THÀNH CÔNG TRONG SỰ NGHIỆP TUYÊN TRUYỀN THI ĐUA “ĐI LÊN CNXH”
Nguyễn Ngọ
Kỳ Lân K
Vẫn tiếp tục tìm hiểu 2 hai câu mở đầu bài hát Giải phóng miền Nam
– Câu 1. Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước.
– Câu 2. Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước
Muốn “quyết tiến bước giải phóng miền Nam” cách xa ngàn dặm, miền Bắc phải là hậu phương vững chắc. Phải “đi lên CNXH”. Hợp tác xã nông nghiệp Đại Phong được đầu tư tối đa để trở thành điển hình, gương mẫu, lôi kéo hàng ngàn hợp tác xã khác noi theo. Còn nhà máy cơ khí Duyên Hải được vun đắp để trở thành lá cờ đầu, sao cho phía sau nó phải là một rừng cờ cùng quyết tiến bước.
Các bài trước (Bài 7a và Bài 7b) đã cho thấy sự thất bại.
– 7a: Đại Phong thôi vai trò lôi kéo nông nghiệp đi lên CNXH
– 7b: Duyên Hải hạ “lá cờ đầu” dẫn công nghiệp đi lên CNXH
Thật ra, chẳng cần tới 2 bài trên, chỉ cần đưa bằng chứng: Ngay khi phong trào “đi lên CNXH” đang sôi sục nhất, miền Bắc đã phải thực hiện chế độ tem phiếu cho toàn dân. Nó nói lên sự thiếu thốn về những nhu cầu rất cơ bản, rất tối thiểu (ăn và mặc) của toàn xã hội. Bằng chứng bao trùm về sự thất bại này là quá đủ, để át đi những thành công lẻ tẻ ở nơi này, nơi khác – nhưng được báo chí ca ngợi quá mức. Sau khi đất nước thống nhất, cả nước “đi lên CNXH”, lập tức chế độ tem phải cung lan ra cả nước. Chả lẽ, đây là đặc trưng của CNXH?
I. SỰ NGHIỆP TUYÊN TRUYỀN
Có thể đánh giá bằng 4 chữ: thành công rực rỡ
Chế độ tem phiếu kéo dài tới gần 30 năm nói lên dân ta vẫn đang ở tầng rất thấp của tháp Maslow, nhưng nhờ được tuyên truyền, người dân vẫn tự thấy mình may mắn, sinh ra dưới thời đại loài người tiến lên CNXH. Ngay chế độ tem phiếu – nỗi khổ của toàn xã hội – cũng được bộ máy tuyên truyền cắt nghĩa là thể hiện sự công bằng, có lợi cho người nghèo. Đây là những thành công lớn nhất của sự nghiệp tuyên truyền, xứng đãng được ghi vào Lịch Sử ngành này.
– Vui giải trí: Thời nay (2025) nếu ta dùng “tem phiếu” làm keyword để hỏi google, nó sẽ tuôn ra vô vàn kết quả. Đọc vài bài cũng đủ thấy một thời “dở cười, dở khóc”.
– Năm 1960, miền Bắc tuy nghèo vẫn quyết giải phóng miền Nam (giàu có hơn hẳn) bằng cách phát động cuộc nội chiến cách mạng (theo cách gọi của cụ Lê Duẩn). Muốn vậy, miền Bắc phải trở thành hậu phương hùng mạnh, dư sức cung ứng nhân lực, vật lực – một chi phí khổng lồ – cho một chiến trường rộng tới nửa đất nước và cách xa hậu phương hàng ngàn dặm… Chưa nói cuộc chiến kéo dài hàng chục năm. Chỉ cần tuyên truyền để toàn dân miền Bắc đồng lòng “đi lên CNXH”, đồng lòng giải phóng miền Nam “đang rên xiết dưới ách thực dân mới” (ghi trong “Đề cương giải phóng miền Nam” của cụ Lê Duẩn).
– Cũng từ 1960, các cơ quan tuyên truyền – rất biết dựa vào trình độ dân trí – đã giúp người dân thấy CNXH là thiên đường ở hạ giới, xứng đáng là khát vọng ngàn đời của cả dân tộc ta. Điều này đem lại tác dụng vượt yêu cầu. Người dân thời ấy tràn đầy hy vọng và khấp khởi chờ đợi. Nó gây ra sự phấn chấn chưa từng có cho hàng triệu người, tạo ra những phong trào thi đua rầm rộ, náo nức, kéo dài cả chục năm. Các cụ già thời ấy cũng hy vọng chính mình sẽ được sống dưới chế độ XHCN. Giấc mơ đã thành hiện thực: Năm 1976 nước ta chính thức là một nước XHCN, thể hiện trên quốc hiệu và trong hiến pháp.
– Biện pháp “đi lên CNXH” chẳng cần tìm đâu xa, chỉ việc rinh về từ Liên Xô, Trung Quốc. Chỉ cần tuyên truyền rằng dân các nước đàn anh được như ngày nay (như trong các tờ họa báo) là nhờ sớm tẩy rửa đầu óc tư hữu. Muốn sớm có CNXH phải xóa bỏ tư hữu càng nhanh càng tốt. Đầu óc tư hữu là kẻ thù của CNXH. Do vậy, nền công nghiệp nước ta phải được công hữu hóa, cụ thể là tịch thu nhà máy, xí nghiệp của “bọn tư sản”. Còn nông nghiệp phải đi sau một chút, tức là phải qua bước tập thể hóa (theo gương Liên Xô) rồi mới tiến tới công hữu hóa.
– Chủ nghĩa xã hội đối lập sinh/tử với chủ nghĩa tư bản. Đây là một nội dung rất cơ bản trong nội dung tuyên truyền. Nếu chủ nghĩa tư bản đề cao quyền tư hữu thì chủ nghĩa xã hội phải xoá bỏ nó. Nếu CNTB khuyến khích tư hữu hóa, thì CNXH phải triệt để công hữu hóa mọi tư liệu sản xuất. Cho đến khi trận đấu ngã ngũ “ai thắng ai”. Kết quả phải là một mất, một còn.
– Cách xóa bỏ tư hữu trong công nghiệp không khó. Chỉ cần tuyên truyền về sự cần thiết công hữu hóa (tịch thu) các nhà máy, xí nghiệp… của tư nhân, để Nhà Nước ta thành ông chủ, còn công nhân – tuy vẫn là người làm thuê cho ông chủ mới – nhưng có địa vị khác hẳn. Từ nay, họ được “làm chủ tập thể” và được coi là giai cấp lãnh đạo.
– Cách xóa tư hữu trong nông nghiệp mới khó, vì nông dân (và thợ thủ công) rất nặng đầu óc tư hữu, mà họ lại chiếm tới trên 90% dân số. Phải tuyên truyền để nnong dân tự nguyện gia nhập các hợp tác xã, làm ăn tập thể, với lời hứa sẽ sướng gấp bội – so với cái thời cá thể. Ruộng đất, trâu bò, nông cụ (từ cái cuốc, cái liềm – gọi là “tư liệu sản xuất)… đều góp vào hợp tác xã.
– Ban đầu là những hợp tác xã cấp thấp, cỡ nhỏ, gồm vài chục hộ, trong đó người nông dân vẫn còn nhận ra bóng dáng tài sản tư hữu của mình đã góp vào – qua cách chia lợi nhuận. Cụ thể, thu nhập của xã viên gồm hai nguồn: 1) Từ số ngày lao động (nhiều hay ít) và 2) Từ số tư liệu sản xuất đã đóng góp (lớn hay nhỏ). Rồi sẽ tiến lên hợp tác xã bậc cao, xã viên không còn khoản thu nhập từ ruộng đất, trâu bò, nông cụ… nữa. Từ đó, nông dân vừa là người làm thuê, đồng thời… vừa “làm chủ tập thể”.
– Quá trình hhợp tác hóa được tuyên truyền, ca ngợi rầm rộ, ồn ào… có tác dụng kích động cả một phong trào bùng lên khắp miền Bắc, với vô số khẩu hiệu, biểu ngữ và cờ quạt rợp trời. Còn trong lao động, hình ảnh để lại là rất đông người cùng làm việc bằng công cụ thô sơ, rất khoa nhận ra sự quy củ và có tổ chức. Và lá cờ đầu được xây dựng nhân tạo là hợp tác xã cao cấp Đại Phong – được cả cụ Hồ quan tâm từ đầu đến cuối.
II. THỰC TẾ LẠI NGƯỢC LẠI
1. Chế độ tem phiếu đã bác bỏ những thành tích bề mặt
– Trên báo chí, phát thanh… rặt những bài thuyết phục mọi người về… con đường “đi lên CNXH” là duy nhất đúng. Và còn nhấn mạnh “không có con đường nào khác”. Đi vào cụ thể, chỉ 4 năm, số hộ nông dân gia nhập hợp tác xã đã đạt 88%, nói lên sự hưởng ứng nhiệt liệt của người dân. Và khi đã vào hợp tác xã thì năng suất phải cao hơn hẳn, nếu cứ ở ngoài. Báo chí xúm lại ca ngợi những nơi đã thực hiện được điều này. Nhưng đó chỉ là thành tích không đại trà và không bền vững. Chế độ tem phiếu ngày càng loang rộng và càng ngặt nghèo, kéo dài mấy chục năm ròng rã… đã phủ định hầu hết những gì được báo chí ca ngợi suốt một thời.
2. Chế độ khoán nói lên sai lầm về đường lối
Xã viên là những người đưa ruộng và nông cụ vào hợp tác xã rồi trở thành người làm thuê. Nếu sản xuất gồm những công đoạn thì mỗi xã viên được phân công thực hiện từng công đoạn – được tính là “ngày công” – mà không cần quan tâm tới chất lượng của công đoạn trước, công đoạn sau và kết quả cuối cùng. Sản xuất kiểu này trong nông nghiệp không thể tăng năng suất, thậm chí không thể duy trì năng suất. Cho đến khi các xã viên thấy rằng sự thu nhập (ít ỏi) không tương xứng với công sức đã bỏ ra… hợp tác xã sẽ tan vỡ. Nguyên nhân là người nông dân mất quyền tư hữu. Chế độ “khoán” thực chất là trả lại quyền tư hữu cho nông dân. Các bài trước đã nêu đủ.
III. TIẾC NUỐI THỜI OANH LIỆT?
- Tận 2025, vẫn ca ngợi thời “thim đua đi lên CNXH
– Những người trưởng thành thời xưa (30 tuổi) đã từng trải nghiệm cái thời “thi đua đi lên CNXH” (rùm beng, ồn ào, hình thức) nay chỉ còn lác đác. Các cụ đã thuộc lứa U100, đã sống dưới thời tem phiếu, nửa đáng khóc, nửa phì cười. Nếu còn sức để viết lại, các cụ sẽ viết cả chuyện cười, lẫn chuyện khóc.
Do vậy, nếu ngày nay có những bài viết về thời đó, mà chỉ rặt một giọng ca ngợi, thì tác giả hầu hết thuộc lớp hậu sinh. Họ khai thác tư liệu thời đó và viết ra những gì thấy được, cảm được. Bài đăng lên để tuyên truyền, nhưng họ thành thật tin vào những điều họ viết ra.
Xin giới thiệu những bài cùng chủ đề, cùng xuất hiện gần đây nhất (1925). Tất nhiên, không ai dại gì mà đọc tất cả, nhưng rất nên đọc 1-2 bài để cảm nhận thời xưa các bậc cha anh ta bị tuyên truyền ra sao.
– Phong trào thi đua ‘Sóng Duyên Hải’ trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ
– ‘Ngọn gió Đại Phong’ vẫn tiếp tục thổi. https://baotintuc.vn/kinh-te/ngon-gio-dai-phong-van-tiep-tuc-thoi-20240405074807653.htm
– Phong trào thi đua “Sóng Duyên Hải” và Tổ đá nhỏ Ca A
– Trông đợi ‘những cơn gió đại phong’ trong thời kỳ mới. https://hanoionline.vn/trong-doi-nhung-con-gio-dai-phong-trong-thoi-ky-moi-355360.htm
– Gió Đại Phong cuộc cách mạng đầu tiên trong sản xuất nông nghiệp
– Ðẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. https://dangcongsan.org.vn/binhphuoc/xay-dung-dang/-ay-manh-cac-phong-trao-thi-dua-yeu-nuoc.html
– Kỳ vọng những “Sóng Duyên Hải, Gió Đại Phong, Cờ Ba nhất” mới
– Những phong trào thi đua yêu nước tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
– Ðẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước
https://dangcongsan.org.vn/binhphuoc/xay-dung-dang/-ay-manh-cac-phong-trao-thi-dua-yeu-nuoc.html
– Gió Đại Phong cuộc cách mạng đầu tiên trong sản xuất nông nghiệp
https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/gio-dai-phong-van-thoi-826159
– Tổng Bí thư mong đợi thấy Sóng Duyên Hải, Gió Đại Phong, Cờ Ba Nhất trong kỷ nguyên mới. https://laodong.vn/thoi-su/tong-bi-thu-mong-doi-thay-song-duyen-hai-gio-dai-phong-co-ba-nhat-trong-ky-nguyen-moi-1564777.ldo
- Vẫn có các bài có tính chất nghiên cứu, điều tra – ít nhiều có tính khách quan. Ví dụ (ba bài):
– Đánh giá phong trào hợp tác hóa nông nghiệp (1958-1988) https://thinhvuongvietnam.com/Content/danh-gia-phong-trao-hop-tac-hoa-nong-nghiep-1958-1988-59386
– Những đặc trưng kinh tế – xã hội của thời Bao cấp ở Việt Nam
Những đặc trưng kinh tế – xã hội của thời Bao cấp ở Việt Nam
– Những cuộc “phá rào” mở lối cho đổi mới
https://nhandan.vn/nhung-cuoc-pha-rao-mo-loi-cho-doi-moi-post902845.html
- Không phải bài ‘nghiên cứu nào cũng khách quan
Chỉ xin giới thiệu một bài, rất đáng đọc để… chuốc lấy sự lo lắng cho môn Lịch Sử nước nhà. Đó là bài giới thiêu một hội thảo khoa học về Lịch Sử, kèm theo 2 bức ảnh
| Vai trò hợp tác xã nông nghiệp đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện tiền tuyến miền Nam |

Đại biểu và tập thể lãnh đạo, cán bộ, giảng viên Viện Lịch sử Đảng chúc mừng PGS,TS Trần Trọng Thơ
Pingback: Bài hát Giải Phóng Miền Nam: Một di sản lịch sử (Bài 8a) | Nghiên Cứu Lịch Sử