Lược Sử về Điệp Viên (Bài 5)

Hoạt động Gián điệp Hiện đại từ Chiến tranh Lạnh đến Cuộc chiến Chống Khủng bố

Paul Simpson

Trần Quang Nghĩa dịch

8.  NỖI Ô NHỤC

Những năm 1970 là thời kỳ vỡ mộng ở phương Tây. Tại Anh, chính quyền Edward Heath vật lộn với các tranh chấp công nghiệp, và người kế nhiệm ông, Harold Wilson, tin rằng MI5 đang tổ chức một cuộc đảo chính chống lại ông. Tại Mỹ, cái kết nhục nhã của Chiến tranh Việt Nam đã gây chấn động lòng tự tôn của đất nước. Tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi Tổng thống Richard Nixon tiếp tay che đậy vụ đột nhập trụ sở Ủy ban Quốc gia đảng Dân chủ tại tòa nhà Watergate ở Washington D.C., và phải từ chức sau hai năm ở nhiệm kỳ thứ hai thay vì đối mặt với nguy cơ bị luận tội. Những lo ngại về mối liên hệ của CIA với vụ đột nhập đó, cũng như những tiết lộ về các hoạt động dường như nhắm vào người dân Mỹ, đã thúc đẩy các cuộc điều tra về hành vi của CIA, và rất nhiều chuyện không hay đã bị phơi bày trước công chúng. Thủ tướng Tây Đức buộc phải từ chức khi cố vấn thân cận nhất của ông bị phát hiện là điệp viên Stasi. Và vào cuối thập kỷ đó, Quân đội Liên Xô, với sự hỗ trợ của KGB, đã xâm lược Afghanistan.

Không phải mọi thứ đều u ám và ảm đạm. Thập kỷ này bắt đầu với một cú ngoạn mục của MI5, tìm cách tiến hành việc trục xuất một mạng lưới điệp viên Liên Xô khỏi Vương quốc Anh trong Chiến dịch Foot, gây ra một thất bại lớn lao cho các kế hoạch của Trung tâm Moscow, không chỉ ở Vương quốc Anh mà còn trên khắp các nước phi Cộng sản trên thế giới. Tổng cộng, 105 điệp viên đã bị loại bỏ, khiến các hoạt động tình báo của Liên Xô bị cản trở nghiêm trọng ở Anh trong suốt những năm còn lại của thập niên 70.

Chiến dịch Foot ra đời do MI5 ngày càng lo ngại về quy mô của hệ thống tình báo Liên Xô tại Anh trong những năm 1960, ngay cả khi một số quan chức chính phủ và công chức dường như nghĩ rằng mối đe dọa từ KGB đã giảm bớt sau Khủng hoảng Tên lửa Cuba. Vào tháng 11 năm 1968, dưới áp lực của MI5, chính phủ đã hạn chế quy mô của Đại sứ quán Liên Xô, nhưng KGB và GRU chỉ đơn giản là bổ sung thêm các sĩ quan tình báo vào Phái đoàn Thương mại. Ngài Alec Douglas-Home, được bổ nhiệm làm Ngoại trưởng trong nội các của Ted Heath sau cuộc tổng tuyển cử tháng 6 năm 1970, đã nêu vấn đề này với người đồng cấp Andrei Gromyko, nhưng được trả lời: ‘Những con số bạn đưa ra không thể là sự thật vì Liên Xô không có gián điệp.’

Sau một hồi thuyết phục, Bộ trưởng Nội vụ mới, Reginald Maudling, đã viết một bản ghi nhớ chung với Douglas-Home vào ngày 30 tháng 7 năm 1971 gửi thủ tướng, cảnh báo rằng có ít nhất 120 sĩ quan tình báo Liên Xô (từ KGB hoặc GRU) tại Anh, và họ đang gây ra những vấn đề nghiêm trọng. ‘Nếu những trường hợp mà chúng tôi biết là điển hình, thì tổng thiệt hại do những kẻ thu thập thông tin tình báo Liên Xô này gây ra hẳn phải rất đáng kể’, họ viết. ‘Các mục tiêu được biết đến trong vài năm qua bao gồm Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng; và về mặt thương mại, hãng máy bay Concorde, động cơ máy bay Bristol “Olympus 593”, các dự án năng lượng hạt nhân và thiết bị điện tử máy tính.’ Vào ngày 4 tháng 8, Douglas-Home đã gửi một cảnh báo cuối cùng với Gromyko về ‘những hoạt động không thể chấp nhận được của Liên Xô’.

Chiến dịch Foot lẽ ra đã diễn ra vào tháng 10 nếu không có sự đào tẩu của sĩ quan KGB Oleg Lyalin vào ngày 3 tháng 9. Lyalin đã cung cấp thông tin cho MI5 từ tháng 4 năm trước, tiết lộ vai trò của ông ta là đại diện cấp cao của Phòng V, bộ phận phá hoại và hoạt động bí mật của KGB. Theo kế hoạch mà Lyalin đang soạn thảo, các nhóm phá hoại đường biển sẽ đổ bộ xuống Hayburn Wyke trên bờ biển phía bắc Yorkshire (cách London 240 dặm về phía bắc) với các đồng đội nhảy dù xuống phía bắc Kênh đào Caledonian để gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho cơ sở hạ tầng của Anh. Ngoài ra, ông ta còn là sĩ quan phụ trách đặc vụ Sirioj Husein Abdoolcader, điệp viên KGB tại phòng cấp phép xe cơ giới của Hội đồng Đại London; Abdoolcader bị bắt hai tuần sau khi Lyalin đào tẩu.

Ngày 24 tháng 9, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, Ngài Denis Greenhill, báo cáo với tùy viên Liên Xô rằng 90 sĩ quan GRU hoặc KGB đang bị trục xuất, và 15 người khác đang ở Liên Xô vào thời điểm đó đã bị thu hồi thị thực. Ngày hôm sau, Douglas-Home đối mặt với một Gromyko giận dữ tại Liên Hiệp Quốc, ông ta cảnh báo rằng việc Anh đe dọa Liên Xô là rất nguy hiểm. Douglas-Home dường như đã bật cười và nói: “Ông thực sự nghĩ rằng Anh có thể “đe dọa” đất nước của ông sao? Tôi rất lấy làm vinh dự nếu sự việc đúng là như vậy.” Gromyko phàn nàn về “những hành vi côn đồ của cảnh sát Anh” và trả đũa bằng cách trục xuất 18 nhà ngoại giao Anh, nhưng vấn đề không leo thang. Thành công của Chiến dịch Foot đã giúp MI5 có được vị thế ngày càng cao trong hệ thống cộng đồng tình báo quốc tế.

Các hoạt động của KGB bị cản trở nhưng không hoàn toàn bị dừng lại – trên thực tế, đặc vụ chủ chốt của họ tại Anh không hề bị ảnh hưởng bởi Chiến dịch Foot, vì y được điều khiển từ nước ngoài. Đó là Geoffrey Prime, người làm việc tại trụ sở SIGINT (Tình báo Tín hiệu) của Anh tại tòa nhà Trụ sở Truyền thông Chính phủ (GCHQ) ở Cheltenham và những nơi khác có thể đã gây tổn hại lớn hơn nhiều cho lợi ích của Anh so với những gì MI5 tin rằng nếu y được điều hành bởi Tổng cục 1 KGB, đơn vị xử lý hầu hết các hoạt động gián điệp. Tổng cục 3, đơn vị mà Prime báo cáo, không quen xử lý những tài liệu nhạy cảm như vậy. Tuy nhiên, trong thời gian y ở Cheltenham, người Nga đã đột ngột thay đổi quy trình liên lạc của họ, khiến các nhà phân tích của NSA và GCHQ không thể xâm nhập được.

Prime đã tình nguyện làm việc cho người Nga khi đóng quân tại Không lực Anh ở Tây Berlin vào năm 1968, bằng cách để lại lời nhắn tại một trạm kiểm soát của Liên Xô, yêu cầu tình báo Liên Xô liên lạc với mình và được họ khuyến khích nộp đơn xin việc tại GCHQ. Sau này, y tuyên bố rằng mình làm việc cho KGB “một phần là do quan điểm duy tâm sai lầm về chủ nghĩa Cộng sản Nga, vốn bị ảnh hưởng bởi những vấn đề tâm lý cơ bản”. Prime là một kẻ biến thái tình dục, và việc y quan tâm đến các cô gái trẻ cuối cùng đã dẫn đến việc bị bắt giữ.

Trong thời gian làm việc tại GCHQ, Prime đã tiếp cận được các thông tin chặn bắt được và chuyển cho các nhân viên tình báo Liên Xô, dựa trên phán đoán riêng của mình về những thông tin quan trọng. Giống như nhiều điệp viên trước đây, Prime bị căng thẳng vì cuộc sống hai mặt của mình, và trầm trọng hơn bởi lệch lạc tình dục của mình, và cuối cùng, vào năm 1977, y đã từ chức khỏi GCHQ và tiếp tục làm tài xế taxi ở Cheltenham. KGB đã để y yên trong ba năm, trước khi cố gắng phục hồi chức vụ cho y vào năm 1980, nhưng mặc dù Prime đã cung cấp cho họ tài liệu mà y có được trong vài tháng cuối cùng ở Cheltenham, y vẫn không muốn ra sức lấy lại công việc cũ của mình. Các hoạt động gián điệp của y chỉ bị tiết lộ sau khi y bị bắt vì tội lạm dụng tình dục trẻ em vào năm 1982 khi vợ ông giao nộp các mẫu đệm mật mã dùng một lần và các thiết bị gián điệp khác cho cảnh sát. Prime bị kết án 38 năm tù (35 năm tù vì tội gián điệp, 3 năm tù vì tội phạm tình dục), trong đó ông đã thụ án 19 năm. Giống như vụ án Rosenberg, Prime được các thẩm phán nói rằng nếu Anh tham chiến với Liên Xô, y sẽ bị kết án tử hình.

Khi KGB bắt đầu tái kích hoạt các đặc vụ, họ phát hiện ra rằng một trong những tài sản quan trọng nhất của họ trong nhiều năm qua đã không còn đủ khả năng hỗ trợ họ nữa, vì bà đã nghỉ hưu! Sự phục vụ lâu dài của Melita Norwood cho chủ nghĩa Cộng sản, chuyển giao bí mật nguyên tử, đã được công nhận bằng Huân chương Cờ Đỏ vào năm 1958; cuối cùng bà đã nhận được Huân chương đó tại Moscow vào năm 1979. Bà đã tránh được sự phát hiện của Cơ quan An ninh Anh trong nhiều năm (đánh giá vào tháng 4 năm 1966 cho rằng bà là một nhân vật vô hại và có phần tẻ nhạt) và đã đóng vai trò quan trọng trong việc tuyển dụng các điệp viên khác, bao gồm một công chức, mật danh Hunt. Ông này được tái kích hoạt vào năm 1975 thông qua một điệp viên người Pháp, nhưng theo các tài liệu của KGB do Vitali Mitrokhin cung cấp khi ông đào tẩu vào năm 1992, tính hữu dụng của Hunt khá thấp, và một cuộc điều tra của M15 đã kết luận rằng không chắc các hoạt động của y đã gây ra thiệt hại đáng kể nào. Đánh giá đó cũng được áp dụng cho ba đặc vụ khác: một kỹ sư hóa học, một trợ lý phòng thí nghiệm, và một kỹ sư hàng không và máy tính, những người đã được đưa trở lại KGB vào giữa những năm 1970.

Liên Xô đã thu thập được thông tin hữu ích từ một số điệp viên trong thập kỷ đó. Kỹ sư máy bay Ivor Gregory, mật danh Ace, được tuyển dụng bởi văn phòng thường trú Liên Xô tại London vào năm 1967, và đã chuyển giao các chi tiết kỹ thuật của nhiều máy bay, bao gồm Concorde, động cơ máy bay và máy bay mô phỏng, cho phép Liên Xô tạo ra các phiên bản của riêng họ. Y qua đời năm 1982, mặc dù sự phản bội của y chỉ bị phát hiện một thập kỷ sau đó.

Michael John Smith, mật danh là Borg, là một kỹ sư điện tử, đã được cấp giấy thông quan an ninh (cho phép truy cập các tài liệu mật) khi các báo cáo về những quan hệ trước đó của anh ta với  Đảng Cộng sản không được kiểm tra chéo đúng cách. Anh ta bắt đầu làm việc cho KGB vào tháng 5 năm 1975, và trong ba năm trước khi bị thu hồi giấy thông quan an ninh, anh ta đã chuyển cho Liên Xô những thông tin quan trọng từ công việc tại nhà thầu quốc phòng Thorn EMI trong Dự án XN-715 tối mật lúc bấy giờ, phát triển và thử nghiệm ngòi nổ radar cho bom hạt nhân rơi tự do của Anh. Tài liệu của anh ta tốt đến mức KGB nghi ngờ anh là điệp viên hai mang, và thậm chí còn kiểm tra anh bằng máy phát hiện nói dối phi tiếp xúc trong một chuyến đi đến Vienna. Tuy nhiên, Liên Xô đã cắt đứt liên lạc sau khi anh ta mất giấy phép thông quan an ninh, cho đến khi anh ta thay đổi việc làm; sau đó, từ năm 1990 đến năm 1992, anh đã cung cấp thông tin từ Công ty General Electric. Anh ta đã bị phản bội khi sĩ quan phụ trách ban đầu của anh ta, Victor Oshchenko, đào tẩu vào năm 1992; Smith bị kết án 25 năm tù, giảm xuống còn 20 năm sau khi kháng cáo. Kể từ khi được thả, anh ta đã vận động “khám phá và vạch trần toàn bộ câu chuyện đằng sau âm mưu dẫn đến việc tôi bị kết tội làm gián điệp cho Nga vào đầu những năm 1990”, trên blog của mình.

Giám đốc CIA William J. Casey phát biểu trong bài nói chuyện năm 1982 rằng: “Thật khó để nói quá về thiệt hại mà cơ quan tình báo phải gánh chịu trong những năm 1970. Việc liên tục đặt câu hỏi về tính chính trực của Cơ quan đã gây ra sự mất uy tín nghiêm trọng”. Mặc dù Ủy ban Church [một ủy ban của Thượng viện Mỹ thành lập vào năm 1975 để điều tra các vụ lạm dụng của CIA, NSA, FBI, do Thượng nghị sĩ Frank Church làm chủ tịch] và các cuộc tấn công khác vào CIA chắc chắn đã gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho Cơ quan, nhưng chúng cũng chính là nguyên nhân gây ra một số khó khăn cho bản thân cơ quan này.

James Jesus Angleton, giám đốc phản gián của CIA từ năm 1954 đến năm 1975, đã bị một số người coi là vật tế thần cho các vấn đề của Cơ quan; đối với những người khác, cách thức hoạt động của ông ta phản ánh rõ nét những sai lầm của CIA trong giai đoạn này. Ngay cả CIA cũng mô tả ông ta là “một trong những sĩ quan tình báo có ảnh hưởng và gây chia rẽ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ”.

Angleton được tuyển vào OSS năm 1943, và phục vụ tại các chi nhánh phản gián ở London và Rome, kết thúc Thế chiến thứ hai với tư cách là người đứng đầu các hoạt động phản gián ở Ý. Ông ở lại đó cho đến năm 1947 và sau đó trở thành người liên lạc giữa CIA mới thành lập và các tổ chức phản gián phương Tây khác, đáng chú ý là Shin Bet và Mossad, các cơ quan an ninh của quốc gia Israel mới thành lập. Năm 1954, ông được bổ nhiệm vào vị trí tại trụ sở CIA và giữ chức vụ này cho đến khi rời đi. Mặc dù rất duyên dáng trong giao tiếp xã hội, nhưng trong công việc, ông được mô tả là “kiêu ngạo, thiếu tế nhị, khinh thường và thậm chí đe dọa những thuộc cấp không đồng tình với ông.

Chính Angleton là người đã xoay sở để có được bản sao bài diễn văn tố cáo Stalin của Nikita Khruschev năm 1956, thông qua các mối liên lạc của ông ta ở Israel, khi không ai khác có được nó. Angleton hoàn toàn tin chắc rằng Liên Xô nuôi mối thù địch không thể lay chuyển đối với phương Tây, và hơn thế nữa, đối với ông, chủ nghĩa Cộng sản quốc tế là một khối thống nhất. Ông không tin rằng sự chia rẽ Trung-Xô năm 1960 là có thật, mà chỉ đơn giản là một phần của một chiến dịch thông tin sai lệch tinh vi, và ôm một quan điểm vững chắc rằng KGB đã thâm nhập vào tất cả các cơ quan tình báo phương Tây.

Những tương tác của Angleton với hai điệp viên KGB đã thành hình nên quan điểm này. Ông đã từng thân thiện với Kim Philby trong những năm 40: hai người thường xuyên gặp nhau khi Philby còn đóng chốt tại Washington từ năm 1949 trở đi, đến mức những buổi gặp mặt ăn tối hàng tuần của họ được gọi là ‘Xô diễn của Kim and Jim’. Khi tội phản bội của Philby trở nên rõ ràng sau vụ đào tẩu của Guy Burgess và Donald Maclean vào năm 1951, Angleton đã dành vài năm tiếp theo để phân tích sự nghiệp của người bạn cũ, và nhận ra rằng những lần thăng chức khác nhau của ông ta đều là một phần trong kế hoạch của Liên Xô. Nếu Philby có thể đạt đến đỉnh điểm như thường được bàn tán nghiêm túc là sẽ  trở thành giám đốc MI6 tương lai, rất có thể sẽ có nhiều đặc vụ  khác. Kết quả là, Giám đốc CIA Allen Dulles đã đồng ý thành lập bộ phận phản gián.

Đặc vụ kia là Anatoli Golitsyn. Trong khi nhiều người coi y là một kẻ hoang tưởng, thì những câu chuyện của y về việc KGB xâm nhập toàn bộ hoạt động tình báo phương Tây (mà y chỉ đề cập đến một thời gian sau khi đào ngũ sang phương Tây) hoàn toàn phù hợp với cách nghĩ của Angleton. Golitsyn tuyên bố rằng Thủ tướng Anh Harold Wilson là một điệp viên KGB; đến cuối thời gian làm việc tại Cơ quan CIA, Angleton sẽ thêm Thủ tướng Thụy Điển Olaf Palme và Thủ tướng Tây Đức Willy Brandt vào danh sách đó (tất nhiên Brandt không phải là nguồn rò rỉ thông tin – mà là trợ lý của ông, Günter Guillaume).

Năm 1962, ngay sau khi Golitsyn đào tẩu, Angleton chuyển đến trụ sở CIA mới tại Langley và thành lập Nhóm Điều tra Đặc biệt (SIG), tìm kiếm ảnh hưởng của KGB trong CIA. Trước sự ngạc nhiên của nhiều người, Angleton đã nhìn nhận các lời khai của Golitsyn một cách nghiêm túc. Mọi chuyện đi đến mức SIG chuyển hồ sơ vụ án cho Golitsyn để đánh giá, và đặc vụ Nga này sẽ “chỉ điểm” những cá nhân cụ thể nào là điệp viên tiềm năng, một thông lệ sau này các sĩ quan CIA thấy khó lòng tin là có được.

Điều này có nghĩa là khi Yuri Nosenko đào tẩu, và những tuyên bố của y  thường mâu thuẫn với Golitsyn (đặc biệt là về sự hiện diện của một điệp viên KGB trong chính CIA), người mới đến đã bị phớt lờ. Việc đối xử khắc nghiệt mà Nosenko nhận được từ tay CIA là do Angleton và những đồng nghiệp cùng phe tin rằng y là đặc vụ cài cắm của KGB. Chỉ khi Giám đốc Tình báo mới Richard Helms can thiệp và ra lệnh xem xét lại bằng chứng, Nosenko mới được minh oan.

Phương pháp của Angleton khiến các đồng nghiệp của ông phản đối, và nhiều người tin rằng ông đang suy đoán về các điệp viên Liên Xô tiềm năng, thay vì đưa ra bằng chứng thực tế. Vụ án mà Angleton đưa ra liên quan đến một điệp viên cụ thể, được thẩm vấn vào năm 1968, được mô tả là “lập luận cuối cùng bạn đưa ra trong một vụ án mà bạn đã có bằng chứng. Nhưng chắc chắn đó không phải là loại bằng chứng mà bạn sẽ dùng để bắt đầu một vụ án.’ Sự hoang tưởng mà Angleton nuôi dưỡng thậm chí còn khiến một trong những nhà phân tích của giám đốc phản gián cáo buộc chính Angleton là gián điệp Liên Xô.

Golitsyn khẳng định rằng có một điệp viên cụ thể nằm trong trung tâm của CIA, mật danh Sasha, dẫn đến cái gọi là Chiến dịch Săn Đặc vụ Nằm vùng. Trong số khoảng 40 sĩ quan CIA mà Angleton tập trung nghi ngờ có Richard Kovich (tên khai sinh là Dushan Kovacevich), mà sự nghiệp của anh bị hủy hoại bởi hành động của Angleton – mặc dù đã đặt các con bọ nghe lén trong nhà Kovich mà không tìm thấy gì, Angleton vẫn tìm cách ngăn chặn sự thăng tiến của anh ta. Sau khi Angleton bị bắt buộc nghỉ hưu, các nhà phân tích của CIA đã dành ba năm xem xét những tài liệu ông ta đã biên soạn – ông ta không cho phép tài liệu được vi tính hóa, hoặc được lập chỉ mục – và không tìm thấy một mảnh bằng chứng vững chắc nào chứng minh giả thuyết là có một đặc vụ nằm vùng.

Mối nghi ngờ của Angleton còn lan sang cả nhân viên trong các cơ quan tình báo các nước khác. Điệp viên Leslie James (‘Jim’) Bennett, người xứ Wales, đã từng phục vụ trong ngành tình báo Anh tại Istanbul cùng với Kim Philby, cũng như tại Melbourne, Úc, trước khi chuyển đến Canada, và cuối cùng trở thành phó giám đốc bộ phận phản gián của RCMP (Cảnh sát Hoàng gia Canada). Mặc dù thành tích phục vụ của Bennett không có gì đặc biệt nổi bật – ông đã gặp phải nhiều trở ngại, mà ông gán một phần do KGB có gài gián điệp bên trong RCMP- ông được mời tham gia nhóm thẩm vấn Golitsyn. Tuy nhiên, khi ông bắt đầu bất đồng quan điểm với Angleton, giám đốc CIA đã mở một hồ sơ riêng về ông, với những cáo buộc ngày càng nghiêm trọng đến mức Bennett phải từ chức vào tháng 7 năm 1972. Sau khi Angleton rời CIA, không có bằng chứng nào được tìm thấy chống lại Bennett. Vitaly Yurchenko, một người đào tẩu sau này, đã xác nhận rằng điệp viên KGB là Giles G. Brunet, chứ không phải Bennett.

Mặc dù hành vi của Angleton làm những người làm việc cùng ông khó chịu – nhưng bộ phận phản gián của ông vẫn tiếp tục cung cấp thông tin, điều đó có nghĩa là các giám đốc CIA liên tiếp đã ủng hộ ông – việc tiết lộ công khai hai hoạt động mà bộ phận của ông thực hiện đã kết thúc sự nghiệp của ông và góp phần tạo nên mùi xú uế bao trùm Cơ quan vào giữa những năm 70.

Một chiến dịch đã được bắt đầu vào năm 1952 nhằm tìm hiểu xem liệu các điệp viên Liên Xô có liên lạc với Liên Xô qua thư tín Hoa Kỳ hay không, và liệu có bất kỳ người Liên Xô nào viết thư cho công dân Mỹ, những người có thể trở thành tài sản tiềm năng cho CIA hay không. Ban đầu, chiến dịch chỉ sao chép địa chỉ từ phong bì, nhưng đến năm 1955, nó được đổi tên thành HTLINGUAL và các lá thư bên trong phong bì đã bị mở ra – vi phạm luật pháp Hoa Kỳ, mặc dù một số Tổng cục trưởng Bưu điện trong hai thập kỷ qua đã được CIA thông báo về chiến dịch này. FBI ban đầu là một bên tham gia HTLINGUAL, mặc dù họ đã ngừng tham gia tích cực vào năm 1966. Một chiến dịch tương tự, có mật danh là CHAOS, bắt đầu vào năm 1967 đáp ứng trước mong muốn của Tổng thống Johnson muốn biết liệu phong trào phản đối Chiến tranh Việt Nam có bị Đảng Cộng sản lợi dụng hay không.

Trong khi Angleton và nhóm phản gián của ông coi công việc này là “giám sát nước ngoài”, thực tế phũ phàng là thư tín mở ra lại đi qua lại giữa các công dân Mỹ. CIA không có thẩm quyền hoạt động bên trong nước Mỹ – việc CIA tham gia vào “các chức năng an ninh nội bộ” bị cấm theo Đạo luật An ninh Quốc gia. Giám đốc CIA mới nhậm chức James Schlesinger đã đóng cửa CHAOS khi ông biết vào năm 1973 rằng nó mang lại rất ít kết quả; HTLINGUAL đã bị người kế nhiệm Schlesinger là William Colby chấm dứt hoạt động vào cuối năm đó. Khi nhà báo Seymour Hersh của tờ New York Times cảnh báo rằng mình đang điều tra các dự án vào năm 1974, thời gian Angleton làm việc tại Cơ quan sắp kết thúc và cuối cùng ông đã nghỉ hưu, rất miễn cưỡng, vào năm 1975.

Những nghi ngờ về hoạt động của CIA trong nước đã lan truyền ngay cả trước khi có lời cảnh báo của Hersh. Howard H. Baker Jr., phó chủ tịch ủy ban Watergate của Thượng viện điều tra vụ đột nhập tòa nhà Watergate ở Washington D.C. năm 1972, khi đó ông đã nói rằng vai trò của CIA trong vụ bê bối này giống như “những con thú chạy tán loạn trong rừng – bạn có thể nghe thấy chúng nhưng không thể nhìn thấy chúng”. Vào ngày 2 tháng 8 năm 1973, cựu Giám đốc FBI Richard Helms đã khẳng định với ủy ban rằng “CIA không hề liên quan đến vụ đột nhập. Không hề có sự liên quan nào cả”. Thực tế là năm trong số bảy tên trộm đột nhập trước đây đã từng làm việc cho CIA; bốn trong số chúng đã từng tham gia vào thảm họa Vịnh Con Lợn năm 1961; và hai kẻ cầm đầu, James W. McCord Jr. và E. Howard Hunt, từng là sĩ quan CIA lâu năm trước khi tham gia vào Nhà Trắng dường như cho thấy những câu hỏi của ủy ban không phải là không có cơ sở.

Nếu ủy ban biết rõ mọi sự việc, họ hoàn toàn có thể thẩm vấn Helms sâu hơn. Mặc dù bức thư James McCord gửi cho Thẩm phán Sirica vào tháng 3 năm 1973 cuối cùng đã phơi bày toàn bộ chiến dịch trước sự giám sát của công chúng, nhưng McCord trước đó đã viết thư cho CIA yêu cầu hỗ trợ và sắp sửa phơi bày chiến dịch, theo phóng viên Bob Woodward của tờ Washington Post, người có các bài viết đóng vai trò quan trọng trong thất bại của vụ che đậy. Tuy nhiên, bức thư này, được viết vào tháng 8 năm 1972, đã không được chuyển cho cuộc điều tra của FBI theo chỉ thị của Giám đốc Helms.

Liệu Helms có thấy phù hợp khi chia sẻ yêu cầu của Howard Hunt vài tháng trước vụ trộm Watergate với Chi nhánh Hỗ trợ Việc làm Bên ngoài để xem liệu một “người đã nghỉ hưu hoặc đã nghỉ việc nhưng có tài mở khóa” có thể sẵn sàng làm việc cho Nhà Trắng hay không. Trong bài viết năm 2007, Bob Woodward đã gọi vai trò của CIA trong vụ bê bối Watergate là “một trong những phần mờ ám nhất của câu chuyện”.

Báo cáo cuối cùng của ủy ban vào tháng 6 năm 1974 đề xuất rằng Quốc hội ‘nên giám sát chặt chẽ hơn các hoạt động của “cộng đồng” thực thi pháp luật, chỉ ra rằng họ đã đưa ra bằng chứng cho thấy Nhà Trắng đã ‘tìm kiếm và nhận được sự hỗ trợ của CIA’ cho những tên trộm, và ‘không thành công trong việc lôi kéo CIA vào vụ che đậy Watergate’.

Đến năm 1974, người ta cũng đặt ra câu hỏi về sự tham gia của CIA ở Chile. Richard Helms đã bị Tổng thống Nixon buộc phải từ chức khỏi CIA vào cuối năm 1972 (một phần vì ông từ chối để CIA tham gia vào việc che đậy vụ bê bối Watergate), nhưng điều đó không có nghĩa là ông ngừng trung thành với chức vụ mà ông đã thề sẽ phục vụ hoặc bảo vệ những nhân viên nam nữ dưới quyền ông. Bên cạnh việc đưa ra những tuyên bố dứt khoát về Watergate, ông còn khai man khi được triệu tập ra làm chứng trước một ủy ban Quốc hội về sự can dự của CIA ở Chile. “Trong Cơ quan Tình báo Trung ương ông có từng tìm cách  lật đổ chính phủ Chile không?” Thượng nghị sĩ Symington hỏi Helms. Không chút do dự, cựu Giám đốc CIA trả lời: “Không, thưa ngài.”

Điều này hoàn toàn sai sự thật. Năm 1970, nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa Mác Salvador Allende Gossens cuối cùng đã giành chức tổng thống Chile trong lần thứ tư tranh cử, bất chấp việc CIA đã chuyển tiền cho các đảng đối lập và tư vấn cho công ty điện thoại và điện tín quốc tế (ITT) về cách tài trợ cho phe đối lập. Theo đánh giá nội bộ của chính cơ quan này năm 2000, CIA đã hoạt động tại Chile từ năm 1962, ban đầu ủng hộ Đảng Dân chủ Cơ đốc giáo, sau đó hỗ trợ các nhóm chống Mác-xit, cả về tài chính lẫn tuyên truyền. Ngày 15 tháng 9 năm 1970, Tổng thống Nixon thông báo với Helms rằng Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận một chế độ Allende ở Chile. Nixon đã phê chuẩn ngân sách 10 triệu đô la và chỉ thị cho CIA ‘ngăn chặn Allende lên nắm quyền hoặc phế truất ông ta mà không thông báo cho Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng hoặc Đại sứ Hoa Kỳ tại Chile’. CIA đã cố gắng tiến hành một cuộc đảo chính để lật đổ Allende, làm việc với ba nhóm âm mưu riêng biệt, trước khi Quốc hội Chile tái khẳng định chiến thắng của ông. Một nhóm có “khuynh hướng cực đoan” nên đã bị loại bỏ; vũ khí quân sự được cung cấp cho nhóm thứ hai; nhóm thứ ba, do tướng nghỉ hưu Roberto Viaux chỉ huy, đã cố gắng bắt cóc Tổng tư lệnh Lục quân René Schneider, nhưng đã làm ông ta tử thương. Vào thời điểm này, CIA đã rút lại sự hỗ trợ và không tiếp tục chiến dịch sau phản ứng mạnh mẽ trước cái chết của Schneider.

Sau khi rời CIA, Helms được bổ nhiệm làm Đại sứ tại Iran, và đã trải qua các phiên điều trần đề cử của Quốc hội do Ủy ban Đối ngoại Thượng viện tổ chức. Trong cả hai năm 1973 và 1975, ông đều thẳng thừng phủ nhận việc CIA can thiệp vào Chile. ‘Nếu CIA thực sự ủng hộ các ứng cử viên khác và dành nhiều thời gian, tiền bạc, vân vân, cuộc bầu cử có thể đã diễn ra theo cách khác,’ ông nói tại phiên điều trần trước đó, mặc dù vào năm 1975, ông thừa nhận rằng ông có thể đã mắc sai lầm nhưng chỉ ra rằng Allende vẫn nắm quyền vào thời điểm đó ‘và chúng tôi không cần thêm bất kỳ sự cố ngoại giao nào nữa hoặc bất kỳ khó khăn nào nữa’.

Chỉ vài tháng sau, Allende đã ra đi, trở thành nạn nhân của một cuộc đảo chính do Tướng Pinochet tiến hành vào tháng 9 năm 1973. Không giống như các chiến dịch tương tự ở các quốc gia khác, vụ việc này không do CIA dàn dựng, mặc dù ngay cả CIA cũng thừa nhận rằng “vì [CIA] không phải không muốn đảm đương việc đó và đã tìm cách kích động một cuộc đảo chính vào năm 1970, nên có lẽ đã để mặc”. Thay vì chấp nhận lời đề nghị được ra đi trong an toàn, Allende vẫn giữ vững lập trường của mình trong dinh tổng thống, và, như một báo cáo pháp y năm 2011 cho thấy, ông đã tự sát bằng  khẩu AK-47 được Fidel Castro trao tặng.

Khi rõ ràng Helms đã nói dối Quốc hội, dường như ông ta lại tiếp tay cho một vụ che đậy khác do một cộng sự của Tổng thống Nixon bị giáng chức thực hiện. Tuy nhiên, đối với Helms, “Tôi thấy mình đang ở trong một tình thế khó xử”, ông ta nói với tòa án vào tháng 11 năm 1977, khi nhận tội khai man. “Tôi đã tuyên thệ bảo vệ một số bí mật. Tôi không muốn nói dối. Tôi không muốn đánh lừa Thượng viện. Tôi chỉ đang cố gắng tìm đường vượt qua một tình huống rất khó khăn mà tôi đang gặp phải.” Khi tuyên án, Thẩm phán Barrington D. Parker nói: “Nếu các quan chức nhà nước cố tình đi theo con đường bất tuân và phớt lờ luật pháp của đất nước chúng ta vì một quan niệm và niềm tin sai lầm và thiếu suy nghĩ rằng có những cam kết và cân nhắc trước đó mà họ phải tuân thủ, thì tương lai của đất nước chúng ta đang lâm nguy. . . Ông đứng trước tòa án này trong sự ô nhục và hổ thẹn.’ Về phần Helms, ‘Tôi không cảm thấy hổ thẹn chút nào. Tôi nghĩ nếu tôi làm bất cứ điều gì khác, tôi cũng sẽ bị ô nhục rồi.’ Khoản tiền phạt 2.000 đô la của ông đã được các sĩ quan CIA chi trả.

Vào thời điểm Helms đối mặt với cáo buộc khai man, tình hình nước Mỹ đã hoàn toàn đảo ngược bất lợi cho các cơ quan tình báo. Bài viết của Seymour Hersh, “Chiến dịch Quy mô lớn của CIA được Báo cáo tại Hoa Kỳ Chống lại các Lực lượng Phản chiến và Bất đồng Chính kiến khác trong những Năm Nixon”, xuất hiện trên trang nhất của tờ New York Times ngày 22 tháng 12 năm 1974, tiết lộ sự tồn tại của một bộ tài liệu nội bộ CIA được gọi là “Family Jewels” (Trang sức Gia đình”. Theo người biên soạn, Giám đốc CIA William Colby tương lại, tài liệu này bao gồm “693 trang ghi lại các hành vi vi phạm có thể xảy ra, hoặc ít nhất là các hoạt động đáng ngờ liên quan đến, hiến chương lập pháp của CIA; trong số các nội dung có ‘những vụ việc kỳ lạ và bi thảm trong đó Cơ quan đã thử nghiệm các loại thuốc kiểm soát tâm trí’; và đi kèm với chúng là ‘một phụ lục riêng biệt và thậm chí còn bí mật hơn, tóm tắt một cuộc khảo sát năm 1967 về sự tham gia của CIA vào các nỗ lực hoặc kế hoạch ám sát chống lại Castro, Lumumba và nhà độc tài Cộng hòa Dominica Rafael Leónidas Trujillo [người thực tế đã bị giết bởi các sĩ quan trong chính quân đội của mình]’. Chắc chắn tài liệu đó có trong đó, nhưng phần lớn các tài liệu ghi lại những lần CIA có thể đã hành động ngoài phạm vi thẩm quyền trong nước của họ, ví dụ như trong việc hỗ trợ một sở cảnh sát ngoại ô Washington. Thiết bị mà họ cung cấp có thể đã giúp ngăn chặn cái chết của một cảnh sát, nhưng lẽ ra họ không nên tham gia.

Bài báo này lại là một đòn tấn công nữa nhắm vào Cơ quan Tình báo, và thúc đẩy việc thành lập cả một ủy ban do Phó Tổng thống Nelson Rockefeller đứng đầu và Ủy ban Đặc biệt Thượng viện Hoa Kỳ Nghiên cứu Hoạt động của Chính phủ liên quan đến Hoạt động Tình báo do Thượng nghị sĩ Frank Church làm chủ tịch, được gọi là Ủy ban Church. Tiêu đề báo cáo cuối cùng của Church cho thấy những lo ngại mà nó nêu ra: ‘(A) Vi phạm và Phớt lờ Luật pháp (B) Hoạt động Tình báo Nội địa Quá mức (C) Sử dụng Quá mức các Kỹ thuật Xâm nhập (D) Sử dụng Hành động Bí mật để Phá vỡ và Làm mất uy tín các Nhóm Nội địa (E) Lạm dụng Thông tin Tình báo vì Mục đích Chính trị (F) Kiểm soát Không đầy đủ việc Phổ biến và Lưu giữ (G) Thiếu sót trong Kiểm soát và Trách nhiệm Giải trình.’

Trong khi có những lo ngại rằng Thượng nghị sĩ Church đã lợi dụng Ủy ban để đạt được mục đích chính trị cho riêng mình, không thể phủ nhận ủy ban này đã phơi bày những bí mật của CIA, FBI và NSA, điều mà Cơ quan này không hề mong muốn. Ví dụ, tại phiên điều trần đầu tiên được truyền hình trực tiếp, Church đã trưng bày một khẩu súng bắn phi tiêu độc của CIA như một cách minh họa cho phát hiện của ủy ban cho rằng CIA đã trực tiếp vi phạm lệnh của tổng thống bằng cách duy trì kho dự trữ độc tố động vật có vỏ. Trong nhiều tháng thu thập bằng chứng, nhiều hoạt động bí mật trước đây của CIA đã bị bại lộ – từ các thí nghiệm thuốc của MKULTRA đến các kế hoạch ám sát Castro và Patrice Lumumba; từ việc hỗ trợ tài chính cho các đảng phái chính trị ở nước ngoài đến việc hỗ trợ người dân bản địa trong thời chiến.

Chức giám đốc của Helms đã được thay thế bởi James Schlesinger, nhưng Nixon đã sớm chọn ông làm Bộ trưởng Quốc phòng. Người kế nhiệm Helms, William Colby, có quan điểm là tiết lộ những gì cần tiết lộ và xây dựng mối quan hệ cộng tác với những ai được giao nhiệm vụ giám sát và điều tra chúng. Đáng tiếc là, trong mọi ủy ban được thành lập – dù là  Ủy ban Rockefeller hay Ủy ban Church, kể cả Ủy ban Pike do Hạ viện thành lập, còn có những người quyết tâm hạ gục các cơ quan khác nhau, và các phiên điều trần đã trở thành trò chơi quyền lực giữa các thành viên ủy ban, CIA và thậm chí, đôi khi, cả Nhà Trắng.

Chủ tịch Otis Pike đã rời khỏi phiên điều trần với sự tôn trọng hơn dành cho CIA:

Chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng, hết bằng chứng này đến bằng chứng khác mà CIA vẫn nói: ‘Không, không có làm việc đó’. Bộ Ngoại giao hoặc Nhà Trắng thì nói: ‘Chúng tôi làm điều đó’.

 

CIA chuyên nghiệp hơn nhiều và có tầm nhìn sâu sắc hơn về những hệ lụy sau này của một hành động được lòng dân tức thì so với nhánh hành pháp hay các quan chức chính quyền. Một điều tôi thực sự không đồng tình với Church là cách ông ấy mô tả CIA như một “gã khổng lồ ranh ma bất trị”. CIA chưa bao giờ làm điều gì Nhà Trắng không muốn. Đôi khi họ không muốn làm những gì Nhà Trắng muốn.

Colby biết rõ về tác động của việc làm mà các ủy ban khác nhau gây ra  cho CIA: ‘Hai tháng qua đã đặt tình báo Hoa Kỳ vào tình thế nguy hiểm’, ông nói vào tháng 5 năm 1975. ‘Sự phấn khích gần như cuồng loạn xung quanh bất kỳ câu chuyện tin tức nào đề cập đến CIA hoặc thậm chí đề cập đến một hoạt động hoàn toàn hợp pháp của CIA đểu đặt ra câu hỏi liệu Hoa Kỳ có thể tiến hành các hoạt động tình báo bí mật hay không.’

Kết quả cuối cùng của các ủy ban khác nhau là CIA đã chịu sự giám sát chặt chẽ hơn của chính phủ, không chỉ về mặt hoạt động mà còn về mặt ngân sách. Những ngày tháng có thể chối từ một cách hợp lý và hành động gián cách với tổng thống đã qua rồi. Ba mươi năm sau khi thành lập, với một Giám đốc Tình báo mới, Tổng thống Hoa Kỳ tương lai George H.W. Bush, CIA buộc phải đảm nhận một vai trò mới.

Ngoài việc phải công khai theo yêu cầu của các ủy ban giám sát, CIA còn phải đối phó với việc thông tin bị tiết lộ công khai bởi chính một trong những cựu sĩ quan của họ. Philip Agee, người đã rời CIA năm 1969, và xuất bản cuốn “Bên trong Công ty: Nhật ký CIA”, một bài viết vạch trần các hoạt động của CIA, tại Anh vào tháng 1 năm 1975. Được KGB hỗ trợ, cuốn sách này đã nêu tên 200 sĩ quan trên toàn thế giới và cáo buộc CIA về các hành vi tham nhũng: “Trong CIA, chúng tôi biện minh cho việc xâm nhập, đánh sập và phá hoại cánh tả ở Mỹ Latinh – và trên toàn thế giới – bởi vì chúng tôi cảm thấy đạo đức đã thay đổi khi vượt qua biên giới quốc gia”, Agee viết. Ông ta đã bổ sung thêm những tiết lộ của mình trên tạp chí cực tả Counterspy – và hậu quả trực tiếp là Richard S. Welch, trưởng trạm CIA tại Athens, đã bị sát hại vào tháng 12 năm 1975.

Agee sẵn lòng cung cấp thông tin cho KGB, và đổi lại, họ đã trao cho ông nhiều tài liệu hơn: hai cuốn sách Dirty Work: The CIA in Western Europe (Hoạt động Bẩn thỉu: CIA ở Tây Âu) Dirty Work: The CIA in Africa (Hoạt động Bẩn thỉu: CIA ở Phi châu)  của ông, tiết lộ danh tính của 2.000 điệp viên khác, được bổ sung thêm bởi Covert Action Information Bulletin (Bản tin về các Hoạt động bị Che giấu), trong đó tiết lộ các tài liệu mật của CIA.

Năm 1980, Ủy ban Tình báo Thượng viện Hoa Kỳ, được thành lập sau các ủy ban Church và Pike, đã tiết lộ mức độ thiệt hại do Agee gây ra đối với CIA. Điều này dẫn đến Đạo luật Bảo vệ Danh tính Tình báo (còn được gọi là đạo luật “chống Agee”), quy định việc cố ý tiết lộ danh tính của một đặc vụ tình báo bí mật là  một tội liên bang. (Một trong những người bỏ phiếu chống lại đạo luật này là phó tổng thống của Barack Obama, Joe Biden.) Luật này đã hạn chế đáng kể các hoạt động của Agee.

Nỗi kinh hoàng chung trong giới tình báo phương Tây không hề giảm bớt khi phát hiện ra Gunther Guillaume tại trung tâm chính quyền Tây Đức. Kẻ tự nhận mình là “người ủng hộ hòa bình” này đã trở thành một trong những phụ tá thân cận nhất của Thủ tướng Willy Brandt sau cuộc bầu cử năm 1972. Mặc dù Guillaume bị nghi ngờ trong một thời gian ngắn vào năm sau, nhưng những cáo buộc này không được xem xét nghiêm túc, đặc biệt là bởi Brandt, ông sau này thừa nhận đã đánh giá quá cao kiến thức của mình về bản chất con người.

Guillaume đã chuyển giao tài liệu được Tổng thống Nixon gửi cho Brandt, cũng như nhiều tài liệu mật của NATO đi qua văn phòng tổng thống. Tuy nhiên, cơ quan phản gián Tây Đức vẫn còn nghi ngờ, và vào tháng 4 năm 1974, Guillaume và vợ đã bị bắt và thừa nhận tội lỗi. Willy Brandt từ chức vào tháng sau, điều mà Stasi (cơ quan tình báo Đông Đức) không thực sự mong đợi, hay mong muốn, theo lời cựu giám đốc Markus Wolf. Nó “tương đương với việc đá bóng vào lưới nhà”, một phép ẩn dụ có thể áp dụng cho nhiều hoạt động của các cơ quan khác trong thời kỳ đó.

Bình luận về bài viết này