Bài hát Giải Phóng Miền Nam: Một di sản lịch sử (Bài 7a)

Lá cờ đầu Đại Phong đã thất bại trong vai trò dẫn dắt nền nông nghiệp miền Bắc “đi lên CNXH”

 Nguyễn Ngọ

Kỳ Lân K

Vẫn là đề tài tìm hiểu 2 hai câu mở đầu bài hát Giải phóng miền Nam

    – Câu 1. Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước.

    – Câu 2. Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước

Muốn “quyết tiến bước giải phóng miền Nam” (câu 1), hàng triệu chiến sĩ ta phải được… ăn no ngay trong thời gian tập luyện, trước khi lên đường. Chưa nói tới khoản lương thực phải cung cấp cho họ trên con đường vạn dăm từ Bắc vô Nam, liên tục suốt 15 năm đằng đẵng (1960-1975). Nhưng trước nữa, những người sản xuất lương thực cũng phải được ăn no để… làm ra lương thực. Mà họ chiếm tới trên 90% dân số. Chưa nói tới hậu quả chiến tranh (chống Pháp) gây thiệt hại kinh tế. Chưa nói tới hậu quả tai hại của Cải cách ruộng đất và sự giảm sút nhân lực, khi hàng triệu đồng bào – 2/3 là công giáo – đã bỏ miền Bắc, di cư vô Nam – khi thấy “đảng đã ra hoạt động công khai”. Tất cả, đều ảnh hưởng tới sản xuất nói chung và sản xuất lương thực.

I . MIỀN BẮC PHẢI DƯ THỪA LƯƠNG THỰC

  1. Muốn có sự nghiệp vĩ đại: Phải được ăn no cái đã

Từ tình hình trên, dẫu sao miền Bắc phải sản xuất dư thừa lương thực – chưa nói tới những thứ thiết yếu khác cũng do nông nghiệp cung cấp.

– Ngày xưa, 95% dân làm nghề nông. Nông dân phải sản xuất lương thực nuôi chính mình và phải có số dư để nuôi thêm 5% số dân làm các nghề khác. Xã hội thuần nông, năng suất thời đó rất thấp, do vậy tích lũy cũng rất thấp.

Thời nay (tức 1960) dân số tăng nhanh, nông dân vẫn phải nuôi chính mình (90% dân số nhưng đông đúc hơn thời xưa), và nuôi đội quân “quyết tiến bước giải phóng miền Nam” ngày càng đông đảo. Họ đánh khỏe, ăn cũng khỏe, và hầu hết từ nông dân mà ra (lẽ ra, việc của họ là sản xuất). Vậy, dùng biện pháp nào để cả miền Bắc được ăn no mà vẫn dư thừa lương thực nuôi quân?

  1. Biện pháp

Thật đơn giản: 1) phải tăng năng suất bằng áp dụng các thành tựu khoa học; tăng diện tích cây trồng, tăng ngành nghề nông nghiệp, tăng sử dụng giống mới… và 2) phải thay đổi 180 độ về cách tổ chức sản xuất. Cụ thể, xóa bỏ hẳn cách sản xuất cá thể, manh mún (đe dọa tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản)… mà tổ chức sản xuất tập thể theo con đường XHCN.

Nhận xét: Biện pháp 1 chắc chắn là ĐÚNG vì nhân loại đã làm thế. Nếu Đại Phong vẫn thất bại, nguyên nhân – chắc chắn – do biện pháp 2. Sau này, thực tế và nghị quyết Khoán 10 của Bộ Chính trị đã khẳng định như vậy

Tóm lại, cứ theo đúng lý luận và theo đúng kinh nghiệm đàn anh (Liên Xô, Trung Quốc) đã làm. Đó là phát động các phong trào rầm rộ, càng đông người tham gia càng tốt, cả triệu người nhất tề xông lên. Phải khích lệ, sao cho ai cũng muốn “đứng trên hàng đầu”… Nghĩa là, cách làm bên ta phải trái ngược với cách cũ kỹ của bọn tư bản, Thế mới là XHCN!

  1. Tư tưởng

Lý luận ta rinh về từ Liên Xô, Trung Quốc hoàn toàn không phải là lý luận gốc. Theo lý luận gốc, đúng quy luật, thì chủ nghĩa xã hội (CNXH) chỉ xuất hiện sau khi chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã phát triển hết cỡ, hết mức… tức là nó đã hết vai trò lịch sử thì nó mới bị CNXH thay thế. Nếu vậy, thì Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam (là những xã hội thuần nông) sẽ phải chờ đến kiếp nào mới có CNXH? Do vậy, lý luận gốc khi thâm nhập vào các nước thuần nông phải bị bóp méo đi mới có thể áp dụng được. Xin học lại câu tục ngữ tổ tiên ta đã dạy: Nồi tròn, úp vung tròn. Nhưng nồi ta chưa tròn, ắt phải bóp méo cái vung. Cho nên cái thành ngữ 6 chữ “đi lên CNXHđược nhắc đi, nhắc lại ở nước ta đến mòn cả lưỡi mà nội hàm vẫn không thể thống nhất. Vì đủ mọi cách hiểu khác nhau.

II . PHẢI ĐẦU TƯ TỐI ĐA CHO CÁC PHONG TRÀO

“Phong trào” nghĩa là gió và sóng, nói lên sự sôi sục, khuấy động. Các định nghĩa “phong trào” không dính dáng đến hiệu quả. Từ năm 1960 ta đã phát động nhiều phong trào khác nhau, để không một ai có thể đứng ngoài các cuộc thi đuađi lên CNXH”. Bài này chỉ nói về thi đua XHCN trong nông nghiệp, mà lá cờ đầu (hay điển hình tiên tiến) được xây dựng là hợp tác xã nông nghiệp lấy tên là Đại Phong. Sự đầu tư thích đáng về tinh thần và vật chất sẽ khiến Đại Phong phô bày mọi ưu việt của sản xuất XHCN, từ đó sẽ lôi cuốn hàng ngàn hợp tác xã khác làm theo. Khẩu hiệu được hô hào trên toàn miền Bắc là thi đua “học tập, đuổi kịp và vượt Đại Phong”. Nếu làm được như vậy, chúng ta có quyền tưởng tượng rằng: Lương thực sẽ thừa mứa. 

Phải thừa nhận rằng ta đã đầu tư vượt mức, quá mức, cả về vật chất lẫn tinh thần, để các phong trào bền vững và lớn mạnh, với kỳ vọng sẽ đem lại kết quả lớn gấp vạn (vạn = 10 ngàn) lần số vốn đã bỏ ra. Đúng với 4 chữ các cụ ta vẫn dùng để chúc cho các nhà buôn: Nhất bản, vạn lợi”.

1- Về tinh thần, ta đặt ra rất nhiều danh hiệu vinh dự

Có vô số danh hiệu đem lại vinh dự cho cá nhân và tập thể tham gia các phong trào. Điều này “đúng” ở tất cả các nước đàn anh “đi lên CNXH” trước ta, nhưng đúng nhất và quá đúng là ở miền Bắc nước ta. Ví dụ, hợp tác xã Đại Phong (gió lớn) được hình tượng hóa bằng cơn “gió đại phong” nhằm tâng bốc vai trò lôi cuốn của nó – ngay từ khi nó chưa có tác dụng này.

Một danh hiệu khác dành cho Đại Phong là “điền hình tiên tiến”. Trong phong trào thi đua nông nghiệp, có nhiều hợp tác xã được coi là tiên tiến, nhưng “tiên tiến ở mức điển hình” thì chỉ có Đại Phong. Dẫu vậy, đây vẫn chỉ là sự tôn vinh trên báo chí, dư luận. Còn danh hiệu chính thức của Đại Phong là “lá cờ đầu”, kèm theo huân chương và cờ thi đua.

Xin nói thêm rằng trước năm 1962 trong Từ Điển tiếng Việt chưa có cái từ “lá cờ đầu”. Lần đầu tiên, tại Đại hội thi đua toàn quốc 1962, Đại Phong (và một số nơi khác) được chính thức gọi là “lá cờ đầu”, với kỳ vọng nó sẽ dẫn đầu một phong trào rộng lớn, như một rừng cờ, trong đó Đại Phong là lá cờ đầu (!).

Vai trò của báo chí mới khiếp – nói lên sự đầu tư khủng khiếp để tạo dư luận. Tất nhiên, báo chí ta đồng loạt ca ngợi đường lối chung, các chủ trương lớn, rồi tới các sự kiện, sự việc cụ thể. Ngay trong khối báo chí cũng có phong trào: Đó là đua nhau ca ngợi Đại Phong và các điển hình tiên tiến, các lá cờ đầu khác.

2- Đầu tư về nhân lực, vật lực và tài lực cũng xứng đáng

Điển hình về đầu tư nhân lực cho riêng Đại Phong là cử hẳn một vị đại tướng (Nguyễn Chí Thanh) chỉ huy. Và rất nhiều các cơ quan tuyên truyền khác, để kịp thời đưa mọi thông tin về Đại Phong. Đây cũng là đầu tư cho cả phong trào, vì sẽ có phong trào làm theo Đại Phong. Do đại tướng trực tiếp chỉ huy, mọi việc cứ chạy băng băng. Đây là nhân vật có tầm nhìn chiến lược, rất sâu sát thực tế, “nói được làm được” và hiểu đầy đủ sứ mạng của mình ở Đại Phong, cũng như trên cả miền Bắc. Tất cả những nội dung mà vị tướng này đưa ra và thực hiện ở hợp tác xã Đại Phong đều rất phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và đem lại những kết quả ban đầu rất thiết thực.

Tiếp nữa, là chính cụ Hồ đã tới tận nơi để động viên, khích lệ. Ngoài các bài báo đích thân cụ viết, cụ còn gửi tặng Đại Phong chiếc máy cày (của Liên Xô tặng).

Mời đọc: Bài của cụ Hồ trên báo Nhân Dân viết về Đại Phong

Kinh nghiệm về hợp tác hóa nông nghiệp của Trung Quốc

Một hợp tác xã gương mẫu

Vô số các Hội Nghị mọi tầm cỡ, mọi nội dung liên quan tới Đại Phong đã được tổ chức. Rất nhiều phái đoàn trên cả nước đã đến thăm và học tập Đại Phong mà nguồn kinh phí lấy từ công quỹ. Thiết tưởng, nói vậy là tạm đủ.

Mục tiêu và nội dung của phong trào Đại Phong rất đúng

Mục tiêu chính của phong trào Gió Đại Phong là nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, cải thiện đời sống nông dân và góp phần xây dựng hậu phương vững chắc. Nội dung của phong trào tập trung vào các vấn đề: Đổi mới kỹ thuật canh tác, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, như sử dụng giống mới, phân bón, thủy lợi… Sử dụng các công cụ cải tiến, bán cơ khí để nâng cao năng suất lao động. Củng cố và hoàn thiện tổ chức hợp tác xã, phát huy vai trò làm chủ tập thể của nông dân, khơi dậy tinh thần hăng say lao động, thi đua sản xuất.

Mục tiêu và nội dung rất đúng. Do vậy, ban đầu có thể đem lại những kết quả tích cực, nhất định. Nhưng trên thực tế, Đại Phong vẫn thất bại, thì nguyên nhân ở tầng cao hơn. Đó chính là chủ trương “đi lên CNXH” bằng xóa bỏ quyền tư hữu của mọi xã viên.

 

III. ĐẠI PHONG VẪN THẤT BẠI

  1. Các bước thất bại lần lượt xuất hiện, cứ như đã định sẵn

– Sau những thành công ban đầu, trong vài năm đầu, được ca ngợi từ khi đó cho đến tận hôm nay (2025)… dần dần năng suất ở Đại Phong bắt đầu chững lại, không thể nào phục hồi bằng sự đông viên tinh thần. Nguyên nhân đã được nêu ở các bài trước. Đó là lòng tin và sự nỗ lực của số đông đã mang lại những kết quả nhất định. Nhưng sẽ tới lúc người lao động nhận ra: Kết quả được hưởng không tương xứng với sự gắng sức và với sự đầu tư vật chất của mình.

Thời ấy, nhà thơ Bút Tre đã nhìn thấy thực chất của các phong trào thi đua:

Thi đua ta quyết tiến lên

Tiến lên, ta quyết đứng trên hàng đầu!

Hàng đầu, rồi tiến đi đâu?

Đi đâu không biết, hàng đầu cứ lên…

– Năm 1964, khi Đại Phong đang được ca ngợi rùm beng trên loa, đài, báo chí, và có hàng ngàn hợp tác xã trên miền Bắc đăng ký thi đua “học, đuổi kịp và vượt Đại Phong” thì… miền Bắc bắt đầu thiếu lương thực, buộc chính quyền phải phân phối theo định mức. Nếu không thế, những người yếu thế sẽ bị đói vì không thể mua gạo theo khả năng tài chính của mình. Chẳng bao lâu, chế độ tem phiếu chính thức xuất hiện.

– Năm 1965-1966, ta đang tích cực củng cố phong trào, nhưng những câu ca dao, những chuyện tiếu lâm cứ xuất hiện để chê cười thói tham nhũng trong các hợp tác xã, không cách náo ngăn nổi. Vài ví dụ đã được trích và nêu ở bài trước.

– Đặc biệt, xuất hiện “khoán chui” do bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc thực hiện ở tỉnh Vĩnh Yên. Thực chất, đó là tạm thời việc trả lại ruộng đất cho nông dân. Được làm chủ, dẫu chỉ ngắn hạn, nông dân vẫn tạo ra những kỷ lục mới.

– … vân vân

– Bước vào thập niên 70, hoặc sớm hơn một chút, vai trò kinh tế của các hợp tác xã nông nghiệp chỉ còn là thứ yếu, khi bột mì từ nguồn viện trợ đã xuất hiện vững chắc trong các bữa ăn của gia đình viên chức. Còn ở nông thôn, ngô, khoai, sắn đã thay thế một phần gạo. Hợp tác xã vẫn tồn tại do đóng vai trò chính trị, vì “không gì có thể thay thế”. Đó là: Nộp đủ số thanh niên theo diện phải thi hành nghĩa vụ quân sự.

  1. Sự kiên định “đi lên CNXH” trong nông nghiệp

Nói vắn tắt, ở thời đó, nông nghiệpđi lên CNXHchẳng qua là xóa bỏ quyền tư hữu ruộng đất của nông dân, buộc họ phải làm ăn tập thể. Dẫu các cuộc thi đua vẫn liên tục được phát động (ví dụ thi “khu đồng 8 tấn: Xem hình ở dưới) thì về kinh tế, hợp tác xã chỉ tồn tại lắt lẻo cho tới năm 1975 khi đất nước thống nhất. Đây là thời điểm chấm dứt vai trò chính trị của hợp tác xã, cũng là thời điểm cân nhắc lại một lần nữa vai trò kinh tế của nó. Té ra, bất chấp thất bại, sự kiên địnhđi lên CNXHtrong nông nghiệp mới kinh khủng xiết bao. Khi áp dụng nó cho miền Nam, nó lộ diện tức khắc là thủ phạm gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế cho cả nước. Nếu “kiên định” đưa lại kết quả xấu, liệu có thể gọi là “ngoan cố”?

Hình trên. Hưởng ứng Đại Phong, tỉnh Ninh Bình (kết nghĩa với Bạc Liêu) xây dựng “KHU ĐỒNG 8 TẤN” bằng phong trào + công cụ thô sơ + làm ăn tập thể.

3. Kỷ niệm 60 năm Đại Phong ra đời

Sau khi mọc lên rực rỡ (năm 1962) và lặn xuống âm thầm (năm 1981), hợp tác xã Đại Phong đã hết vai trò lịch sử. Nó đầu thai để sống kiếp khác, bé nhỏ hơn, nhưng vẫn mang tên cũ (Đai Phong). Nó không trực tiếp làm nông nghiệp mà sống bằng cách cung cấp các dịch vụ nông nghiệp trong phạm vi địa phương. Chỉ có thế. Nhưng đến năm 2022 vẫn có lễ kỷ niệm 60 năm thành lập Chỉ có lãnh đạo địa phương (Quảng Bình) tới dự, và được nhận tấm bằng khen do địa phương cấp… Vinh quang đã thuộc về quá khứ.

4. Hai mốc thời gian đánh dấu sự tỉnh ngộ, sửa sai

   a- Năm 1981, có chỉ thị Khoán 100 của ban Bí thư.

Muốn hay không đây là sự thừa nhận chân lý thuộc về ông Kim Ngọc, tác giả của khoán hộ. Đây là bước mở đầu vạch ra cách làm ăn ngược đời của hợp tác xã, để thay bằng cách giao khoán. Đất đai cùa hợp tác xã được chia cho các hộ nông dân, với quyền tự quyết và với nghĩa vụ là nộp thuế theo định mức

   b- Năm 1988, có  Khoán 10 (Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị)

Đó là bước phát triển tiếp theo, nhưng có ý kiến coi đó vẫn chỉ là “con đẻ” của Kim Ngọc. Sự thừa nhận sai lầm còn triệt để hơn trong chỉ thị Khoán 100, Lần này, dường như đất đai được trao hẳn cho nông dân cá thể (thời hạn tới 50 năm và sẽ được trao tiếp nếu không vi phạm gì). Hộ nông dân được coi là một đơn vị sản xuất, có toàn quyền quyết định cách thức làm ăn.

Sau khi nộp đủ nghĩa vụ (thuế) hộ nông dân có toàn quyền sử dụng thành quả do mình làm ra (sử dụng, chế biến, bán, đầu tư, cho vay)…

One thought on “Bài hát Giải Phóng Miền Nam: Một di sản lịch sử (Bài 7a)

  1. Pingback: Bài hát Giải Phóng Miền Nam: Một di sản lịch sử (Bài 7b) | Nghiên Cứu Lịch Sử

Bình luận về bài viết này