharaoh!    Ta  không  hề sợ chết”. Theo  như  cách nhìn nhận của nhiều  người  phương  Tây   vào thời đó ,  nếu dưới mắt  các tay sát thủ   sai phạm  của Sadat  là đã ký kết  hòa  bình  với Isael , thì Pharaon  là  một  tên gọi   hòan tòan không  phù hợp . Rõ ràng   là họ không nhắc  đến  Pharaon  như  sách giáo  khoa Ai cập hiện nay , là  người thể hiện  đựơc sự vĩ đại   và  vinh  quang   của Ai cập cổ đại .   Nhưng  đó là Pharaon   trong  sách Exodus  , kẻ mà  theo  Qur’an   , là 1  tên  độc tài vô   đạo  đã áp  bức dân của Thượng đế . Không còn  gì nghi ngờ   khi Usam bin Ladin  đã gọi Tổng  thống Bush  theo   nghĩa  này   là Pharaon của  thời đại hiện  nay. Vào   thời kỳ xảy ra  Exodus , Con dân Israel   là  dân của  Chúa .  Tín đồ Hồi giáo   hiện nay  không công  nhận  nhà nước Israel  hiện tại  là  kế thừa  hợp  pháp của Con dân Israel cổ đại –  là Banu Israil   trong kinh Qur’an –  và  những kẻ ám sát Sadat  chắc chắn  không  công nhận  sự dàn xếp  của   ông ta với nhà nước  này. Nhưng về sau ,  khi tra hỏi các tay giết  người và   đồng phạm  mới rõ là  theo  họ , hòa  bình với Israel  chỉ là 1 hiện tượng tương   đối  nhỏ –  là 1 triệu chứng , không phải là  nguyên nhân  của   việc phạm trọng tội đã  rời   bỏ niềm tin  vào Thượng đế ,  đàn  áp  dân của Chúa và  răm rắp theo  khuôn   mẫu của  kẻ thù .

Chương VII

Sự ra đời của chính sách khủng bố  

    Phần  lớn   các tín đồ Hồi giáo  không phải là người theo  phái chính thống  và phần  lớn   những  người chính thống  không  phải là  kẻ khủng  bố , nhưng  đa số những tên  khủng bố ngày nay  đều  là người  Hồi giáo  và họ hãnh diện xưng   mình là người Hồi giáo . Điều này cũng   dễ hiểu ,  người   Hồi  giáo  than  phiền rằng  khi  các phương tiện truyền thông cho rằng   các phong trào và   hành động khủng bố    mang tính”Hồi giáo” và   đặt câu hỏi  tại sao  các phương tiện  truyền  thông lại   không  gọi các tay khủng  bố và  hành  động  khủng   bố của người Ireland  và xứ Basque  là”Cơ  đốc”. Câu  trả lời  đơn giản  và  rõ ràng –   bởi vì họ không  cho mình  là như thế . Sự than  phiền   của người Hồi giáo khá dễ hiểu , nhưng  nên hướng   sự than phiền đó   về phía những kẻ tạo  ra tin tức , thay vì về phía  những người tường trình . Usama bin  Ladin  và các đệ tử Al-Qa’ida   của ông ta  có thể không đại diện cho  đạo  Hồi , và nhiều lời   phát   biểu   và hành động của  họ mâu thuẫn hòan tòan  với  các nguyên  tắc  cơ  bản và giáo lý  của Hồi giáo , nhưng  tất cả những điều trên  lại  do chính  nền  văn minh Hồi giáo sản   sinh ra , cũng như Hitler và  chủ nghĩa Quốc xã  phát  sinh từ   chính thế giới Cơ đốc ( Christendom ) , và  chúng cũng phải  được  xét trong chính khung  cảnh văn hóa , tôn giáo  và  lịch sử .

    Có  nhiều hình  thái cực đoan  Hồi  giáo   thịnh hành  hiện nay. Được biết  nhiều nhất  là nhóm cấp tiến có chủ trương  lật  đổ là Al-Qa’ida  và   những nhóm  tương  tự tại các  nước  Hồi giáo ; nhóm chủ trương  chính thống ưu tiên  ( pre-emptive )  của chế độ Saudi  và  cuộc cách mạng  nhằm   thay đổi  định chế của   tầng lớp  lãnh đạo   đang  cầm  quyền tại Iran . Tất  cả các  nhóm này   đều có  1 điểm chung đó là có  nguồn gốc  Hồi giáo , nhưng một  số lại đi chệch  rất xa   nguồn gốc  này .

    Tất  cả các nhóm cực  đoan  khác nhau  đều  thần  thánh hóa   hành động của  họ   thông   qua  cách trích  dẫn  đầy  đạo lý trong    bản  văn  Hồi giáo ,  nhất  là kinh Qur’an   và   các truyền thuyết  về Đấng  tiên tri , và tất cả 3   nhóm đều  được cho  mình là chân thực  hơn , thuần khiết  hơn , trong  sáng hơn  và     sát  với Hồi giáo  hơn so  với  hình thái đạo    Hồi   đang được đại  đa số những  người Hồi giáo   thực  hành  và  được  phần   lớn  , tuy  không  phải là tất cả , giới lãnh đạo tôn giáo  chuẩn nhận  .Tuy nhiên ,  những nhóm  này  lại tùy nghi  lựa chọn  và  diễn giải  những  bản văn  thiêng  liêng. Ví dụ , khi  nghiên cứu   những  lời  dạy của  Đấng tiên tri ,  họ không sử dụng các phương pháp được  thử thách  qua  thời gian  do  các  nhà luật  học   và thần học  phát triển  để kiểm định   tình chính xác  và  chân thực  của  các truyền thuyết truyền khẩu ,  thay  vào  đó  họ chấp nhận  hay  gạt  bỏ   ngay cả những bản văn thiêng liêng   tùy  theo   nội dung có   phù  hợp  hoặc    mâu thuẩn với   lập trường  hiếu chiến và  giáo  điều  của  họ hay  không .  Một  số còn đi xa hơn  nữa  đòi “hủy bỏ” hoặc”thủ tiêu”một  số vần thơ trong kinh Qur’an  .  Lý luận đưa ra để biện minh  cho  điều này  là   những vần thơ  trên được  mặc khải   vào những  năm đầu  khi  Đấng  Tiên tri bắt  đầu sứ mệnh  của   mình   cho nên   có  thể được thay thế bằng  những mặc khải  sau  này , có  thể là   vì chín  chắn hơn.

    Một  ví dụ minh  họa  cho  những  sự   chệch hứơng  là   sắc  lệnh tôn giáo ( fatwa)  nổi tiếng do  Ayatollah  Khomeini đưa ra  vào ngày 14 tháng 2/1989 để chống lại nhà văn  Salman Rushdie  vì ông này  viết quyển sách Những  vần  thơ quỉ  .   Trong fatwa  , Ayatollah  Khomeini  thông  báo”cho  tất  cả các tín đồ Hồi giáo mộ đạo  trên thế giới rằng  dòng máu  của tác giả quyển sách   này… quyển sách  đã  được biên  sọan  , in  ấn  và  xuất bản  đều chống lại  đạo Hồi , chống Đấng tiên tri   và kinh Qur’an ,  cũng như những ai tham gia  vào việc   xuất  bản    dù biết  rõ   nội dung   quyển  sách , đều  được coi là phải trả giá  vì hành  động của mình . Ta kêu gọi  tất  cả các tín đồ Hồi giáo  phải giết chúng   cho nhanh ,  ở bất cứ nơi nào  gặp được chúng   ,  để cho không còn  có kẻ nào dám  xúc phạm đến   tính  thiêng liêng  của Hồi giáo . Ai   hy  sinh khi thực  hiện điều  này  sẽ được coi là  tử vì  đạo”Để ứng  trước cho   phần thưởng trên thiên đàng , 1  quĩ  từ thiện  tại Tehran treo giải thưởng 20 triệu tuman ( khỏang  3 triệu USD   thời đó  theo giá chính thức ,  tương   ứng với 170.000 USD giá chợ   đen )  cho người Iran , hoặc  1  triệu USD   cho  người   nước  ngoài nào  giết được  Salman  Rushdie .  Vài năm sau đó , quĩ trên có   tăng  thêm  tiền  thưởng , tuy tin này  không được xác nhận.

    Dĩ  nhiên  là  , đối  với nhiều độc  giả không  nắm vấn đề   tại  châu Âu cho rằng  “ban  bố 1   fatwa”   cũng tương đương   với việc “đưa ra 1  hợp đồng”- tức là  nhắm   vào  1  nạn nhân ,  hứa  thưởng bằng  tiền  khi  giết  được .   Cũng  giống  như madrasa , từ fatwa  , theo  cách hiểu   thông thường    trên thế giới ,  có ý nghĩa hòan tòan tiêu cực . Trên thực tế , đây là  1  điều cực kỳ vô  lý  .Fatwa  là 1  từ kỹ thuật  trong  luật  học  Hồi giáo  để chỉ 1  ý kiến  về luật  hoặc việc  áp dụng  1 điểm  nào của luật . Trong shari’a ,  fatwa tương đương với  responsa prudentium     của luật La mã .     Nhà luật học  Hồi giáo  được  phép ban bố   1 fatwa    được  gọi là  mufti , đây là  1  phân từ chủ động  ( active  participle ) có cùng  gốc  từ . Khi    sử dụng  1 fatwa   để kết án tử hình  và  chiêu  mộ kẻ giết người , chính  vị Aytollah này đã    di chệch  khá  xa chuẩn  mực  Hồi giáo .

     Sự chệch  hứơng này   không những  nằm ở phán quyết   và  sự tuyên   án  , mà còn  ở ngay bản chất   của lời buộc tội . Xúc  phạm đến  Đấng tiên tri –  là lời buộc tội   dành cho Salman Rushdie –  chắc chắn là 1 vi  phạm  theo luật Hồi giáo , và các luật gia  Hồi giáo  thảo luận   khá cặn  kẻ về lời  cáo buộc  này .  Hầu như tất cả các ý  kiến thảo luận đều  tập trung  vào  vấn đề   một  người dân  không theo  đạo Hồi   sống  tạị   1 nước Hồi giáo  và   người này  xúc phạm đến Đấng tiên tri . Các  luật gia   chú ý  nhiều đến định nghĩa  thế nào là  một sự vi phạm , luật làm chứng   và hình  phạt thích hợp .  Họ đều ái ngại rằng  những lời  buộc tội  dành cho sự vi phạm này   không nên  được   sử dụng như là 1  công cụ để   trả thù   riêng ,  và nhấn mạnh  cần phải   xem xét cẩn thận  các chứng cứ trước khi  tuyên án .  Đa số cho rằng  hình thức đánh đòn bằng  roi và giam giữ có  thời  hạn  là đủ để trừng phạt – mức  độ đánh  đòn   bằng roi  nhiều  hay ít   và thời gian   bị giam    phụ thuộc vào  mức  độ nặng nhẹ của sai  phạm  .  Khó mà  nghĩ   đến trừơng hợp  1 tín đồ   Hồi  xúc phạm đến   Đấng tiên tri  và    thật  ra cũng  rất hiếm gặp . Nếu có,  thì  hành động này  tương ứng với sự phản đạo .

    Đây là  1  lời  buộc tội  đặc  biệt chống lại  Salman  Rushdie .  Phản  đạo là 1  tội trọng   theo luật Hồi giáo , đối với  đàn ông  đây  là tội chết .Nhưng nên nhớ là ở đây đề cập đến  luật  . Luật pháp Hồi giáo   là 1 hệ thống luật và tư pháp , không  phải chỉ có treo cổ và khủng  bố . Luật này đề   ra các qui trình  theo  đó 1 người bị tố cáo  vi phạm sẽ được  mang  ra  xét  xừ ,    đối mặt với  nguyên  cáo ,  và    có cơ   hội  tự bào chữa .  Thẩm phán  theo đó  sẽ đưa  ra  phán quyết , và  nếu  thấy người  bị tố cáo có tội ,   sẽ tuyên án .

    Tuy nhiên  cũng   còn   có   1 quan  điểm khác , do  một   thiểu  số các    luật gia   chủ trương  , cho  rằng    một  tín  đồ Hồi  giáo  xúc  phạm  đến   Đấng tiên tri  là  1 lỗi rất nặng ,    phải trực  tiếp  hành  hình   ngay , và   có  thể , đúng ra là   phải  , bỏ qua  tất cả các    thủ tục  buộc tội , xét  xử , và  kết  án  . Quan điểm   này   căn cứ   theo  1  lời dạy  được   gán  cho chính  Đấng tiên tri   nói ra , nhưng   chưa  được   công nhận rộng  rãi  là   đúng  như vậy :’ Nếu  có kẻ   lăng mạ ta , tín đồ Hồi giáo  nào nghe được   đều phải  giết   hắn ngay”.  Thậm chí trong số các nhà  luật học  chấp nhận tính  chân thực của lời dạy này , cũng  có  sự bất đồng .  Một  số người cho rằng cần có  một   số hình thức thủ tục   hoặc   thẩm   quyền ,  và  nếu không  được phép,  thì việc   hành quyết  không  qua thủ tục   chỉ là   mưu sát và đã là mưu sát tức  là phạm  tội   cần  phải   xử . Những  người khác cho   rằng  lời  dạy    như được chép lại   đã chỉ rõ  rằng  việc hành   quyết  ngay , bỏ qua thủ tục  dành cho  kẻ phạm thánh  không  những hợp  với   luật  mà  còn là 1 điều  bắt buộc ,  và   ai   mà  không thực  hiện theo  lời  dạy này  , thì  coi như  chính  họ cũng   phạm  lỗi . Thậm chí  những  thẩm phán cổ điển  theo nhóm cực đoan và nghiêm  khắc nhất  chỉ đòi hỏi   1 tín đồ Hồi giáo  phải  giết kẻ nào   xúc  phạm đến  đấng tiên tri  khi chính bản  thân mình nghe thấy . Họ không  nói gì đến  việc  thuê người  đi giết  vì nghe  qua người  khác  xúc  phạm đến   Đấng tiên tri   tại 1 đất  nước  khác  xa  xôi .

    Việc  thần thánh  hóa  hành động giết người   nêu  trong fatwa của Khomeini   là  1  hình thức   cao hơn   trong việc thực hiện – và  tôn  sùng – việc  ám sát  liều chết.   

    Nếu   ta     nghiên cứu  tài liệu lịch  sử , ta  sẽ thấy  phương cách tiến hành chiến tranh   của  Hồi giáo  không khác  nhiều  với  phương cách  của người Cơ đốc ,  hoăc của  người Do thái trong những  thời kỳ rất  xa  xưa   và  thời  kỳ rất  cận đại khi  sự lựa chọn này mở ra trước mặt họ . Trong  lúc người Hồi giáo , có lẽ thường xuyên  hơn so với   người Cơ đốc , tuyên  chiến  với  tín đồ   của  các tôn giáo  khác  nhằm đưa   họ vào quĩ  đạo của Hồi  giáo , người Cơ đốc – không  tính  đến  trường  hợp  các cuộc  Thập tự chinh –  có  khuynh hướng tham gia  các   trận chiến  đấu nội bộ tôn giáo  để chống lại  những kẻ ly giáo  hoặc   kẻ theo dị   giáo . Còn người Hồi  giáo , hiển nhiên  là    căn cứ theo   những  hành động   chínhtrị và quân sự   của  người sáng lập ,  sẽ chọn  1 quan điểm  thực  tiển   hơn  là những   gì  được  ghi trong  sách Phúc âm  về các mối liên  hệ    xã hội  và nhà  nước .  Quan điểm của  họ gần  với   quan  điểm   được  ghi trong   các  sách   thuộc Cưu  Ước ,  và  các học thuyết   về việc trừng  phát người  Amalekites  , hơn là  với  quan điểm của Đấng  Tiên tri   và  của Phúc  âm . Người  Hồi  giáo  không  được  dạy là    phải  chìa  má  trái nếu  đã   bị tát má phải , hoặc  rèn lưỡi gươm  thành  lưỡi   cày  và rèn giáo  thành  kéo tỉa cây (Isaiah 2:4) . Tuy nhiên ,  những lời  giáo huấn   này không  cản được  người Cơ đốc  gây ra  một lọat  các cuộc  chiến  đẩm  máu   bên trong   thế giới Cơ đốc    và  chiến tranh  xâm lược  ra nước  ngoài.

    Điều  này     tạo ra  1  vấn đề lớn hơn   liên  quan đến thái độ   của  tôn giáo  đối  với bạo lực  và   vũ  lực,  và  nhất là đối với hành vi khủng  bố .Tín đồ của  nhiều  giáo  phái   có  lúc  viện  dẫn   đến tôn giáo   khi ra  tay   thực  hiện  việc giết người , lẻ tẻ hoặc  hàng  lọat . Thậm chí  có 2 từ phát  xuất từ các  phong trào  như thế    từ các  tôn giáo  phương Đông   đã  đi  trở thành tiếng Anh : thug (  kẻ sát nhân ) từ Ấn độ , và   assassin (  kẻ ám  sát )  từ Trung đông ,  cả 2 từ này đều  gợi  nhớ   đến những  giáo  phái  cuồng tín tôn  thờ hành động đi giết   những  ai mà họ xem  là   kẻ thù  của  niềm tin   của  mình

    Thực  hành và  sau đó là  lý thuyết  về hành động  ám sát  trong thế giới Hồi  giáo  xuất  hiện từ rất  sớm ,  từ các  cuộc   tranh giành  quyền lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo .  Trong số 4 vị Caliph đầu tiên của đạo Hồi  , thì  3 vị   đã  bị ám  sát ,  vị thứ 2   do  1 tên nô lệ Cơ đốc  căm giận giết chết , vị thứ 3  và  thứ 4   do   những tín  đồ   sùng đạo  nổi lọan  giết chết  vì  những   kẻ này  tự cho  mình  là   đao  phủ thực hiện ý    muốn của Thượng đế . . Vấn đề trở  nên  bức  xúc  vào năm 656 C.E khi  các phiến lọan  Hồi giáo  ám sát ‘Uthman   , vị Caliph  thứ 3.  Cuộc  chiến  đầu tiên trong 1 lọat các  nội chiến   là về vấn đề liệu  những  kẻ giết  người  đã làm  xong  hoặc   xem thường  điều răn  của  Chúa . Luật và truyền  thống Hồi giáo   ghi rất  rõ ràng  về nhiệm vụ phải phục  tùng  người lãnh đạo Hồi giáo . Nhưng họ cũng trích  dẫn 2 câu  nói  theo  họ là của Đấng Tiên tri :”Không  được  phục tùng    gây tội  ác”và” Không được phục tùng kẻ nào  chống lại Đấng  Tạo hóa : . Nếu nhà cai trị ra lệnh  trái với luật  của Thượng đế , thế thì  không cần  phải tuân  phục nũa . Ý niệm giết  kẻ độc tài –  cách lọai bỏ kẻ độc tài  được coi là hợp lệ –  không phải  do Hồi giáo sáng tác ;  mà chính đã có từ rất   xa xưa , đều có  ở người Do thái , Hy lạp ,  và  La mã   , và những ai thực  hiện     hành động  này  thường được ca ngợi  như những bậc  anh hùng.

    Các thành viên của  giáo phái Hồi giáo  ,  phái  Ám  sát  ( assassin  đi  từ gốc  Ả -rập  Hashishiyya )  , họat động mạnh  ở Iran , và  sau đó ở Syria   từ thế kỷ thứ 11   đến  thế kỷ 13 , dường như là   những người đầu tiên đã   chuyển đổi  1 hành động được đặt  theo tên   của họ sang thành  1 hệ thống  và  1  ý  thức hệ .  Trái  với  sự tin  tưởng thông thường ,  các nỗ lực của họ trước  tiên không nằm  vào  các chiến  binh  Thập tự   chinh  nhưng là để chống  lại các  nhà lãnh đạo Hồi giáo , những người mà theo họ là bọn sóan ngôi vô đạo .Về mặt này , bọn Ám sát   đúng là    bậc tiền  bối  thực   sự của  những tên  được  gọi là khủng bố Hồi giáo   ngày nay ,  bởi vì  một  số trong  nhóm này  công khai bày  tỏ quan điểm như thế. Cái tên  Hashishiyya , có nghĩa  là   người hít cần sa ( hashish ) ,  vốn  do  các kẻ thù Hồi giáo  của  họ đặt cho . Còn  chính  họ ,  họ gọi  mình   là fidayeen ,  từ tiếng Ả -rập fida’i – người sẵn  sàng  hy sinh cuộc  sống   cho   sự nghiệp.

    Sau khi  phái ám sát  bị đàn áp  và tiêu  diệt  vào  thế kỷ 13 , cái tên này không còn được  sử dụng . Cho đến  giữa   thế kỷ 19, từ này  mới  được  một nhóm  mưu  phản  người Thổ đem ra sử dụng  lại , nhóm này  âm  mưu  lật đổ và  , nếu có thể được , ám  sát vua Sutan .  Âm mưu bị lộ , các  tay chủ mưu  bị ngồi tù  . Từ này  tái xuất  hiện tại Iran , do nhóm  gọi là Fida’iyan –i Islam , tức là fida’i của  Islam , là 1  nhóm khủng  bố tôn giáo chính trị tại Tehran . Nhóm  này  từ khi  bắt đầu họat động  năm 1943 , cho  đến lúc  bị đàn áp năm 1955 , đã tiến  hành một số vụ mưu  sát chính  trị . Sau khi  ám sát Thủ tướng Iran  không thành công  vào  tháng 10 năm 1955,  họ đều bị bắt , truy tố và những  kẻ đầu đảng bị xử tử . Từ những  năm  1960  trở đi , từ này   được   phái   chủ chiến  PLO (  Tổ chức  Giải phóng Palestin)   làm sống lại , để chỉ những tay tham gia họat động khủng  bố trong tổ chức Palestin.

    Về cả 2 mặt  , việc chọn   lựa  vũ khí và  chọn  ra  nạn nhân , phái Ám sát khác rất nhiều với  những người  kế tục  hiện nay.   Đối tượng   của  ho luôn luôn là  1 người ,    là  lãnh đạo cao cấp về chính trị , quân sự , tôn giáo , kẻ được coi như  là  nguồn gốc  của  cái ác .  Chỉ có  người  này , và  chỉ một  mình người  này  ,  mới bị giết. Hành động này  không phải là khủng  bố   theo nghĩa   thông dụng  hiện nay   nhưng đúng  ra chỉ là ám sát  có  mục tiêu . Vũ khí  luôn   luôn  chỉ là chiếc dao  găm . Sát thủ không   thèm  sử dụng  thúôc độc  , nỏ và những vũ khí   khác có  thể sử dụng   từ   xa , và sát thủ cũng không mong -hoặccó ý định ,  hoặc   ước muốn – được sống sót sau khi thực  hiện  nhiệm vụ mà khi  làm  xong  ,  hắn ta sẽ được  thưởng công trên  Thiên đàng. Nhưng  dù  với  bất cứ tình  huống nào , họ cũng không hề tự sát , mà chỉ   chết trong tay kẻ thù .   Cuối cùng  những  căn cứ   họat  động mạnh của  họ tại  Iran và Syria  bị nhóm  quân sự    phá  hủy  . Cũng có nhiều  khả năng là nhóm   ám sát hiện đại  một  ngày nào đó cũng sẽ bị đánh bại ,  nhưng  với  nhiều khó khăn  và  lâu dài . Các tay Ám sát thời trung cổ   thuộc  nhóm cực đoan ,  cách  biệt  rất  xa   với dòng  Hồi giáo  chủ đạo .  Nhưng với những   kẻ bắt chứơc này nay ,điều này không  còn đúng .  

    Thế kỷ 20  đã làm sống lại  những  họat  độngnhư thế tại  vùng trung đông ,  dưới  nhiều  hình thức và   các mục  đich khác nhau và  chính   họat động khủng  bó  cũng đã trải qua nhiều giai  đoạn .   Vào   những năm cuối cùng của  đế quốc  Anh , nước Anh  đế quốc  đối  diện với nhiều  phong   trào khủng  bố tại  các  thuộc  địa  vùng  Trung đông  , nơi có  3    nền văn  hóa :   người Hy lạp   tại  Cyprus ,  người Do thái tại Palestin, và  người Ả -rập  tại Aden .  Động  cơ  của 3 nhóm này là chủ nghĩa quốc gia  , hơn là vì  tôn giáo .  Dù rằng  họ rất khác nhau  về   hòan cảnh   xuất phát và  tình huống  chính trị , nhưng về chiến thuật  họ   lại có  những điểm tương đồng  cơ bản .  Mục  đích của  họ là  thuyết phục  đế quốc  thấy rằng không đáng phải đổ máu  để   bám víu  khu vực   này . Phươngpháp  của họ là tấn công   các cơ sở quân sự , và trong  chừng mực  , nhân viên  và cơ sở hành chính .  Tất cả 3  nhóm đều họat động trong phạm vi lãnh tổ   của mình  và  thường thì họ cố tránh gây thương  vong  cho  người   không liên  can .  Cả 3 nhóm  đều đạt được  mục tiêu  mong muốn của  họ .

     Đối với  bọn khủng bố kiểu mới , việc  tàn  sát  thường   dân vô tội   và   không liên can   không phải là “tổn thất phụ ( collateral damage )  mà  là mục tiêu chính .  Điều  không tránh  khỏi là,  phản công  chống lại  những tên khủng  bố –    có bao giờ chúng mặc    đồng phục –   lại cũng  nhắm vào các thường dân.Chính sự mù mờ    này  đã giúp rất nhiều cho   bọn  khủng  bố và những kẻ có cảm tình với chúng .

    Nhờ sự phát  triển rất nhanh của  các  phương tiện truyền   thông , nhất là  qua truyền  hình ,   những hình thái  họat  động khủng  bố gần  đây  không nhắm  vào   các mục tiêu kẻ thù  chuyên   biệt  và giới hạn nhưng nhắm  vào  dư luận  tòan cầu .  Mục tiêu  chủ yếu  của chúng không phải là nhằm đánh bại  hoặc thậm chílà suy  yếu  kẻthù về mặt  quân sự , nhưng  để cho   ai cũng  biết   đến  họ và  tạo  ra sự sơ  hãi – đó là 1 chiến thắng  về   mặt  tâm lý .  Hình thức họat   động khủng bố tương tự cũng được    một  số nhóm  tại Đức  , Ý , Tây ban nha và Ireland  áp dụng .  Tổ chức  giải phóngPalestine(PLO) nằm trong   nhóm  thi  hành theo kiểu này thành công  và  bền  bỉ nhất .

    PLO  được  thành lập năm 1964  nhưng đến năm 1967  mới  đóng vai trò  quan trọng , sau khi   quân đội khối Ả -rập  bị thất trận trong cuộc chiến – 6 -ngày .  Chiến tranh    qui  ứơc  thất bại ,    đây  là lúc  thử tìm  phương pháp khác .  Mục tiêu  trong  hình thức đấu tranh vũ trang này  không phải là  các cơ sở quân  sự   hoặc   các cơ quan  chính phủ vốn được  bảo vệ cẩn mật , nhưng lại là   những  nơi công  cọng  , có đông nggười  tụ tập ,  đa  số là dân thường  và  các nạn nhân  không  nhất thiết phải có  liên quan đến  kẻ thù  chính thức .   Một  số ví dụ của chiến thuật này như , vụ cướp 3 máy bay  vào năm 1970 – 1  của   Thụy  sĩ , 1 của Anh  , và 1 của Mỹ –  3  chiếc này  đều được   đưa tới Amman ;  vụ mưu sát   các vận  động  viên Israel   tại Thế vận  hội Munich ;  vụ chiếm  đóng  tòa  Đại sứ Saudi Arabia  tại Khartoum   và   giết   chết  ở đây  2 nhà  ngoại giao Mỹ   và 1  của Bỉ ;    vụ cướp  tàu  du lịch   Achille Lauro của Ý   vào năm 1985 đã  giết chết  một  hành  khách tàn tật .  Những   vụ tấn công khác   nhắm  vào trường  học ,   nơi mua  sắm ,  discotheque , và  thậm chí  còn  nhắm vào các   khách  sắp hàng chờ tại các  phi  trừơng    châu Âu .  Những họat động này   cùng với  nhiềuchiến dịch  khác  do PLO   thực hiện  đã đạt  được  mục tiêu trước mắt   của  họ khá thành công –  đưa được   các hàng  tin    dòng đầu trên  các báo và   trên màn  ảnh  nhỏ . Đôi khi các họat  động này   dành  được    sự ủng  hộ to lớn  từ những  nơi không  ngờ tới  và làm  cho   các thủ phạm   đóng vai trò quan trọng trong   những  căng thẳng quốc tế . Có điều  hơi ngạc nhiên  là   có  kẻ khác được khuyến khích   làm theo gương  của họ. Bọn khủng  bố Ả -rập  của những năm thuộc thập niên  1970 và 1980  tuyên   bố thẳng thừng  là  họ phát động chiến  tranh vì  lý tưởng quốc giaPalestine   hoặc Ả -rập ,  chứ không phải vì Hồi giáo . Thật  vậy ,   một  tỉ lệ khá  lớn  các nhà họat động  và lãnhđạo PLO  là người Cơ đốc.

     Nhưng  dù   họ có thành công  về mặt truyền thông , PLO   lại  không  đạt được  các kết  qủa đáng kể tại nơi  mà  họ quan tâm   – tạiPalestine .  Tại   các quốc gia Ả -rập , trừ Palestine, các   phái theo chủ nghĩa  dân tộc   đều  đạt được  mục đích –   đó là   làm cho  các nhà  cai trị nước  ngọai     bại trận  và cuốn xéo , là thành lập   được chủ quyền  quốc gia  với sự cai trị của các nhà lãnh đạo  dân tộc .

     Có lúc , những từ như tự do  và độc lập  được coi như ít nhiều  đồng nghĩa và  thay  thế cho nhau được .  Tuy nhiên , qua kinh nghiệm  buổi đầu  sau khi đạt được  độc lập  lại  cho thấy rằng đây là 1 sai lầm  buồn . Độc lập và  tự do  rất khác nhau ,và lắm khi đạt  được cái  này    ; lại có nghĩa   là  chấm dứt  cái kia  , và sự thay  chỗ cho  các vị chúa tễ    ngoại  bang bằng  1   bạo chúa  trong nước , lão luyện  hơn,   gần gũi hơn  ,   và  độc   đóan  không  giới hạn .

    Sự cần thiết có 1 lời giải thích mới cho  biết  cái  gì   sai , và có  chiến  lược   để uốn nắn  càng   ngày càng   trở nên bức thiết  và sôi sục . Cả 2 vấn đề   đều được  tìm thấy , trong  tình   cảm  và bản  sắc tôn giáo .  Sự lựa chọn này   không   mới .  Vào nửa đầu  thế kỷ 19 , khi các đế quốc  châu  Âu tiến công  vào nhiều vùng đất  Hồi  giáo,   thì sự kháng cự   đáng kể nhất  đối với sự tiến công này   nổ ra  dưới chiêu bài  tôn giáo .   Người  Pháp tại Algeria , người  Nga tại vùng Caucase , người Anh tại Ấn  độ , tất cả đều  phải đối mặt  với  những   vụ nổi dậy lớn vì  tôn giáo , những   vụ này   chỉ bị dẹp tắt sau những cuộc đàn  áp  dài ngày  và đầy    gian khổ.

    Một giai đọan mới  trong   việc huy động tôn  giáo   bắt  đầu  bằng  1 phong trào  gọi là  chủ nghĩa  tòan Hồi  giáo ( pan-Islamism) theo  ngôn ngữ phương  Tây .  Manh  nha  vào  những năm thuộc thập kỷ 1860  và 1870 ,  phong trào này  học hỏi phần nào tấm   gương của  người Đức và người Ý    đã  chiến đấu thành công  thống nhất  đất nước  trong những  năm đó .  Những người Hồi giáo  cùng  thời  khi bắt chứơc tấm gương trên  chỉ nhận mình là  tìn đồ đạo Hồi  và   đã định nghĩa  mục tiêu  chiến đấu của mình  bằng những  từ ngữ tôn giáo và  cho  cộng đồng   hơn là  chủ nghĩa dân tộc   và  ái  quốc   ,  là  những từ   vẫn còn xa lạ vào lúc ấy . Nhưng với sự bành trứơng  của ảnh hưởng   và giáo dục phương Tây , những ý tưởng  chủ nghĩa quốc gia  và  ái  quốc    này bén rễ và một thời gian  sau  chi phối cả 2 mặt chiến  đấu và   tư tưởng  tại các nước  Hồi giáo . Tuy  nhiên ,  về tôn giáo ,  bản sắc và  sự trung thành  vẫn còn được cảm nhận  sâu  đậm và được thể hiện  trong nhiều phong trào  tôn giáo , nhất là   nhóm Huynh đệ Hồi giáo . Khi  các ý thức hệ thế tục bị thất bại một cách tệ hại , thi những phong trào tôn giáo  trên lại đóng  vai trò   quan trọng  mới , đứng ra chiến đấu  và  nhiều   chiến sĩ  của các  phong trào này  vốn là  các nhà  họat  động  theo chủ nghĩa  dân tộc   đã thất  bại .

    Đối với  nhóm  chủ trương chính thống cũng như  nhóm theo chủ nghĩa dân tộc , các  chủ đề về lãnh thổ đều   quan trọng  nhưng  dưới 1 hình thức  khác, nan  y  hơn. Lấy ví dụ , đối với nhóm chính thống  nói  chung ,  không có hòa bình hoặc nhân nhượng gì với  Israel cả ,  bất cứ sự nhượng bộ nào  cũng  là 1  bước để tiến tới  giải pháp  cuối cùng  thực sự –  đó là sự xóa sổ nhà nước Israel ,trả lại  đất  đất cho ngườiPalestineHồi giáo , những người chủ thật sự ,   còn đối với kẻ xâm lăng , chỉ có cái chết  hoặc  trục  xuất .  Tuy nhiên ,  điều này không có nghĩa  là đã  làm  thỏa  mãn các  yêu cầu của nhóm  chính thống, yêu cầu của họ bao gồm  mọi vùng   đất  tranh chấp khác –   thậm chí  khi chiếm được cũng chỉ là  1 phần  trong cuộc   chiến  đấu   lâu dài  nhằm   thống trị tòan thế giới.

    Chiến thuật cũ  được giữ lại  phần lớn , phần có tính mạnh  bạo  trội  hơn nhiều .Khi   chiến thắng cũng như  khi thất  bại , bọn  khủng bố tôn giáo   áp dụng  có   cải tiến  những phương pháp  do các  nhà họat động theo chủ nghĩa  dân tộc  vào thế kỷ 20 đưa ra , nhất là  việc họ không hề   động lòng khi tàn sát  những  người  vô tội .  Sự dững dưng   này đạt  đến   mức độ mới  trong  chiến dịch khủng  bố   do Usama bin Ladin t phát động  vào  đầu thập niên 1990 . Ví dụ đầu tiên  là  vụ đánh bom  2 tòa đại sứ Mỹ tại Đông Phi  vào năm 1998 . Để giết 12  nhà ngọai giao  Mỹ ,  các tên  khủng  bố không do  dự tàn sát  trên 200  người Phi , đa số là  tín  đồ Hồ giáo ,  tình  cờ có mặt gần đó .  Trong số báo  ngay sau  những  vụ tấn công  này , tờ báo  tiếng Ả -rập Al-Sirat al- Mustaqim của nhóm chính  thống , xuất  bản tại Pittsburg, Pennsylvania ,  bày tỏ sự đau buồn  đối  với các”tử vì đạo”, những người   hy   sinh  tính mạng   trong các hiến dịch trên và  còn đăng  tên   những kẻ này theo danh sách được văn phòng Al Qa’ida  tại Peshawa , Pakistan cung cấp.  Người viết  bày tỏ hy  vọng”rằng Thượng đế sẽ…  cho chúng ta  gặp  họ trên   thiên  đàng”. Sự coi rẻ mạng  người  ởmức độ cao  hơn  là   cơ sở cho  những hành động thực  hiện  tại New York và Washington  vào này 11 tháng 9 năm  2001.  
 
 

    Một  khuôn mặt  đáng chú ý  trong  các chiến dịch  trên là  kẻ khủng bố liều chết . Đây là  1  sự phát triển mới . Những kẻ khủng bố theo chủ nghĩa dân tộc  của thập niên 1960  và 1970   thường  không  để mình  cùng chết  với nạn nhân    mà bố trí tấn công từ   xa . Nếu  rủi   có bị bắt , tổ chức  của  họ   thường  cố gắng , đôi khi thành công , tổ chức  giải cứu  bằng cách bắt con tin và   hăm dọa sẽ giết  hoặc làm hại con tin .  Những  sát thủ vì động cơ tôn giáo , nhất là  nhóm Ám sát , không  sợ chết khi làm  nhiệm vụ nhưng   họ không hề tự sát .   Cũng   gặp tình huống này với  các  binh  sĩ  con nít  người Iran   trong trậnchiến 1980-1988 chống lại Iraq, bọn chúng   tay chỉ cầm  1  quyển  sổ thông  hành lên thiên đường ,  băng qua  bãi  mìn , để dọn  đường  cho quân đội chính qui .

     Có  1 kiểu  mới khi  thực hiện  nhiệm vụ tự sát    theo đúng  nghĩa  của từ này  dường như được  các tổ chức  tôn giáo  như Hamas  và Hiabullah đưa ra   đầu tiên ,  từ năm 1982 trở đi khi tiến  hành  một  số vụ như thế tạiLiban  và Israel.  Họ tiếp tục trong súôt  thập niên 1980 và 1990 ,  tạo tiếng   vang  đến các  vùng khác  , như  tại đông  Thổ nhĩ kỳ , tại Ai câp , tại Ấn độ , và tại Sri Lanka .  Theo cáctin tức có  được ,  dường như những  ứng viên  được  chọn  thực  hiện  các nhiệm vụ này , trừ vài  ngọai  lệ , đều  là nam thanh niên ,  ít tuổi , nghèo , xuất thân từ các trại tị nạn. Họ nhận được  2 phần thưởng -một  sau khi chết , được  hưởng ân  phứơc   trên  thiên đang ,được mô tả cụ thể ;  một  trên đời  này ,  là phần thưởng  vật chất  , tiền  bạc  cho  gia đình . Một cải  tiến  đáng  chú  ý  là sử dụng phụ nữ để đánh bom liều chết-  do   nhóm khủng bố người Kurd  tại Thổ nhĩ kỳ năm 1996-1990  và  tạiPalestine từ tháng  giêng 2002 .

    Không giống   như  các chiến  binh thần   thánh  hoặc  ám sát  thời trung cổ , là  những người sẵn  sàng chịu chết  trong tay  kẻ thù  khi  bị bắt ,   những kẻ khủng bố liều chết  chết bởi chính bàn tay  của mình . Điều  này  đặt ra một câu hỏi quan trọng  về giáo lý Hồi giáo . Các sách luật Hồi giáo  nói rất  rõ  về đề tài tự sát .  Đây là 1 trọng tội   và  sẽ bị trừng phát  dưới hỏa ngục đời đời  dưới dạng nếu  anh đã tự sát the kiểu nào thì sẽ bị trừng phạt   theo kiểu đó .  Những  dòng  sau đây ,  căn cứ theo  lời  truyền miệng của Đấng tiên tri , làm rõ   điều  này :

    Đấng tiên tri  nói :  kẻ nào tự giết mình bằng   dao  sẽ phải    chịu  hành  hình bằng  lưỡi dao đó  trong lửa  hỏa ngục.

    Đấng tiên tri cũng nói :  kẻ nào  treo  cổ tự sát  sẽ phải chịu treo cổ dưới  đại  ngục ; kẻ nào  đâm  tự đâm mình sẽ phải tự đâm mình   dưới địa ngục … Kẻ nào  nhảy  xuống  núi  để tự tử sẽ phải nhảy  vào   hỏa ngục  đời đời . kẻ nào  uống thuốc độc  tự sát  sẽ phải tự mình mang theo thuốc  độc  để uống   trong  địa ngục đờiđời … kẻ nào tự sát  bằng   cách nào thì sẽ bị hành  hạ  bằng cách đó    ở dưới địa  ngục . Kẻ nào  tự tử bằng cách nào trên đời này   sẽ bị   hành  hạ bằng  cach đó trong  ngày sống  lại”. 
 

      Những  người có thẩm quyền đầu tiên   phân  biệt  rõ  giữa  việc đối diện cái  chết trong   tay kẻ thù  và  chết  bởi chính tay mình . Có  1 truyền   thuyết   rất  xa  xưa về hình thức gọi là hadith quasi   , tức là  lời  của  chính Thượng đế do  Đấng tiên tri  trích   dẫn , cho thấy 1  ví dụ   điển  hình . Đấng  tiên tri  có mặt khi  một người    tự kết liễu  đời  mình   vì  quá đau  đớn do  bị thương  rất nặng   khi  tham gia thánh chiến . Do  vậy   Thượng đế phán”kẻ tôi tớ   của ta đã  qua mặt ta khi tự tay  lấy  đi linh hồn của  hắn ; vì thế hắn   sẽ không được  lên thiên   đàng” Cũng theo  một truyền thuyết  xa xưa khác , Đáng tiên tri  từ chối đọc kinh cầu nguyện  trước  thân  xác  của 1  người bị giết  bởi chính bàn tay của mình .

      2 đặc  điểm  nổi bật   trong   các cuộc tấn công  ngày 11 tháng 9  và  những  hành động tương tự khác :  sự sẳn sàng tự sát  của  các thủ phạm  và tính tàn nhẫn   của những  kẻ   sai phái họ ,   bao gồm  kẻ được giao  nhiệm vụ lẫn   với  vô số các  nạn nhân . Liệu những   đặc điểm  này   có  mặt  nào  được coi là   phù hợp   với  đạo  Hồi ?

      Câu trả lời   rõ ràng là không .

       Sự  giết chóc nhẫn tâm  hàng ngàn người  tại  Trung tâm thương mại thế giới (WTC  ) bao gồm  nhiều người không phải là người Mỹ , trong số đó   có  nhiều  tín đồ đạo Hồi   đến từ các quốc gia Hồi  giáo ,  không hề được  biện minh bởi  luật pháp hoặc  học thuyết Hồi giáo  và    không hề có tiền lệ   trong lịch sử Hồi giáo . Thực vậy , không có mấy  hành  động  mang đầy cái  ác một cach cố ý  và  bừa  bãi như thế   trong lịch sử nhân  lọai . Đó không những chỉ là tội  ác đối với nhân lọai   và  chống lại văn minh ; mà đó cũng là  những  hành động – theo quan điểm Hồi giáo –  có tính  báng  bổ ,  đối với  những kẻ   nhúng tay  vào các tội ác như thế lại cho rằng  việc làm của  mình nhân danh  Thượng đế ,  Đấng  tiên tri  và   lời dạy của người .

      Nhiều  người  Ả -rập và tín đồ Hồi giáo  bị sốc và  kinh   sợ   đối với vụ tấn công  Trung tâm thương mại thế giới khi  thấy  sự tàn  phá  và chết chóc khủng  khiếp   ,  kèm theo sự hổ thẹn  và  giận  dữ khi sựtấn  công này được ra tay nhân danh   họ và nhân  danh  đức tin  của họ .  Đây là  phản  ứng  của  nhiều người- nhưng không  phải  là của  tất  cả.  Có đủ những   tường  thuật  và cả   hình cảnh  cảnh vui mừng  trên các đường phố tại   các  thành phố Ả -rập và   các nước Hồi giáo khác khi nghe   sự việc xảy ra tại New York . Về một mặt  nào đó  , phản  ứng  này có tính  ganh  ghét –  một  tình cảm khá  phổ biến ,  dưới  một hình thức  câm lặng hơn , tại châu Âu . Trong   đám kẻ nghèo  và khốn  khổ ở đây , có người  cảm thấy  hài lòng  – thậm chí có người  còn vui sứơng-  khi  thấy người Mỹ giàu có  và  tự mãn được  cho một  bài học.

      Còn  phản  ứng   của báo chí Ả -rập  đối với  vụ tàn sát   tại New York và Washington  là  1 sự cân bằng khó chịu  giữa chấp nhận  và từ chối , khá  giống với phản ứng  của họ đối với nạn diệt chủng  Do thái tại châu Âu trong thế chiến thứ 2 ( Holocaust) .  Về nạn diệt chủng , có  3  quan điểm không  phải là  ít gặp   trên các  phương tiện  truyền thông tiếng Ả -rập:   sự việc này chưa bao giờ xảy ra ;  bị phóng đại quá đáng ; đáng đời bọn   Do thái .  Về quan điểm   thứ 3 ,  một  số nhà  báo táo gan  còn  trách là Hitler  đã không làm   xong công việc .  Không  ai  công  nhận   rằng   vụ phá họai tòa nhà Trung tâm  thương mại  thế giới  là  chưa  bao giờ xảy ra ,  qua  thời gian  ai cũng  công nhận là  vụ này  vốn do  các  tay chuyên  nghiệp dàn dựng . Ý kiến  hiện nay  của   các nhà  bình luận Hồi giáo , dù    không  phải là tất cả ,  biện giải  rằng  không  có  tìn đồ Hồi giáo  hoặc  người Ả -rập  nào  làm  việc  này . Thay    vào đó ,  họ đưa ra những cách giải thích khác .  Trong  số đó  bao gồm bọn Mỹ theo chủ nghĩa người da trắng là siêu đẳng ,  ý  muốn  nói đến vụ Oklahoma  do Timothy McVeigh ;    những người chống đối  tòan cầu hoá ; người  châu Âu , người Tàu  và   những  người chống   đối  kế họach  lá  chắn  phòng  thủ tên  lửa ; người Nga  tìm cách trả thù  cho sự sụp đổ của Liên xô ; người Nhật  muốn trả thù  vụ Hiroshima cố cựu ; và  nhiều lý  do đại lọai như thế . Một  tay bình luận  thậm chí  còn  cho  rằng vụ tấn công 11/9  là do  Tổng thống Bush dàn dựng , nhằm  đánh lạc hướng vụ việc  ông ta thắng cử bởi”một  thiểu số   nhỏ nhoi không đủ để bầu  1 nhân  viên hội đồng  xã  tại miền Thượng Ai cập”  Bình luận gia  này  cũng gán  Colin Powell  là  kẻ  đồng  phạm  của  2  đời Tổng thống Bush .

      Cho tới nay , lời  giải thích  phổ biến  nhất   ,   với  ít nhiều thay đổi ,  qui kết   tội   ác là  do kẻ thù ưu ái   của họ –  đó là  Israel , là Mossad (  theo  một  số người , có sự tiếp tay của CIA) , là hội Trưởng lão Israel , hoặc  đơn  giản  và đầy  đủ nhất ,  là”bọn Do thái”. Làm  như   thế cho phép họ ngay  lập tức  nâng   cao ý nghĩa   của vụ tấn công   và  đồng thời  cũng  gạt phắt    sự liên quan của   mình .  Động cơ  để đổ thừa cho người Do thái  là  nhằm làm cho  người Ả -rập  và   tín đồ Hồi giáo nói chung  vô can  và  để   chia  rẽ người Do thái và  người Mỹ ,  Một   bình luận  viên người Jordan   đóng góp  1  chủ đề bổ sung  khá  thú vị-  là “các tổ chức  Zion” gây  ra  vụ tấn công này  để Israel lấy cớ phá   huỷ đền thờ Aksa Mosque , trong khi cả thế giới đang tập trung chú  ý  vào nước Mỹ .  Cách  giải thích này  không ngăn được – ngược lại , còn  khuyến khích  –  quan điểm   phổ biến   về sự việc  xảy   ra,   đó   là   tuy  gây  tội ác   , nhưng cũng chỉ   là ác giả ác báo  cho người Mỹ mà thôi . Có lẽ phản  ứng  mãnh liệt  nhất –  và công  khai nhất –  là của  tờ tuần báo  của nhóm Hamas, AlRisala , tại Gaza , trong số ngày 13/9/2001”  Đấng Allah  đã   đáp  lời  cầu  nguyện  của chóng con”.

      Khi  toàn bộ   sự kinh hoàng  của  vụ tấn côn  được   biết rõ hơn , một  số cây bút muốn  kết   tội những  kẻ   chủ mưu   và  bày tỏ lòng trắc ẩn đối với  nạn nhân .  Nhưng  ngay  cả những người này  cũng không chịu bỏ cơ hội để tố cáo  rằng chính người Mỹ đã tự gây  hoạ cho chính mình . Họ đưa ra  1 bảng liệt kê  dài   và chi tiết những tội ác mà người  Mỹ   đã làm  , bắt  đầu  bằng   việc   chinh phục , chiếm đất làm thuộc  địa  và    đưa  dân  đến định cư –  là những   từ gây  xúc động lòng  người –  Tân thế giới   cho đến ngàynay ,  cũng như danh sách  những nạn nhân  đã  chết   vì   sự tham  lam  và tàn  bạo của  người Mỹ tại châu Á, châu Phi , và  châu Mỹ La tinh.

      Usama bin ladin  đã nói rõ  cách mà  ông ta  cảm nhận  cuộc chiến đấu khi luôn  gọi  kẻ thù   của mình là”đám  thập tự binh”.  Nên  nhắc lại rằng , các Thập tự binh  cũng   chẳng  phải là người  Mỹ hoặc  người Do thái;   mà chính là   các tín đồ Cơ đốc  tham  gia thánh chiến  để dành lại  những  nơi  linh   thiêng  đã bị chiếm mất tại các vùng đất  thuộc  đạo  Cơ đốc .  Trong ‘ bức thư gởi cho nước Mỹ”  vào tháng 11/2002  được gán cho   Usama  bin Ladin , có nêu  chi tiết  nhiều  tội  ác  không những   chỉ do chính phủ Mỹ mà  còn do nhân dân Mỹ nhúng tay   vào ,  và  thư này nêu rõ dưới 7  tiêu đề”Những  điều chúng tôi  kêu  gọi  các người   và những  điều  chúng  tôi muốn  tù các người”.  Việc đầu tiên   là  đi  theo Hồi giáo ; việc  thứ 2″các người ngưng  ngay sự áp  bức , dối trá ,  thói vô đạo  đức  và   truỵ lạc “;  việc   thứ 3″ nhìn nhận rằng  nước Mỹ là”một  quốc gia không có  cá tính  hoặc nguyên tắc”;  việc thứ 4 ,  chấm dứt ủng  hộ   Israel tạiPalestine, người Ấn độ tại Kashmir , người Nga  chống lại người Chechen  , và chính quyền Manila  chống lại   người  Hồi giáo tại miền  nam Philippin; điều thứ 5″ thu dọn  đồ đạc và cuốn xéo  khỏi  đất nước của chúng ta . Điều này được coi như  là  lời khuyên có lợi cho người Mỹ” đừng để chúng ta  buộc  phải gởi các ngươi   về nước khi  nằm trong quan tài”; điều thứ 6″ngưng ủng  hộ các  nhà  cầm quyền thối nát  tại đất nước chúng ta .  Đừng  xía   vào  việc chính trị và  phương pháp giáo dục của chúng ta .  Hãy để bọn ta yên ,  nếu  không sẽ còn gặp   chúng ta   tại New York và Washington ; thứ 7 , nên giao tiếp   với  người Hồi giáo trên cơ sở quyền lợi  và lợi  ích  cùng   có lợi , thay  vì  dựa trên các  chính sách  nô  dịch,  cướp bóc  và  chiếm đóng .   Lá thư  chấm  dứt  bằng những  lời  báo cho  người Mỹ biết rằng, nếu  họ không nghe những lời khuyên  trên   , họ sẽ bị đánh bại  như tất cả các  Thập  tự   binh trước  kia , và”số phận  của họ cũng sẽ giống như bọn Liên xô  sau  khi tháo chạy khỏi Afghanistan  , lại phải  đối  đầu với sự thất bại  về quân sự ,  sụp đổ chính trị ,  tụt  nhào về ý  thức hệ   và  phá sản   kinh tế”.

      Bảng cáo trạng   dành cho  Mỹ   trong  lá thư này   rất  cặn kẻ .  Ngoài  bảng liệt kê quen  thuộc nêu rõ  các mối  bất  bình cụ thể , còn có một loạt  những tố cáo chung  và riêng . Những  mối bất  bình này  đều  có  nguồn gốc lắm  vẻ và  dễ truy tìm , phản ánh các  ý  thức hệ kế tiếp  nhau  đã tác động  đến các chính trị   gia  và các chính sách  vùng  Trung  đông qua nhiều thời kỳ khác nhau . Một số ý thức hệ đã có  từ thời  Quốc  xã Nazi , tức là sự suy đồi   và   sự thống  trị   cuối cùng của  người Do thái ; một  số từ thời  chịu  ảnh hưởng Liên xô ,  như sự tham  lam và  bóc  lột của   chủ nghĩa tư bản .  Một  số nhiều là  ý thức hệ gần đây của  châu Âu    và thậm chí có nguồn gốc từ Mỹ , và  cả   phe tả lẫn phe  hữu .  Trong số đ ócó  vấn đề ô nhiễm toàn cầu   và  việc  Mỹ không  ký  vào thoả ước Kyoto ;   sự thối nát về chính trị   qua  việc tài trợ khi tranh cử ;     việc  dành đặc quyền   đặc lợi  cho”giống  da trắng” và  những   ý thức hệ từ   cánh  hữu , là  chủ nghĩa   tân Quốc  xã , là  lời cảnh báo của  Benjamin Franklin    về nguy cơ   Do thái   làm  giảm   ưu thế của  giống  da trắng .   Vai trò  mang  điềm gỡ của  người Do thái   được   nhấn  mạnh   trong  hầu hết những lời cáo buộc trên . 

      Ngay cả những  giá trị được  khoa trương    về lối sống Mỹ    cũng   trở thành tội lỗi và tội ác .  Sự giải phóng  phụ nữ được coi là   hành động   suy đồi  và đem  phụ nữ sử dụng  như  là   “sản  phẩm  hàng hoá”.  Bầu cử tự do   có nghĩa là  người  Mỹ tự do chọn  người lãnh đạo  và  vì thế   họ phải chịu  trách nhiệm  và phải chịu  tội  cho những  hành  động  sai trái của  những người lãnh đạo này – tức là    không còn có “kẻ đứng  ngoài  vô tội”nữa . Tệ   hại hơn  cả là sự   tách  rời  giữa   nhà thờ và nhà  nước :”  Đáng lẽ   đất  nước của các người   phải được cai trị bằng  Shariah của  đấng Allah   được  ghi trong  hiến  pháp   và  trong luật ,   thì  các người lại soạn ra  luật  theo ý  của mình .   các  người tách  tôn giáo ra khỏi chính trị ,  đi ngược lại bản chất  thanh  khiết  khẳng định  rằng  Quyền  Tối thượng    là của  Thượng đế và Đấng tạo hoá”.   Nói   tóm  lại ,” các người đang  sống  trong 1  nền   văn minh  tệ hại nhất trong    lịch sử nhân  loại” Lời  phán xét này    còn đáng chú ý   hơn nữa khi  nó  xuất  hiện vào   lúc các chế độ độc tài  Quốc  xã và Liên xô   vẫn   còn   hiễn  hiện trong  ký ức – đó là chưa nói  tới  các chế độ chuyên chế xa  xưa   được  ghi  trong sử   mà bin Ladin  và đồng  bọn  thường  viện dẫn.

       Lý do cơ  bản   là  hiện nay  nước Mỹ được   coi như  là  nước  cầm đầu   phương Tây  ,   của thế giới Cơ  đốc , hoặc  nói chung   là”   thế giới của   những  kẻ không  có đạo”.  Theo nghĩa  này , Tổng  thống Mỹ được coi   như là người  nối nghiệp   của    một chuỗi dài các nhà cầm quyền – tính từ   các hoàng đế Byzantine  tại Constantinople  , các hoàng đế LaMã  Thần thánh  tại Vienna,  Nữ hoàng Victoria  và các đấng quân vương  tại Châu Âu .  Ngày  nay cũng  như   trong   quá khứ ,  thế giới của những  kẻ Cơ đốc  không có đạo  được coi  như  là lực lượng duy nhất  đáng   gờm   đã  cạnh tranh và  ngăn cản  sự bành trướng  được  thần thánh   cho phép  của người Hồi giáo , lực lượng này chỉ kháng cự và  làm chậm  nhưng  không  ngăn cản  được  sự chiến thắng  cuối cùng , không thể   khác được  ,   và toàn diện   của  đạo Hồi .

      Không có gì  để nghi ngờ là   sự hình thành  tổ chức Al- Qa’ida  và  những  lời  tuyên  chiến  liên  tục  của Usama  bin Ladin   đã  đánh  dấu   khởi điểm  của   1  giai đoạn   mới  đầy tai   hoạ   trong lịch sử    đạo  Hồi  và   chủ nghĩa  khủng  bố .   Lý do  cho  các  hành động của bin Ladin , do chính   ông  ta   giải thích  rất  rõ  , là  sự hiện diện  của  Mỹ tại Arabia  trong  cuộc chiến vùng  Vịnh –   là  1  sự   xúc phạm  đến  Thánh địa Hồi giáo-  và  việc nước Mỹ sử dụng   Saudi Arabia  làm căn cứ để   tấn công Iraq.  Nếu Arabia là  địa  điểm  có tính tượng trưng  nhất  trong thế giới  Hồi giáo , thì Baghdad  chiếm vị trí  thứ 2 , vì  là  kinh đô  của Caliph   trong vòng  nửa  thiên  niên  kỷ và  là bối cảnh  của  những trang  hào hùng  nhất  trong  lịch sử Hồi giáo . 

      Có 1 yếu tố khác  có lẽ   còn  quan trọng  hơn  đã thúc đẩy bin ladin  hành động .  Trong quá khứ , người đạo Hồi   chiến  đấu chống  lại phương Tây  bao giờ cũng nhờ   những kẻ thù  của phương Tây  sự uỷ lạo ,   sự khuyến khích   và  những giúp đỡ về quân sự và  vật chất.  Giờ đây ,  lần đầu tiên  trong nhiều thế kỷ ,   không  còn  có loại  kẻ thù  hữu dụng  như thế nữa .  Bin Ladin và  đồng  bọn   nhận  ra  ngay  rằng , trong  khung  cảnh dàn  xếp   quyền  lực thế giới  mới  , nếu họ muốn đánh nhau với Mỹ , họ phải  làm việc  này  một  mình .  Vào năm 1991, cùng  năm  này đế quốc  Liên xô không còn  tồn tại , bin Ladin  và đồng bọn   khai sinh Al – Qa’ida ,    thu nạp nhiều   cựu binh  tham  chiến tại Afghanistan .   Nhiệm  vụ của  họ dường như  có thể  làm cho người khác  sợ hãi , nhưng với  họ thì  không hề như thế. Theo  cách nhìn  của  họ ,  họ đã đuổi  được  người Nga  ra khỏi Afghanistan ,  từ sự thất  bại to lớn này  đã  dẫn tới  sự sụp đổ   của Liên  bang Xô viết .  Sau  khi  đã  đánh bại được  1  siêu cường   mà họ luôn  coi là  đáng  sợ ,  họ cảm thấy sẳn  sàng để chọi với 1 siêu cường  khác ; siêu cường  này là  nước Mỹ , theo  bin  Ladin  nhiều lần  phát biểu , chỉ là  con  hổ giấy .

      Các  tay khủng bố Hồi giáo cũng đã từng bị thúc đẩy  bởi  những  niềm tin  như thế trước đây . Một  trong  những phát  hiện gây  ngạc  nhiên nhiều nhất trong  hồi ký của  những kẻ   chiếm  giữ sứ quán Mỹ tại Tehran  từ 1979 đến 1981  là lúc đầu họ chỉ   có ý định muốn  chiếm  toà  nhà và giữ các con tin  chừng  vài ngày .   Sau đó họ thay đổi ý định  khi thấy rõ khi những  phát  biểu  của Washington  cho biết sẽ không  có hành động    đáng  gờm  nào chống lại họ .Cuối cùng họ   thả con tin ,   họ giải thích  chỉ vì   sợ rằng    Ronald Reagan,  tổng thống  đắc cử    sẽ tiếp cận  vấn đề”giống như chàng  cao-bồi”. Còn bin Ladin  và đồng  bọn  rõ  ràng là không hề có  sự   quan tâm  như  thế ,  và sự thù  ghét của họ cũng  không    bớt  đi vì  sợ hãi hoặc  giảm   đi vì   kính nễ. Theo  cách cũ ,  họ cứ liên tục nhắc   là người Mỹ đã từng   cuốn  vó ra khỏi  Việt nam , Liban  và- điều  quan trọng nhất  dưới mắt  họ – là rút  lui ra  khỏi Somalia . Người ta  phát hiện nhiều điều  qua những  nhận xét của  bin Ladin  trong 1  cuộc phỏng vấu  do John Miller  , đài ABC News , vào ngày 28 /5/1998 :

      Chúng ta   đã  từng  thấy  trong thập  niên vừa qua  sự suy  yếu của  chính quyền  mỹ và sự yếu đuối của   lính Mỹ ,  kẻ    sẳn  sàng gây chiến tranh lạnh  nhưng không hề chuẩn bị    cho những  chiến  tranh  lâu dài .  Điều này được chứng minh tại Beirut , chỉ với 2 vụ nổ lính thuỷ đánh bộ Mỹ    đã tháo chạy   , cho thấy   rằng họ có thể cuốn xéo   trong vòng  24 giờ , và  điều này  cũng  đã lập  lại  tại Somalia …  Thanh niên   chúng tôi  ngạc  nhiên  khi thấy tinh  thần   của  lính Mỹ thấp  đến thế …  Chỉ sau  vài cú   đánh đấm ,   là họ bỏ chạy vì thua ….Họ quên mất   mình là người lãnh đạo thế giới  và  lãnh đạo trật   tự thế giới  mới . Họ   rút lui , kéo   theo  các  xác chết   binh sĩ  và   sự thất   bại  đầy nhục  nhã  .

       Đối với Usama bin Ladin  ,   lời tuyên chiến  chống  lại nước  Mỹ   đánh  dấu  sự   phục hồi cuộc tranh đấu  để   giành sự thống  trị tôn giáo  trên thế giới    mở màn  thế kỷ thứ 7 . Đối với  ông này  và   đồng bọn , đây là thời điểm   thuận lợi .  Ngày nay , nước Mỹ là  đại diện   cho  1 nền  văn minh   và  thể hiện  vai trò lãnh đạo  của  Nhà  của Chiến  tranh ,  và  giống như Rome  và Byzantine ,  nước Mỹ đã  thoái hoá ,  suy đồi  đạo đức ,   sẵn   sàng  bị lật  đổ. Tuy  nước Mỹ yếu , nhưng   vẫn còn nguy hiểm .  Khomeini   đã  nói  rõ như thế khi gọi    nước Mỹ là  tên “Satan đầu  sỏ” , còn  đối với  các  phần  tử nhóm Al –Qa’ida  , sự lôi cuốn   của  nước Mỹ với   lối sống  phóng  đãng , đồi bại   sẽ là   mối   đe  dọa  lớn nhất  đối  với lối sống Hồi giáo  mà   họ muốn  áp đặt   cho  các giáo hữu  đạo  Hồi .

      Nhưng   với  nhiều người   khác nước Mỹ lại  cống hiến   một  kiểu  quyến rũ  khác – đó  là sự hứa  hẹn về nhân  quyền ,  về các định chế tự do   và 1 chính  phủ có trách nhiệm ,  đại diện  cho  dân . Càng ngày  càng có nhiều cá nhân , thậm chí  một  số phong   trào  , đứng ra   cố du nhập  những  định chế như thế   vô   nước   mình .  Điều này không  hề dễ dàng.  Như  đã   thấy  ,  nhiều thử nghiệm  tương tự đã trở thành  các chế độ thối  nát  hiện nay .  Trong  số 57 thành viên   của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo , chỉ có  1  nước duy nhất , là Cọng hòa  Thổ nhĩ  kỳ ,  xây dựng  được các định chế dân chủ   trong một thời gian dài , mặc  dù  gặp phải  nhiều  vấn đề  khó khăn ,  nhưng   cũng đã  đạt  được nhiều tiến bộ trong việc xây dựng  1 nền kinh tế tự do và  1  xã hội  và  1   trật tự chính  trị   tự do .

      Tại 2  nước Iran  và  Iraq ,  chính  phủ hiện nay chống Mỹ rất mạnh ,  hiện đang có những  lực lượng dân chủ đối lập   có khả năng   lập   được chính  phủ .Còn chúng ta , đại  diện cho thế giới tự do , đáng  lẽ có  thể làm  nhiều việc  để giúp họ ,  nhưng lại làm  qúa  ít. Tại nhiều  nước trong khu vực ,  có nhiều người chia  sẻ các giá trị của chúng ta , có cảm tình  với chúng ta ,  và  cũng muốn  có  cùng lối sống như chúng ta . Họ hiểu rõ tự do và  muốn  xứ sở của họ được tư do . Quả là  khó  khăn nhiều   cho  chúng ta khi muốn giúp đỡ   họ , nhưng ít nhất  chúng ta không nên   cản trở họ .  Nếu họ thành công ,  chúng ta sẽ có thêm bạn  và  đồng minh   theo  đúng nghĩa  của từ này , không phải  chỉ về mặt ngọai giao .

      Trong  khi đó , còn có   1 vấn đề cấp bách hơn . Nếu  những người  cầm đầu Al-Qa’ida  có  thể thuyết phục thế giới Hồi giáo  chấp nhận quan điểm và  sự lãnh đạo của  họ,   thế thì trước mắt là 1 cuộc chiến  đấu  lâu dài  và đầy  gian khổ , không những   chỉ dành cho nước Mỹ.  Châu Âu , nhất là Tây  Âu  hiện nay,  là nơi cư  trú  của  1  cọng đồng Hồi giáo  đông đúc  và ngày càng  lớn mạnh ,  và  nhiều người  châu Âu   bắt  đầu  xem  sự có mặt của  cọng đồng  này  là 1  vấn đề , thậm chí là  sự đe  dọa. Chẳng   chóng  thì chầy , Al- Qa’ida  và đồng  bọn   sẽ đụng độ với  các nước láng giềng  của thế giới Hồi giáo- đó là nước Nga, Trung quốc, Ấn độ –  là những nước   có  thể sẽ chẳng  nhẹ tay như nước Mỹ khi sử dụng  vũ lực  để chống lại  tín đồ Hồi giáo  và  những    điều ràng  buộc   thiêng liêng  của họ .  Nếu  nhóm  chủ trương chính thống  tính tóan đúng  và thành công  trong cuộc chiến ,   thì  quả là  1 tương lai đen tối   sẽ dành cho thế giới , nhất là  phần  thế giới đang  theo Hồi giáo. 

Lời bạt 

      Sự can  thiệp quân sự của Mỹ tại Afganistan   và sau đó tại Iraq  nhằm 2  mục tiêu  công khai :   mục tiêu  thứ nhất  và   sát trước  mắt hơn  , là  nhằm   ngăn chận và đánh bại khủng  bố ;  mục tiêu thứ 2 là mang lại tự do , đôi   khi được  gọi là  nền dân chủ ,  cho  nhân dân  các nước này  và  một   số nước trong vùng .

      Những kẻ bảo trợ và   tổ chức  chính sách  khủng  bố   gồm có  2 nhóm  nhằm  vào các  mục đích   rất khác  nhau , mặc  dù   họ có khả năng   cọng tác  và  đã  từng  làm như vậy tường  xuyên   . Một  nhóm  có tính địa  phương  gồm  những  tàn dư của chế độ Iraq  trước kia ,  nhóm  này được    chính quyền  của  một  số nước   trong  vùng  khuyến  khích  và   đỡ đầu   vì  họ cảm thấy  nguy  hiểm  bởi  những  gì đang  xảy ra  tại  Iraq. Mục  đích  của  những nhóm  này là    bảo vệ –    hoặc trong trường hợp Iraq  , là phục  hồi – các chế độ chuyên  chế   thâm  căn cố đế   tại các  nước  này .  Nếu người Mỹ quyết định từ bỏ chiến dịch  quá tốn  kém và    nhiều phiền  phức  này  rồi rút  về nước ,  như nhiều người  cố xui    ,  thì điều này cũng  đủ làm  hài lòng   các  nước   trong vùng  bảo trợ cho   khủng  bố .  Một số nước  còn  đề xuất  là sẽ khôi phục những  mối  quan hệ hữu nghị .

       Còn nhóm  khủng  bố kia  coi việc  hất  cẳng Mỹ ra  khỏi Afghanistan  và Iraq   chỉ là    1  bứơc khởi đầu – tức là   chỉ mới thắng có 1 trận đánh chứ chưa  thắng 1 cuộc chiến ,   chỉ là  1  bứơc  trong    1 cuộc chiến   tranh  dài  và   lớn  hơn  cho  đến  khi nào  dành được   thắng lời  hòan  tòan  trên  phạm vi tòan cầu .

      Người Mỹ cũng  vậy ,   tuyên bố sự can thiệp của  họ là  nhằm  1  mục đích  dài   và   rộng  lớn hơn;  không   những  chỉ đánh  bại   và chấm dứt được   chính sách khủng  bố , mà  còn để giúp cho  nhân dân  các  nước  Afghanistan và Iraq vốn bị áp   bức   từ lâu , và  cuối cùng là  nhân dân  các   nước khác, cơ  hội   đọan tuyệt với  các chế độ thối nát   và  áp  chế    đã   đè  nén  họ    hàng chục năm dài  và  để phục hồi hoặc   hình thành 1 trật tự   chính trị vì  dân   và được  nhân dân  kính trọng .  Điều này  được  nhiều người   trong vùng  ủng   hộ mạnh  mẻ . Nhưng  , do  những gì  đã xảy ra trong qúa khứ và  thực trạng hiện   tại ,  sự   ủng  hộ này còn khá  dè  dặt .

      Điều chắc chắn là , việc  hình thành 1  nền dân chủ tại Trung đông  sẽ không  dễ dàng  hoặc   nhanh  được,   như   đã từng  xảy ra tại châu Âu  hoặc tại châu Mỹ .  Tại   Trung đông ,   sự hình thành này phải trải qua  nhiều giai đọan .  Quá  nhanh  hoặc  quá  xa  chỉ tạo nên   những lợi thế trước mắt   cho những   kẻ   có lắm thủ đọan  và  dọa  nạt . Algeria  là 1 ví dụ cho thấy   có khi lại dẫn đến   sự xung đột  dữ dội  giữa  2  nhóm .

      Hình thái độc tài    tồn  tại hiện nay tại Trung đông   trên  nhiều  mặt   đó là  kết  qủa  của   sự   cải cách  ,  rập   khuôn   và  chịu  ảnh hưởng của châu Âu . Hình thái này chỉ dẫn  tới  một   mô hình  chính trị châu Âu duy nhất   có tác dụng tại  Trung đông – đó  là  nhà   nước  chỉ có 1  đảng   chính trị ,   hoặc theo  kiểu quốc  xã   hoặc kiểu  Cọng  sản , nhưng   thực ra  chẳng   khác nhau  mấy . Trong các hệ thống này , đảng  chính trị không  hề giống như   tại châu Âu , là   tổ chức  để thu hút  phiếu  bầu  và thắng cử , mà    là 1 phần của   bộ   máy  nhà nước chuyên  lo   việc nhồi sọ và  cưởng chế .   Đảng Ba’th  có 2  nguồn gốc , vừa  phát-xit   vừa Cọng  sản , và  hiện nay vẫn còn  đại diện đắc lực  cho cả 2  xu hướng   này .

      Nhưng   ngoài   những khuynh  hứơng này ra , còn có  các truyền thống   xưa hơn , được thể hiện khá rõ  trong  ngôn  ngữ chínhtrị   và kinh nghiệm chính  trị tại Trung đông : đó là truyền  thống  chính  phủ cai trị bằng luật pháp ,  bằng sự đồng thuận  ,   kể cả bằng giao   ứơc .

      Những thay đổi  về mặt tinh thần của   những truyền thống này   sẽ tạo cơ hội   cho các  hình thái  Hồi giáo khác  ngoài  sự cuồng tín điên rồ và  bất dung  của  đám khủng  bố.  Dù rằng  hiện nay nhóm khủng  bố được nhiều  người đồng tình và  cung cấp  tiền  bạc  dồi dào , nhưng  hình thái này  không   hề đại  diện  cho  dòng Hồi giáo  chính   thống từ nhiều thế kỷ . Các  truyền thống ra lệnh  và  tuân thủ   qủa thực  đã   bám  rễ lâu đời ,  nhưng cũng  có   những  yếu tố  khác trong   truyền   thống Hồi giáo  góp phần  xây dựng 1  hình thức cai trị cởi mở và tự do hơn : đó là việc các  nhà luật học truyền thống   từ bỏ nguyên tắc chuyên chế và độc đóan và thay   vào đó  bằng   các giao  ứơc  khi xây dựng   và lấy  ý kiến  đồng thuận  về     đạo  đức cầm quyền ,  tính bó  buộc tuân thủ luật pháp của tất   cả mọi người  ,  từ    bậc vua chúa lắm quyền  đến  những   kẻ hèn  mọn nhất .    Một  yếu tố nữa  đó là sự chấp nhận ,   đúng ra   là cần có  sự khoan dung , được thể  hiện  qua  những lời  dạy  trong kinh Qur’an :” trong  tôn giáo không   được  ép  buộc” và   truyền thống  xa   xưa”sống  hòa  hợp trong cọng đồng là nhờ ơn  Chúa “. Điều này  còn  được phái  Sufi  đưa   đi  xa  hơn nữa   chủ trươgn  cần có đối thọai  giữa  các  tín niệm    để   cùng tìm  ra  phương  cách  thỏa mãn  được   các khát  vọng   chung .

       Cố gắng  mang  lại tự do cho  vùng Trung đông  khơi  lên  2  nỗi lo sợ :  một   tại  nước Mỹ ,  và   nhiều  hơn nữa  tại châu Âu, đó là   cố gắng này sẽ thất bại ; nỗi sợ kia ,  từ các  nhà  lãnh đạo   hiện nay   trong vùng , là   cố gắng  này sẽ thành công . Điều chắc chắn là  ,  các chính sách  về tự do  hóa chính  trị tại  Afghanistan  và   Iraq  tạo nên  mối  đe dọa  chí tử   cho  các chế độ   chỉ có thể tồn  tại bằng  cách  duy trì bộ máy  chuyên chế trong nước  và  sự khủng  bố ở nước ngoài .  Kẻ thù  của tự do  rất nguy hiểm , không chút nương tay , không hề có chút trắc ẩn  hoặc  hối hận , ngay cả đối với người   dân trong nước .   Chúng sẳn  sàng đem không những   chỉ   bản thân   và gia đình , mà cả quốc  gia  để hy  sinh  đánh bom liều chết  nhằm   với mục đích  là  làm  thất bại  và   đuổi cổ kẻ thù vô đạo   và  xây dựng uy  quyền của mình .

       Việc  hình thành   1  xã hội tự do , không phải là  việc dễ dàng như  lịch sử   của  các  nền  dân  chủ hiện có trên thế giới đã  minh chứng .  Kinh nghiệm của cọng hòa Thổ nhĩ kỳ trong  nửa thế kỷ vừa qua và của  một  số quốc gia Hồi giáo khác  gần đây  hơn   đã cho thấy  2  điều :    một là ,  qủa là rất  khó mà  hình thành 1   nền dân chủ trong 1  xã hội như thế và   hai là , mặc  dù khó  nhưng không  phải  là không thể được . Qua nghiên cứu lịch sử Hồi  giáo    cùng   các truyền thống chính trị Hồi giáo to lớn và phong  phú , người  ta  tin rằng  có  thể xây dựng  được   các định  chế dân chủ – không nhất thiết  phải theo  cách định nghĩa  của phương Tây về thuật ngữ đã  sử dụng  sai  quá nhiều   này ,  mà căn cứ vào  lịch  sử và  văn hóa  của chính họ   , để   họ tự xây  dựng 1 nền cai trị    theo luật ,  có   thảo luận và cởi mở , trong 1  xã hội  văn  minh  và  nhân văn .  Điều này một mặtphù hợp với  văn hóa Hồi giáo truyền thống  và  mặt khác  cũng   hợp với  kinh  nghiệm hiện đại   của nhân dân Hồi giáo   nhằm  tạo ra  1  cơ sở để   thẳng tiến   trên  con đường  đi tới tự do   theo  đúng nghĩa  của từ này.

      Các lực lượng  chuyên chế và khủng bố   vẫn còn  rất mạnh   và  ta cũng  chưa  biết  sẽ dẫn đến  hậu qủa  như thế nào . Nhưng   do cuộc  đấu tranh vẫn còn  hòanh  hành  ngày càng  mạnh ,  một  số sự việc trước đây  còn mù mờ nay đã  rõ  dần .  Cuộc chiến chống lại  khủng  bố không   thể   tách rời đòi  hỏi   phải có  tự   do  , và không thể   thành công  nếu  thiếu  1 trong 2 điều kiện .  Cuộc  chiến đấu này không chỉ còn  khu trú  tại 1  hoặc 2  quốc gia ,  như  một số người châu Âu  vẫn   nghĩ ,  nhưng  đã mở rộng  sang  tòan cả vùng  trung đông và  sau đó tòan thế giới , mà   tất cả chúng ta đều   phải gánh chịu  nhiều hậu qủa  sâu  sắc .

      Nếu  tự do thất bại ,  khủng  bố chiến  thắng , các dân  tộc  Hồi giáo   sẽ là những  người  gánh  chịu   hậu qủa trước tiên và nặng  nề nhất . Không phải chỉ có mình họ,  mà  nhiều   người khác cũng  phải  lãnh đủ như  họ .

      01/Tháng 12/ 2003 Princeton

       N.J.  Bernard Lewis  

        Võ Văn Lượng dịch

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s