Dốc mọi nguồn lực vật chất, thực hiện kỳ được Đề Cương cách mạng miền Nam
Nguyễn Ngọ
Kỳ Lân K
Vẫn tiếp tục tìm hiểu 2 hai câu mở đầu bài hát Giải phóng miền Nam
– Câu 1. Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước.
– Câu 2. Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước
I . NỘI CHIẾN CÁCH MẠNG
1- Về câu 1 của bài hát Giải phóng miền Nam
Mở đầu bản Đề Cương cách mạng miền Nam cụ Lê Duẩn đã viết như sau:
Nhân dân ta ở miền Nam đang rên xiết dưới ách áp bức, bóc lột, tù đày, chém giết man rợ, đất nước bị chia cắt và bị chiến tranh của Mỹ – Diệm hăm dọa. Tình hình đó buộc nhân dân phải vùng dậy đập tan chế độ Mỹ – Diệm để tự cứu mình.
Câu của cụ Lê Duẩn quả thật có tác dụng rất lớn để giáo dục lòng căm thù. Dân miền Bắc – dù rất nghèo – vẫn sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, thiếu thốn (dưới chế độ tem phiếu) để “cùng quyết tiến bước (vào tận nơi) giải phóng miền Nam”… Đây chính là mục tiêu của cuộc “nội chiến cách mạng” do cụ chủ trương.
2- “Nội chiến cách mạng” là từ của cụ Lenin
Khái niệm “nội chiến cách mạng” là do cụ Lenin đưa ra từ năm 1914. Câu của Lenin: Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng.
Dù cụ Lenin có ý gì, định dạy gì, nhưng về thực chất, nội chiến cách mạng chẳng qua là phe chủ trương xóa bỏ tư hữu cứ tự nhận mình là cách mạng và chủ động gây nội chiến. Còn phe bảo vệ quyền tư hữu bị phe Lenin coi là phản động. Vậy Nội chiến Nga là do phe cách mạng Nga gây ra.
Sau 45 năm, “nội chiến cách mạng” được cụ Lê Duẩn vận dụng rất phù hợp vào hoàn cảnh Việt Nam. Đó là khi nước ta bị chia thành hai miền: Miền Bắc – với mục tiêu xóa bỏ tư hữu (Hiến Pháp 1959) – phải là bên phát động nội chiến; còn đối phương lâm vào thế phải chống đỡ. Và bị thua… Đây mới là chuyện tổng quát, bao trùm… Còn chuyện hai bên cãi nhau về vi phạm hiệp định Geneve 1954 chỉ là chuyện cụ thể, thời sự, bề mặt.
- “Nội chiến cách mạng” vẫn là… nội chiến
Lịch Sử nước ta cho thấy dân ta đã nhiều lần chịu cảnh huynh đệ tương tàn do nội chiến. Dân thời xưa (hay thời nay) không thể tự ý gây nội chiến, mà do được tuyên truyền (để tự nguyện) hoặc bị đe dọa (để bắt buộc) trở thành đối nghich nhau, giết hại nhau, trong nội chiến. Điều khác biệt: “Ngày xưa” đây là những cuộc nội chiến cùng ý thức hệ (Nho Giáo). Nhưng tính chất tàn khốc và chuyện “được làm vua, thua làm giặc” thì vẫn cứ đúng với mọi nội chiến, dù “cách mạng” hay không. Liệu lần nội chiến này (1960-1975) có phải là tàn khốc nhất (?) xin để mọi người tự đánh giá. Chỉ mong đây là lần nội chiến cuối cùng.
Đã là nội chiến, thường bên gây chiến càng lu loa, tự nhận mình là “chính nghĩa” để có lý do tàn sát bên kia (bị gán là phi nghĩa, là ngụy) mà không run tay, không cần tự vấn lương tâm. Từ đây, nảy ra câu hỏi (ngược đời): Chả lẽ, muốn chiến thắng trong nội chiến, bên nào giỏi giáo dục lòng căm thù sẽ làm tăng cơ hội chiến thắng?
Trong nội chiến – dù là nội chiến cách mạng – nếu bên thắng trận cứ dai dẳng khoe chiến công – nghĩa là khoe “giết được nhiều đồng bào” – vết thương tâm lý sẽ truyền nhiều thế hệ và sẽ càng khó hòa giải. Chẳng báu gì mà cứ khoe hoài!
– Ngoài tốn phí sinh mạng (đều là đồng bào), mỗi bên nội chiến còn tiêu phí biết bao của cải – đều do mồ hôi và công sức của chính người Việt làm ra – lẽ ra phải được dùng để kiến tạo cuộc sống hạnh phúc cho cả dân tộc.
II . HUY ĐỘNG TỔNG LỰC VẬT CHẤT CHO CUỘC CHIẾN
- Đây là cuộc huy động liên quan tới thắng-bại và sinh-tử.
Phải nói rằng cụ Lê Duẩn có bộ não sáng suốt hiếm thấy. Đã có vô số lời ca ngợi cụ, nhưng đều chưa trúng, chưa đủ. Thế này ạ. Thời điểm 1960 cuộc thi đua hòa bình giữa Đông-Tây Đức và Nam-Bắc Triều còn rất lâu mới có kết quả (đáng buồn), nhưng ngay từ khi đố, Cụ đã dứt khoát không để Nam-Bắc VN rơi vào cuộc thi tương tự – giữa xóa bỏ tư hữu hoặc bảo vệ tư hữu. Đây chỉ là cuộc cọ sát mang tính nội bộ quốc gia, còn cuộc đối đầu toàn cầu – cũng giữa phe xóa bỏ tư hữu và phe bảo vệ tư hữu đã cho kết quả chung kết vào năm 1991.
Chân lý là: Quyền tư hữu phải là một trong các quyền cơ bản để con người trở thành con NGƯỜI. Chính do vậy, dù miền Bắc – vốn đã nghèo, lại càng nghèo vì “đi lên CNXH” – vẫn phải huy động tổng lực vật chất để giành cho kỳ được chiến thắng. Công đầu thuộc về cụ Lê Duẩn.
- Xứng đáng gọi là kỳ tích
Miền Bắc cần huy động tối đa cả nguồn sinh lực và nguồn vật lực cho chiến trường ở tận miền Nam, xa tít tắp. Ngay sự tốn phí, rơi rụng, trên con đường thiên lý đã đủ lớn. Bài sau sẽ nói về sự huy động sức người (sinh lực) cho mặt trận (mới khiếp), còn bài này tìm hiểu về miền Bắc đã dốc mọi nguồn lực vật chất cho cuộc trường chinh, vì phải giành cho kỳ được chiến thắng.
Chưa kể giá trị của khối vật chất khổng lồ được huy động, mà chỉ tính riêng công sức vận chuyển trên đường (với sự tốn phí, rơi vãi, hư hỏng… không thể khắc phục)… đã đủ để xây hàng ngàn ngôi trường, hàng trăm bệnh viện. Do vậy, phải nói rằng: thực hiện được sự huy động tổng lực này quả là một kỳ tích, sẽ được nhớ mãi. Bởi vì, nó được thực hiện trong hoàn cảnh miền Bắc rất nghèo (do mắc sai lầm về kinh tế – tới mức phải sử dụng tem phiếu suốt 15 năm). Tình hình này đã được đề cập ở bài 7, trong đó sự tuyên truyền có vai trò rất quyết định.
Phải nói thêm rằng sự chịu đựng của người dân miền Bắc cũng là một kỳ tích, mà một nguyên nhân là được tuyên truyền và giáo dục để thấy bên ta có chính nghĩa và căm thù Mỹ-Ngụy. Chúng cấu kết vì chung mục tiêu bảo vệ tư hữu.
Tư liệu để viết bài này không thiếu, mà còn quá nhiều. Ngoài những bài tổng kết về sự chi viện của cải cho chiến trường, thì cứ mỗi dịp kỷ niệm ngày 30-4 lại xuất hiện những bài ca ngợi sự huy động nhân lực và vật lực để lập nên chiến công vĩ đại này.
- Chỉ xin giới thiệu một số bài (không chọn lọc):
– Con đường huyền thoại thống nhất non sông: Có lẽ, đây là bài có tính tổng hợp, đầy đủ nhất và thời sự nhất (2025)
– 60 năm đường Hồ Chí Minh – Con đường huyền thoại.
– Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh huyền thoại
– …
- Vài con số trích dẫn
a. Về tổng thể
Con đường vận chuyển này được khởi công bí mật từ năm 1959. Trong 16 năm hoạt động, nó đã vươn dài đến Lộc Ninh với chiều dài đường bộ gần 17.000 km, trong đó đường giao liên dài trên 3.000 km, đường ống xăng-dầu dài gần 1.400 km, đường thủy trên sông Xê Băng Hiêng, Xê Công, Mê Công… để thả gạo, xăng dầu theo dòng chảy hoặc vận chuyển hai chiều bằng canô, thuyền gắn máy… Nhờ vậy, sức người, sức của đưa vào chiến trường miền Nam qua đường này ngày càng tăng. Có thời điểm tới 200 ngàn quân thường trực trên con đường này (gọi là bộ đội Trường Sơn) để duy trì sự hoạt động của nó. Nó đã vận chuyển chi viện cho các chiến trường trên 1,5 triệu tấn hàng hóa và 5,5 triệu tấn xăng dầu, đảm bảo cho hàng triệu lượt cán bộ, chiến sĩ đi vào chiến trường, đưa hơn 650.000 cán bộ, chiến sĩ từ các chiến trường về hậu phương, trong đó có 310.000 thương, bệnh binh, đồng thời còn chi viện đắc lực cho chiến trường Lào và Cam-pu-chia.
b. Qua mỗi giai đoạn
– Riêng năm 1966, phía Mỹ ước tính tổng số quân ta vào Nam qua đường Trường Sơn là từ 58.000 đến 90.000 người, trong đó có ít nhất 5 trung đoàn hoàn chỉnh.[26] Mùa khô năm 1966-1967 đánh dấu bước chuyển lớn về chiến thuật vận tải. Từ “phòng tránh tích cực” đã chuyển sang “tiến công” hợp đồng binh chủng”. Đã đánh trả không quân Mỹ, để các sở chỉ huy được chuyển ra gần đường, các lực lượng phòng không, công binh đóng sát đường để hỗ trợ kịp thời và hiệu quả hơn cho lực lượng vận tải chủ công. Nhiều tuyến đường phụ, đường vòng được mở thêm để đảm bảo thông đường cho xe chạy. Đến cuối năm 1967, mạng lưới đường đã lên 2.959 km đường ô tô, trong đó có 275 km đường chính, 576 km đường vòng, và 450 đường vào cùng các kho chứa[27].
Tuy nhiên, phía Mỹ đã không biết rằng trong năm 1967, để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân 1968, hơn 81.000 tấn hàng đã được vận chuyển và cất giữ [28], 200.000 quân, trong đó có 7 trung đoàn bộ binh và 20 tiểu đoàn độc lập đã vào Nam.[29]
– Từ năm 1965-1968, đã vận chuyển chi viện cho chiến trường 121.139 tấn vật chất, trong đó chi viện cho miền Nam 27.548 tấn, chiến trường Nam Lào 12.935 tấn và bảo đảm cho các lực lượng hành quân trên các tuyến 15.862 tấn; đưa 594.858 lượt người hành quân vào chiến trường, trong đó có 45 đơn vị kỹ thuật với 566 xe cơ giới, 380 khẩu pháo, vận chuyển 35.421 lượt thương bệnh binh[31]
– Thời kỳ 1968–1972. Năm 1970, Bộ đội Trường Sơn được nâng lên cấp quân đoàn, được tổ chức lại thành 5 bộ tư lệnh khu vực, đều ngang cấp sư đoàn. Đến cuối năm, đã có 27 binh trạm, vận chuyển 40.000 tấn hàng với tỉ lệ mất mát giàm đi rõ rệt: Chỉ còn 3.4%.[32]. Từ năm 1969-1972, đã vận chuyển chi viện cho các chiến trường 277.611 tấn hàng (miền Nam 162.710 tấn, chiến trường Lào 114.901 tấn), bảo đảm cho 692.690 lượt người hành quân vào miền Nam và 256.871 người hành quân ra miền Bắc; thời gian hành quân vào B2 rút ngắn được 10-15 ngày, góp phần quan trọng để bảo đảm cho các chiến dịch lớn[31]
Để đưa quân vào Nam: Để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân 1968, hơn 81.000 tấn hàng đã được vận chuyển và cất giữ [28], 200.000 quân, trong đó có 7 trung đoàn bộ binh và 20 tiểu đoàn độc lập đã vào Nam.[29]
Tuyến xăng dầu vượt Trường Sơn (1968–1975)
Đó là tuyến đường ống dẫn xăng dầu với điểm đầu là từ biên giới Việt – Trung chạy về hướng nam, vào đến miền Đông Nam Bộ. Trên toàn bộ hệ thống (tuyến ống hai nhánh qua Đông và Tây Trường Sơn) có với chiều dài 1.450 km với tổng cộng 316 trạm bơm đẩy, 101 kho với sức chứa trên 300 nghìn m3. Trong suốt 7 năm (1968 – 1975), đã nhập vào tuyến hơn 317.000 tấn xăng dầu, đã cấp được 5,5 triệu m3 xăng dầu, cung ứng một nguồn vật chất hậu cần hết sức thiết yếu cho các chiến trường.
c. Tổng kết 20 năm vận chuyển (trích nguyên văn)
Tính đến ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đường Trường Sơn đã tồn tại gần 6000 ngày đêm. Các lực lượng công binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến gồm khoảng 120.000 người đã làm nên mạng đường liên hoàn, vững chắc với 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang, nối Đông với Tây Trường Sơn, vươn tới các chiến trường, với tổng chiều dài gần 2 vạn km đường ô tô, 1.400 km đường ống dẫn xǎng dầu, 3.140 km “đường kín” cho xe chạy ban ngày và hàng ngàn cầu, cống, ngầm.
Trong các chiến dịch đánh phá từ năm 1965 đến năm 1972, Mỹ đã huy động khoảng 733.000 chuyến máy bay (có 26.539 lần dùng B-52 rải thảm), đánh phá khoảng 152.000 trận; ném xuống các tuyến đường Trường Sơn gần 4 triệu tấn bom đạn và gần 1 triệu galông chất độc hoá học (1 galông = 4,4 lít hàng khô và 3,78 lít hàng lỏng). Hơn 20.000 bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân giao thông đã hy sinh; hơn 30.000 người bị thương, khoảng 14.500 xe – máy các loại, hơn 700 khẩu pháo các loại bị phá hủy hoặc hư hại nặng; hơn 90.000 tấn hàng hóa bị đánh cháy… Về phía Mỹ, hàng trăm máy bay các loại bị bắn rơi, hàng ngàn lính biệt kích, thám báo được tung vào đây bị thương vong hoặc bị bắt. Quân đội Mỹ đã tiêu tốn nhiều tỷ USD vào các kế hoạch nhằm cắt đứt tuyến đường song đều bị thất bại.
III. Đọc thêm (do AI cung cấp)
- Không có viện trợ = không có nội chiến cách mạng
– Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Ba Lan đã viện trợ về vũ khí, đạn dược, xe, pháo, máy bay, kỹ thuật quân sự ở mức 90% nhu cầu. Còn về Xăng dầu, sắt thép, máy móc công nghiệp… là 80-90%. Về Phân hóa học, thuốc trừ sâu, máy kéo, thủy lợi lớn… là 70-80%. Cho đến Vải vóc, hàng tiêu dùng, thuốc men, lương thực bổ sung… cũng tới 50-60%. Cuối cùng là Hỗ trợ ngân sách (viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi) khoảng 1 tỷ rúp mỗi năm, theo thời giá 1960-1970.
– Những gì miền Bắc tự sản xuất được: Thóc lúa chỉ đủ 70–80% nhu cầu, mỗi năm, ngoài ăn độn, phải nhập thêm 200–300 nghìn tấn từ Trung Quốc hoặc Liên Xô. Về công nghiệp: Chế biến nông sản, dệt may, xà phòng, thuốc lá, gạch ngói, xi măng – sản lượng thấp. Vải, xà phòng, đường, diêm, dầu hỏa, thuốc lá… đều phân phối bằng phiếu, rất thiếu. Phải phân phối bằng tem, phiếu.
Tóm lại (bằng một câu): Không có viện trợ = không có nội chiến cách mạng.
- Chi viện chiến trường
Khoảng 1/3 lực lượng lao động miền Bắc (tức 2-3 triệu người) tách khỏi sản xuất vì được huy động cho hậu cần, dân công, bộ đội, thanh niên xung phong. Hàng triệu tấn vật tư, xăng dầu, lương thực được chuyển dọc Trường Sơn hằng năm. Miền Bắc rơi vào cảnh “ăn độn, mặc vá” kéo dài, gần như không có tích lũy kinh tế nội địa.
Kết luận ngắn gọn. Trong 15 năm tem phiếu (1960–1975), miền Bắc chỉ tự túc được phần rất nhỏ. Mọi nhu cầu quan trọng của chiến tranh và công nghiệp nặng đều do viện trợ nước ngoài. Chính sự tiến lên CNXH (xóa bỏ tư hữu), khiến mất động lực sản xuất, cộng với kinh tế bị huy động cho chiến tranh, đã khiến miền Bắc phải nhờ vào viện trợ và phân phối bằng tem phiếu.
3. Ví dụ, về lương thực cho chiến trường. Gồm:
a) Tiêu dùng dọc đường (hậu cần trực tiếp). Dùng cho bộ đội, thanh niên xung phong, dân công và lực lượng vận tải trên tuyến Trường Sơn. Cả người và súc vật vận tải (voi, ngựa, trâu, xe đạp thồ) đều cần lương thực. Ước tính khoảng 60–65% tổng số lương thực huy động bị tiêu thụ ngay trên đường (vì quãng đường xa, vận chuyển thủ công, ban đầu còn thiếu cơ giới).
b) Phần đến được miền Nam. Chỉ khoảng 35–40% tổng lượng lương thực Tỷ lệ hao hụt rất lớn do: quãng đường vận chuyển quá dài, bom Mỹ đánh phá liên tục; do mục ruỗng, hư hỏng trong rừng nhiệt đới…
c) Con số chính thức (theo tài liệu hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam)
Nguồn: Tổng cục Hậu cần QĐNDVN, Lịch sử công tác hậu cần trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954–1975), NXB Quân đội Nhân dân, 1999.
| Năm | Tổng lương thực
chuyển vào Nam (tấn) |
Ước tính tới nơi
(tấn) |
Tỷ lệ hao hụt |
| 1965 | ~20.000 | ~7.000 | ~65% |
| 1968 | ~70.000 | ~25.000 | ~64% |
| 1972 | ~120.000 | ~45.000 | ~62% |
| 1975 | ~150.000 | ~60.000 | ~60% |
Tóm lại, suốt 10 năm cao điểm, tổng số lương thực chuyển vào Nam khoảng gần 1 triệu tấn, nhưng chỉ 1/3 đến chiến trường.
Nguồn lương thực đó từ đâu? 70–80% do miền Bắc sản xuất, huy động bằng “nghĩa vụ lương thực” (hợp tác xã giao nộp cho Nhà nước). Còn 20–30% là viện trợ từ Trung Quốc (gạo, bột mì, thực phẩm khô).
- Chuyển đổi chức năng Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp
Nó vốn là tổ chức kinh tế, nhưng bị biến thành một đơn vị chính trị – quân sự để phục vụ chiến tranh. Khẩu hiệu hoàn toàn không động viên sản xuất, mà là chính trị – quân sự: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
- Chỉ sinh lực là dồi dào?
– Năm 1960, khi nội chiến bắt đầu, miền Bắc chỉ có 16,5 triệu dân, nhưng đến năm 1975 đã tăng thành 22 triệu – nhờ tỷ lệ sinh đẻ rất cao.
– Liệu có thể nói nguồn sinh lực dành cho chiến trường là rất dồi dào? Chưa đâu. Năm 1960, Quy Định về tuổi nhập ngũ là từ 18 – 27, nhưng vẫn có những đợt tuyển quân phải lấy cả tuổi 17 và 35. Có những đợt phải huy động cả những quân nhân đã phục viên, đã giải ngũ. Đây thuộc nội dung của bài tiếp theo, nói về sự huy động sinh lực cho chiến trường.