Huy động tối đa sinh lực để thực hiện kỳ được Đề Cương cách mạng miền Nam
Nguyễn Ngọ
Kỳ Lân K
Vẫn tiếp tục tìm hiểu 2 hai câu mở đầu bài hát Giải phóng miền Nam
– Câu 1. Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước.
– Câu 2. Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước
Dốc toàn lực cho Đề Cương cách mạng miền Nam
Ngày 24/04/2020 – nhân 45 năm thống nhất đất nước – báo Tin Tức của Thông Tấn Xã Việt Nam có bài khẳng định: Miền Bắc đã Dốc toàn lực cho tiền tuyến.
– Về kinh tế, miền Bắc tin rằng tiến lên CHXH sẽ đem lại “dân giàu, nước mạnh” và sẽ dư sức đáp ứng mọi nhu cầu vật chất cho chiến trường – là miền Nam. Nhưng bên ta đã thất bại về kinh tế do hợp tác hóa và tập thể hóa trong nông nghiệp, đồng thời cũng thất bại khi đầu tư quá tốn kém cho công nghiệp nặng, trong khi rất thiếu hàng tiêu dùng. Do vậy, nguồn lực vật chất đáp ứng cho chiến trường miền Nam phải trông cậy tới 80% từ phe xã hội chủ nghĩa. Những thứ như vũ khí hiện đại, xăng dầu… thì 100% từ viện trợ.
Bài trước (8a) cho thấy: Nếu không có viện trợ, bên ta không thể “quyết tiến (dẫu chỉ nửa) bước để giải phóng miền Nam”. Hơn nữa, nếu Liên Xô vẫn chủ trương thi đua hòa bình giữa hai phe (như trước năm 1964) thì bản Đề Cương cách mạng miền Nam của cụ Lê Duẩn đành niêm phong lại, cất vào tủ.
Thời điểm 1960 chưa thể dự đoán kết quả cuộc đua kinh tế giữa Nam-Bắc Triều Tiên và Đông-Tây nước Đức. Nhưng đến nay, bài học lịch sử sau 50 năm là: Một chế độ chủ trương tước đoạt tư hữu chớ dại dột mà thi đua hòa bình với một chế độ tôn trọng tư hữu – dù thi đua trong một nước hay trên toàn cầu. May, cụ Lê Duẩn đã đủ sáng suốt để không rơi vào cái bẫy này. Hơn nữa cụ còn trừng trị rất tàn khốc những người chủ trương thi đua hòa bình giữa hai chế độ, kết thúc bằng vụ án “xét lại, chống đảng”.
– Về sinh lực, miền Bắc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, mà không thể vay mượn từ đâu khác, để thực hiện cho kỳ được Đề Cương của cụ Lê Duẩn. Đây là cuộc chiến đấu ở cách hậu phương hàng ngàn kilomet, kéo dài hàng chục năm, nên sinh lực bị huy động sẽ rất lớn. Và càng lớn, khi bên ta thua kém về kinh tế và về vũ khí, lại ở vị thế buộc phải tiến công, còn bên nó ở vị thế cố thủ, chiến đấu tại chỗ, với vũ khí hiện đại hơn. Rất dễ dự đoán bên ta sẽ thiệt hại sinh mạng nhiều hơn bên nó.
Đúng vậy, khi cuộc chiến kết thúc (1975) bên ta hy sinh anh dũng hàng triệu chiến sĩ (theo số liệu của ta), mà bọn “đế quốc Mỹ” chỉ chết chưa tới 60 ngàn đứa (chỉ bằng 6% thiệt hại của ta), còn bè lũ “ngụy” chỉ chết 250 ngàn tên (bằng 25% thiệt hại nhân mạng của ta).
Nếu tính theo quốc tịch thì bọn ngọai quốc xâm lược chỉ chết (tối đa) 100 ngàn tên, còn đồng bào người Việt ta chết do nội chiến (tối thiểu) đã là 1,2 triệu – cộng với số thường dân chết còn nhiều hơn số này – khoảng 2-3 triệu.
I . ĐIỂM XUẤT PHÁT
- Về lập luận
– Đề Cương cách mạng miền Nam – dù tên gì – vẫn chỉ là lập luận để thực hiện một cuộc chiến tranh, được Lenin gọi là “nội chiến cách mạng” vào năm 1914 – khi cụ chủ trương “biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng”. Cụ Lê Duẩn áp dụng rất phù hợp khái niệm này khi nước ta bị chia thành hai bên, mỗi bên theo chế độ chính trị đối lập nhau, kết quả phải là sinh/tử.
Nói dễ hiểu: Nội chiến cách mạng chẳng qua là cuộc nội chiến “một mất, một còn” do khác ý thức hệ. Do vậy, nó chỉ xuất hiện sau năm 1917. Và rất tàn khốc, vì mỗi bên coi chủ thuyết của mình như một tôn giáo.
Trên thực tế, các cuộc nội chiến Nga, nội chiến Trung Quốc đều như có tính chất như trên. Khi thế giới chia thành 2 phe đối đầu nhau (1945), nội chiến cách mạng có thêm sự can thiệp rất sâu của cả hai phe. Nội chiến cách mạng ở Việt Nam thuộc loại này.
- Về kiến tạo lòng tin
– Cụ Lê Duẩn coi miền Bắc là hậu phương, như vậy bên ta là bên phát động cuộc nội chiến. Chiến trường tất nhiên phải là miền Nam. Muốn chiến thắng ở một chiến trường cách xa hàng ngàn km, tất nhiên miền Bắc phải có thực lực mạnh áp đảo – cả về vật lực và sinh lực – để có nguồn nuôi cuộc chiến. Bài trước (8a) bàn về sự huy động các nguồn lực vật chất. Bài này nói về sự huy động sinh lực cho chiến trường.
Cụ Lê Duẩn và giới lãnh đạo tuyệt đối tin tưởng – và cũng rất thật thà tuyên truyền để dân miền Bắc cũng tin tưởng – rằng: Chỉ có “đi lên CNXH”, miền Bắc mới phát huy được 2 tác dụng: a) nâng cao đời sống nhân dân, khiến đồng bào miền Nam phải thèm khát mà ngưỡng vọng; và b) miền Bắc sẽ dư sức chi viện sức của, sức người cho chiến trường, đảm bảo giành chiến thắng.
Sự tuyên truyền đã thành công vượt yêu cầu. Đó là tạo được niềm tin sắt đá khiến người dân miền Bắc – dù hàng chục năm sống dưới chế độ tem phiếu – vẫn chịu đựng gian khổ, đồng thời sẵn sàng đưa hàng triệu con em vào tận miền Nam chiến đấu, hy sinh.
| Chuyện vui thời tem-phiếu
Bên ta sản xuất không đủ vải, trông vào viện trợ từ Liên Xô, Trung Quốc, nhưng ở quê mỗi người chỉ được phát phiếu để mua 4 mét vải mỗi năm. Đã vậy, quần áo rất mau rách vì lao động nặng nhọc trong thời chiến, nên quần áo vá là rất phổ biến. Trong một buổi lễ Giao Quân ở một hợp tác xã nông nghiệp, khẩu hiệu trưng lên “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” rất trang nghiêm. Có mặt các đại biểu và đông đảo bà con tới dự. Dịp này, các cô gái cũng có mặt để tiễn đưa các chàng trai của mình lên đường chiến đấu. Họ mặc những bộ quần áo đẹp nhất mà họ cất giữ, chỉ sử dụng trong những dịp trang trọng nhất, như dịp này. Bỗng có lệnh: Hãy cởi bỏ những gì không do Việt Nam sản xuất. Lập tức, các cô gái gần như… lõa lồ; các chàng trai gần như… tồng ngồng. |
Có thể nói, niềm tin là sức mạnh tinh thần rất quyết định để bên ta giành chiến thắng. Nhưng hậu quả khác nhau giữa trước mắt và lâu dài. a) Trước mắt, dân tin rằng bên ta có chính nghĩa; do vậy sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, mà vẫn tràn trề hy vọng vào chiến thắng để miền Nam cũng được chung hưởng chủ nghĩa xã hội tươi đẹp. Còn: b) Đảng vẫn vững tin rằng “tư hữu là bóc lột” nên rất lâu mới nhận ra sai lầm và sửa chữa rất muộn và không triệt để – bằng chính sách“khoán 10” (năm 1988). Đến nay, đảng có bước chuyển biến mới và từ 2025 bắt đầu thúc giục đảng viên làm giàu. Có thể nói, niềm tin “tư hữu là bóc lột” đã bị lung lay sau (1930 – 2025=) 95 năm.
II . HUY ĐỘNG SINH LỰC CHO CUỘC CHIẾN
- Việc đầu tiên: Ban hành luật Nghĩa vụ quân sự
– Thời kháng chiến chống Pháp, người dân tình nguyện tham gia lực lượng vũ trang, cho tới năm 1960: Đó là năm bên ta quyết định đấu tranh vũ trang. Luật Nghĩa vụ quân sự ra đời, nhưng vẫn chưa thể hiện ý định phát động cuộc nội chiến cách mạng. Tuổi nghĩa vụ là 18 đến 45, trong đó tuổi tuyển quân là 18-27 (thời bình). Điều 10 quy định thời hạn tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ trong lục quân chỉ có 2 năm – sau đó được trả về sản xuất. Thời hạn phục vụ trong không quân cũng chỉ 3 năm, hải quân là 4 năm. Đội quân thường trực chỉ chiếm dưới 1% dân số (khoảng 16 triệu), do vậy rất nhiều thanh niên trong lứa tuổi tuyển quân chưa cần vào quân đội.
– Năm 1965, Luật được sửa đổi để có thể huy động tối đa sinh lực cho cuộc chiến ngày càng ác liệt. Thời gian tại ngũ tăng lên (ví dụ, ở lục quân tăng gấp đôi) và tuổi tuyển quân được mở rộng, để quân số có thể tăng lên 5 lần, mặc dù sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới sản xuất, thậm chí gây xáo trộn xã hội.
- Các tư liệu nói lên tình hình cụ thể
Tư liệu không thiếu, mà quá đủ, quá nhiều. Toàn là những tư liệu khả tín, vì hầu hết là nêu thành tích mọi mặt sau khi chiến thắng – lại còn được bổ sung trong những dịp kỷ niệm “10 năm”, “20 năm”… và “50 năm” ngày giành được miền Nam. Những gì buộc phải che dấu trong 20 năm chiến tranh, nay được công khai như thành tích, công trạng. Ví dụ, “Mặt trận” và “Chính phủ” ở miền Nam (chống Mỹ – Ngụy) chỉ là sản phẩm của bên ta tạo ra, để nói lên đường lối của ta rất sáng suốt.
Xin lấy ra một số (không sắp xếp) trong rất nhiều tư liệu:
– Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
– Tưởng nhớ những người con ưu tú, trân quý giá trị hòa bình
– Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam
– Hậu phương miền Bắc với tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn
– 65 năm đường Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh huyền thoại
– Những tuyến đường vận tải chiến lược chi viện cho cách mạng miền Nam
– Miền bắc, hậu phương lớn của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
– Hậu phương chi viện sức người sức của cho tiền tuyến
– Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh huyền thoại
– 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc
– Trung đội lão dân quân Hoằng Trường
– Người cao tuổi góp sức đánh Mỹ, cứu nước
– Trung đội nữ dân quân Hoa Lộc
– Lớp sinh viên ‘xếp bút nghiên lên đường chiến đấu’
– Nguyễn Bá Ngọc 14 tuổi hy sinh vì cứu 3 em nhỏ…
– …
III. PHÂN LOẠI
Xin chia sự huy động nhân lực thành 3 loại:
a) Sự huy động và biến đổi nhân lực tại miền Bắc;
b) Nhân lực để mở con đường vận chuyển vào chiến trường; và
c) Sinh lực trực triếp chiến đấu (chủ yếu tại miền Nam).
- Sự huy động và biến đổi nhân lực ở miền Bắc
Dân số miền Bắc năm 1960 là trên 16 triệu. Những năm đầu, sự thi hành nghĩa vụ quân sự chưa ảnh hưởng tới sản xuất và mọi mặt khác – cho tới năm 1965 – là năm Mỹ đưa quân vào miền Nam – để cứu nguy cho chính quyền miền Nam khỏi sụp đổ. Việc tuyển quân ở miền Bắc được mở rộng, nhất là trong những dịp bầu tổng thống ở Mỹ. Ví dụ, năm 1972 phải tuyển cả sinh viên (lẽ ra được hoãn cho tới khi học xong) số lượng tới 10 ngàn. Đợt tổng tiến công năm 1975 phải tuyển cả những người “quá tuổi” mà vẫn thiếu. Do vậy, tỷ lệ phụ nữ trong dân số từ dưới 51% đã vượt trên 51%. Những năm sau tỷ lệ phụ nữ trong xã hội miền Bắc tăng lên rõ rệt, vì nam giới vắng mặt do bị huy động vào mặt trận ở miền Nam. Điều này ở lứa tuổi lao động thể hiện rất rõ, và nhất là ở lứa tuổi thanh niên lại càng rõ. Các chi đoàn thanh niên ở nông thôn, nữ giới chiếm 70 và 80%; có thể lên tới 90% ở các xã thuộc Nghệ Tĩnh, Quảng Bình. Tất cả các công việc trước đây do nam giới đảm nhiệm, nay dồn lên vai nữ giới. Tình trạng nữ giới khó lấy chồng bắt đầu xuất hiện.
Lực lượng chiến đấu vũ trang đạt tới trên 3 triệu lượt người, hy sinh khoảng 1 triệu. Đây là sự vắng mặt của nguồn nhân lực sung sức nhất; do đó đòi hỏi xã hội phải sắp xếp lại để thay thế và cố gắng để xáo trộn ở mức tối thiểu.
Một biện pháp rất quan trọng là đưa ra các phong trào thi đua cho mọi lứa tuổi, mọi thành phần xã hội. Báo chí mở hết công suất. Vô số danh hiệu vinh dự được đưa ra, vô kể những tấm gương cá nhân, tập thể được liên tục đề cao trên mọi phương tiện truyền thông để mọi người noi theo và giữ vững tinh thần.
– Rõ nhất là ở nữ giới (lúc này chiếm trên 60% dân số). Họ phải thay thế nam giới trong sản xuất, hậu cần, giáo dục, y tế…, và cả trong chiến đấu (canh gác, tuần tra và được phát vũ khí (phong trào “vững tay cày, hay tay súng”. Rất nhiều phong trào khác của nữ giới, như Phong trào Ba đảm đang, phong trào Hai Giỏi (sản xuất giỏi – chiến đấu giỏi và “giỏi việc nước, đảm việc nhà”… ), kể cả trực tiếp chiến đấu. Báo chí nêu lên những tấm gương để mở rộng phong trào. Ví dụ: Nêu tấm gương hy sinh của 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc, gương Mẹ Nguyễn Thi Suốt, hoặc gương chiến đấu của Trung đội nữ dân quân Hoa Lộc…
– Rồi đến các cụ già. Các cụ buộc phải trẻ lại, quên bệnh tật, để làm những việc lẽ ra con cháu phải làm, nhưng nay chúng nó phải làm những việc khác nặng nhọc và vất vả hơn, kể cả vắng mặt vì bị trưng dụng vào những công việc của thời chiến. Một ví dụ là Mẹ Nguyễn Thi Suốt, hy sinh sau 2 năm chèo đò, chở bộ đội và người dân qua sông. Ví dụ khác là tấm gương Trung đội lão dân quân Hoằng Trường, bắn rơi 2 máy bay Mỹ.
– Sinh viên. Trúng tuyển đại học không dễ, do vậy sinh viên thường được hoãn quân dịch đến khi tốt nghiệp để việc học khỏi bị xáo trộn. Nhưng khi thiếu, sinh viên vẫn phải tòng quân. Ví dụ, đợt tuyển năm 1971-1972 hàng chục ngàn sinh viên đã ‘xếp bút nghiên lên đường chiến đấu’ và chết trên 50% – chủ yếu trong 80 ngày bảo vệ thành cổ Quảng Trị.
– Học sinh cấp 3. Những năm cần tuyển quân cao độ, trong học sinh lớp cuối (17 tuổi) có phong trào “viết đơn tình nguyện tòng quân”. Trong trường hợp khẩn cấp, học sinh lớp cuối được công nhận tốt nghiệp )mà không cần qua kỳ thi) để “lên đường” ngay khi mới 17 tuổi.
– Thiếu niên, học sinh. Ở đô thị, thành phố, hàng triệu các cháu phải xa cha mẹ, để tiếp tục việc học ở nông thôn, nơi sơ tán. Rất phổ biến là chiếc mũ được bện bằng rơm (để tránh mảnh văng của bom bi) và các lớp học dưới hầm trú ẩn. Có cả những trường hợp chết, được nêu gương, như em Nguyễn Bá Ngọc 14 tuổi hy sinh vì cứu 3 em nhỏ
– Mẫu giáo. Hàng triệu cháu phải theo cô giáo sơ tán về vùng an toàn, chỉ được cha mẹ tới thăm sau hàng tuần, hàng tháng vào những ngày nghỉ…

- Nhân lực cho Con đường vận chuyển vào chiến trường
a) Thành lập đoàn 559:
Để “Dốc toàn lực cho tiền tuyến” cần một con đường đủ lớn, đủ dài để tải một khối vật lực và sinh lực khổng lồ này vào được tận tiền tuyến. Đó là Đường Trường Sơn, còn gọi là Đường Hồ Chí Minh nay thành huyền thoại.
Đoàn 559 ra đời ngày 19 tháng 5 năm 1959 ban đầu chỉ có 440 người, nhưng nhiệm vụ được giao là tạo ra, mở rộng và duy trì con đường đưa nhân lực, vật lực vào chiến trường cách hậu phương hàng ngàn cây số.
b) Lớn mạnh
Đến ngày 23/10/1961 Đoàn 559 đã trở thành đơn vị tương đương cấp sư đoàn. Sau 4 năm tiếp theo (3/4/1965) nó đã tương đương cấp quân khu. Cấp chỉ huy chính thức có tên là Bộ tư lệnh 559 (Trường Sơn). Tháng 10/1970, Trường Sơn chính thức trở thành một chiến trường quan trọng và rộng lớn. Đến năm 1973 – 1975, Bộ tư lệnh 559 – Trường Sơn đã có lực lượng hùng hậu gồm 9 sư đoàn (các binh chủng) cùng 21 trung đoàn trực thuộc, quân số gồm 100 ngàn cán bộ, chiến sĩ và 10 ngàn thanh niên xung phong, đa số là nữ. Lúc phát triển cao nhất, đường Trưởng Sơn có mặt 200 ngàn lượt người”: Tại chỗ, vào và ra.
c) Phát triển
Tính đến đầu năm 1975, tổng số chiều dài của đường Trường Sơn là 16.790km, với 6 trục đường dọc ở cả phía Đông và phía Tây dạy Trường Sơn. Những năm đầu (1959-1964) trên tuyến đường Trường Sơn, ta mới chi viện vào chiến trường khu 5 hơn 2.500 tấn. Năm 1966 bắt đầu chuyển vào Tây Nguyên và Nam Bộ.
d) Việc đã làm
Tổng kết, trong 16 năm (1959-1975), đường Trường Sơn đã thành một mạng lưới giao thông đi qua 21 tỉnh thuộc 3 ba nước Việt, Miên, Lào, với 20.000 km đường ôtô, 600 km đường sông, 1.400 km đường ống dẫn xăng dầu, 1.500 km đường dây thông tin liên lạc. Được ví như một trận đồ “bát quái”, gồm 5 trục dọc, 21 trục ngang, phủ khắp 2 sườn đong – tây của dãy Trường Sơn.
Số hàng đã vận chuyển là trên 1,5 triệu tấn vật liệu và 5,5 triệu tấn xăng dầu; bảo đảm cho trên 2 triệu lượt cán bộ, chiến sĩ vào và ra.
Một thống kê khác đưa ra các con số: Trong suốt 16 năm hoạt động, tuyến giao thông này đã vận chuyển 1.349.060 tấn hàng, giao tới các chiến trường được 583.450 tấn, tự tiêu thụ (gạo, thực phẩm, thuốc chữa bênh) cộng với tổn thất là 765.610 tấn (hiệu suất 45%).
Để giao được 1.000 tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men, lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng cho chiến trường, lực lượng giao thông vận tải đường Trường Sơn tổn thất: Hy sinh 21 người, bị thương 57 người, 25 ôtô bị phá huỷ, 143 tấn hàng bị mất. Nếu tính theo tỷ lệ thì đường Trường Sơn đã chuyển từ miền Bắc vào chiến trường 80% số quân chủ lực, 81% số vũ khí và phương tiện chiến tranh, 65% số thuốc chữa bệnh, 60% số xăng dầu. Số còn lại, được chuyển bằng đường biển và các đường khác.
e) Tổn thất sinh mạng trên đường Trường Sơn
Chưa kể số bị thương, tới trên 20 ngàn người tử vong, không do chiến đấu mà chủ yếu do bom, mìn, tai nạn, bệnh tật… tìm được hai cốt trên 10 ngàn (quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Cả nước có vài chục nghĩa trang liệt sĩ cấp quốc gia. Bất cứ xã nào cũng có nghĩa trang liệt sĩ của địa phương.
- Sinh lực cho chiến đấu
a) Tuyển quân
Chưa kể lực lượng thanh niên xung phong (thành lập chính thức ngày 21/6/1965) thoát ly gia đình, đa số là nữ, gồm hàng trăm ngàn người, phục vụ ở các “tuyến lửa”, không trực tiếp chiến đấu. Còn lực lượng trực tiếp chiến đấu được huy động khoảng trên 3 triệu lượt người. Nhiều người đã giải ngũ vẫn được tái ngũ lại, nhất là trong ba năm “đánh lớn” (1968, 1972, 1975). Những năm này, số lượng đưa vào miền Nam tăng gấp 2-4 lần. Ví dụ, năm 1967 miền Bắc gọi 126.500 người nhập ngũ; thì năm sau (1968) con số này là 317.500 người (gấp 2,5 lần). (theo Báo Nhân Dân). Tuy nhiên, sự hy sinh năm 1968 cũng rất lớn.
Ví dụ khác: Trong Chiến dịch Mùa Xuân 1975, cụ Võ Nguyên Giáp cho biết: Số cần tuyển tăng gấp rưỡi (tức thêm 50%) so với năm trước. Có tới một nửa số thanh niên ở lứa tuổi 18-25 bị gọi vào lính, nghĩa là gồm cả học sinh, sinh viên đang trên ghế nhà trường.
b) Hy sinh: Rất lớn
Chỉ xin đưa ra số thiệt hai năm 1968 và 1972, ta đánh lớn để gây được ảnh hưởng chính trị trong dư luận Mỹ (năm bầu tổng thống) và thế giới.
– Sự kiện Tết Mậu Thân (1968)
Có nhiều thống kê, nói chung: ta thiệt hại nhiều hơn vì là bên tiến công.
Bên nó thiệt hại như sau
Theo số liệu do Hoa Kỳ đưa ra: Mỹ và đồng minh: chết 4.124, bị thương 19.295, mất tích 604 mất tích
Việt Nam Cộng hòa: chết 4.954, bị thương 15.917, mất tích 926
Bên ta thiệt hại như sau
Theo tài liệu của quân Giải phóng: 277.000[4]
Theo tài liệu của bên nó: Ước tính là 323.000 người, gồm 130.000 quân chủ lực và 160.000 du kích.[5]
Ta: Khoảng 200.000