Nguyễn Quốc Bảo
10/9/2025
Mở Đầu
Bản báo cáo 2045 đặt mốc thời gian đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước VNDCCH. Mục tiêu là trở thành nước phát triển, thu nhập cao; GDP/người khoảng 15.000 USD (so với khoảng 4.800 USD hiện nay) và duy trì tăng trưởng 6–7% mỗi năm trong suốt 20 năm. Ba “trục” trọng tâm được nêu là đổi mới sáng tạo – công nghệ (AI, năng lượng mới, chuyển đổi số), phát triển bền vững – xanh (môi trường, năng lượng sạch, biến đổi khí hậu), và coi kinh tế tư nhân là động lực bên cạnh kinh tế nhà nước. Thực tế kèm theo các nghịch lý: nguy cơ già trước khi giàu khi dân số bắt đầu già hóa nhanh; FDI rút lui lặng lẽ do nhiều tập đoàn ngừng mở rộng và chuyển sang Ấn Độ, Indonesia; năng suất lao động thấp vì chủ yếu ráp máy với giá trị gia tăng nhỏ; niềm tin thể chế yếu khiến người dân giữ vàng, đưa tiền ra ngoại quốc và kiều bào ít dám đầu tư; đất đai mập mờ do không sở hữu thực nên khó tích lũy bền vững. Ý nghĩa chính trị của báo cáo là lời hứa 2045 hay khẩu hiệu, mà đảng rất giỏi trong trường hợp này, nhằm huy động niềm tin và chỉ đạo toàn hệ thống; nó không phải bản kế hoạch chi tiết theo kiểu kỹ trị, mà là một kim chỉ nam mang tính biểu tượng mà thôi.
Tiểu luận phân tích khoa học về hiện trạng báo cáo này.
I
Tổng Bí thư Tô Lâm đề cập bốn nghị quyết trọng yếu: Nghị quyết 57-NQ/TW (22/12/2024) về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW (24/1/2025) về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 66-NQ/TW (2025) về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết 68-NQ/TW (4/5/2025) về phát triển kinh tế tư nhân. Tổng Bí thư nhấn mạnh đây là bốn trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ để đất nước cất cánh, hướng tới mục tiêu phát triển và thu nhập cao vào năm 2045.
II
“Già trước khi giàu” là xu hướng đáng lo ngại. Thông tin từ báo chí trong nước cho thấy VietnamNet (tháng 3/2025) dự báo Việt Nam kết thúc thời kỳ dân số vàng và chuyển sang xã hội già khoảng năm 2038; nếu không tận dụng được ưu thế dân số, Việt Nam có thể già hóa trước khi trở nên giàu có. VnExpress (tháng 3/2025) nêu cùng cảnh báo về tốc độ già hóa nhanh khiến nước Việt Nam dễ rơi vào cảnh “chưa giàu đã già”. Tuổi Trẻ (tháng 5/2024) trích ADB dự báo đến năm 2037, người trên 60 tuổi chiếm khoảng 20% dân số và quá trình chuyển đổi diễn ra rất nhanh. Báo Thanh Niên (tháng 5/2025) nhấn mạnh Việt Nam bắt đầu già hóa từ năm 2011 và có thể thành xã hội già chỉ trong 18–25 năm, nhanh hơn nhiều nước phát triển. Các nguồn khác như VOV2 và Thời báo Ngân hàng cho rằng đến năm 2049, tỷ lệ người cao tuổi có thể lên tới 25% dân số, đòi hỏi chiến lược thích ứng phù hợp. Nhận định của các tổ chức quốc tế cho thấy Ngân hàng Thế giới cảnh báo Việt Nam bước vào xã hội già khi mức phát triển và thu nhập còn thấp, chi phí chăm sóc già có thể tăng 1,4–4,6% GDP và tăng trưởng dài hạn giảm khoảng 0,9 điểm phần trăm; ADB nhấn mạnh già hóa rất nhanh nhưng nếu tận dụng tốt cổ tức bạc từ người cao tuổi còn sức lao động, GDP có thể tăng thêm khoảng 1,1%; theo IMF và các chuyên gia, Việt Nam có nguy cơ “growing old before it grows rich”. Tổng hợp lại, báo chí Việt Nam nêu mốc 2036–2039 cho chuyển đổi sang xã hội già và thách thức năng suất – tăng trưởng; WB cảnh báo rủi ro tăng trưởng và tài chính công; ADB chỉ ra cơ hội cổ tức bạc; IMF nhấn mạnh bẫy nhân khẩu. Kết luận rút ra là nhiều nguồn trong và ngoài nước đều nhấn mạnh nguy cơ già hóa trước khi giàu nếu không cải cách mạnh, nâng năng suất, chăm sóc xã hội và phát triển hài hòa.
III
Thực trạng “chỉ ráp máy” thể hiện ở chỗ phần lớn xuất khẩu đến từ điện thoại, điện tử, dệt may, da giày, nhưng chủ yếu gia công lắp ráp cho chuỗi cung ứng quốc tế. Giá trị gia tăng thấp, như một chiếc điện thoại 500 USD nhưng phần giữ lại ở Việt Nam chỉ khoảng 30–40 USD. Theo số liệu WB, năng suất lao động Việt Nam chỉ bằng 7–8% Singapore, 17% Malaysia, 36% Thái Lan. Nguyên nhân khó tăng năng suất gồm phụ thuộc FDI tận dụng lao động rẻ với ít chuyển giao công nghệ lõi; thiếu công nghiệp hỗ trợ nên linh kiện, nguyên liệu chủ yếu nhập khẩu; kỹ năng lao động phổ biến ở mức trung bình, thiếu kỹ sư R&D và quản trị; chi R&D chỉ khoảng 0,5% GDP so với hơn 4% ở Hàn Quốc. Con đường thoát là đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ để giảm nhập khẩu linh kiện; đầu tư cho R&D và đổi mới sáng tạo để không chỉ lắp ráp mà còn thiết kế – phát triển công nghệ; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong AI, công nghệ sinh học, vật liệu mới, năng lượng sạch; nâng cấp doanh nghiệp Việt để tham gia sâu chuỗi giá trị thay vì chỉ làm thầu phụ; và áp dụng chuyển đổi số – tự động hóa. Kết luận là nếu dừng ở gia công, Việt Nam khó tăng năng suất và nguy cơ già trước khi giàu sẽ hiện thực; cần bước vào khâu thiết kế – công nghệ – sáng tạo để đạt mục tiêu 2045.
IV
Giáo dục Việt Nam thay đổi liên miên: chương trình, sách giáo khoa, phương pháp, thi cử liên tục biến động nhưng thiếu cải cách nền tảng dài hạn, khiến học sinh, phụ huynh, giáo viên quay như chong chóng. Mô hình học để thi lấn át học để sáng tạo; tỷ lệ đi học cao nhưng chất lượng đào tạo nghề, kỹ sư, nghiên cứu sinh còn hạn; chảy máu chất xám khi sinh viên giỏi du học rồi ở lại nước ngoài. Tác động là lao động trình độ thấp dễ bị thay thế trong thời đại tự động hóa và AI; chuỗi giá trị khó bứt phá khi nền tảng nhân lực yếu; tăng trưởng kém bền vững khi lợi thế lao động vàng phai dần. Một nền giáo dục giá trị cao phải tạo con người sáng tạo, biết tự học và đổi mới; kết nối với khoa học – công nghệ – thị trường; và sản sinh lớp chuyên gia, nhà nghiên cứu, doanh nhân có tầm. Trong hiện trạng, giáo dục lại chủ yếu tạo ra lao động phổ thông nâng cấp và một lớp cử nhân thừa thầy thiếu thợ. Nếu tiếp tục cải cách theo phong trào mà không có chiến lược 20–30 năm ổn định, năng suất không bứt phá, Việt Nam dễ già trước khi giàu và mục tiêu 15.000 USD/người năm 2045 xa vời.
V
Vị trí chính trị không đồng nghĩa chuyên môn. Tổng Bí thư – dù xuất thân ngành nào – là lãnh đạo chính trị cao nhất, đưa ra định hướng và tập hợp trí tuệ tập thể; các mục tiêu như tăng trưởng 6%/năm hay 15.000 USD/người vào 2045 mang tính chính trị – chiến lược hơn là dự báo kỹ trị. Ở Việt Nam, kinh tế luôn được định hướng từ chính trị, người đứng đầu Đảng vạch tầm nhìn, còn Chính phủ, Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Bộ Tài chính và các viện nghiên cứu cụ thể hóa bằng số liệu và chính sách; do đó phát biểu kinh tế của lãnh đạo xuất thân Đại tướng công an thường là diễn ngôn chính trị, nhằm khẳng định quyết tâm và tạo động lực. Ưu điểm là tạo quyết tâm và củng cố thông điệp “kinh tế đi kèm an ninh – ổn định”; nhược điểm là nguy cơ chỉ tiêu mang tính biểu tượng, lẫn lộn vai trò, thiếu phản biện khoa học và rơi vào bệnh thành tích khi không tính đủ nền tảng như giáo dục, năng suất, đổi mới. Trong bối cảnh này, Tô Lâm nói về 2045 với vai trò người phát ngôn chính trị cho tầm nhìn phát triển; cái thiếu là cầu nối giữa tầm nhìn và phân tích khoa học. Nếu có cơ chế phản biện chính sách mạnh, ý tưởng 15.000 USD năm 2045 sẽ được kiểm chứng và điều chỉnh; nếu chỉ là mệnh lệnh, khẩu hiệu dễ hình thức. Kết luận là một đại tướng công an khi làm lãnh đạo Đảng không cần và cũng không thể thành chuyên gia kinh tế; họ nêu mục tiêu, còn làm thế nào thuộc về bộ máy chuyên môn cùng trí thức, doanh nghiệp và xã hội dân sự.
VI
Bối cảnh chính trị – kinh tế cho thấy sự dịch chuyển tư duy từ “kinh tế nhà nước chủ đạo” sang thừa nhận “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế” trong Văn kiện Đại hội XIII (2021), và đến 2025 ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW (4/5/2025) về phát triển kinh tế tư nhân. Nội dung nghị quyết xác định kinh tế tư nhân là một trong những động lực phát triển kinh tế – xã hội cùng với kinh tế nhà nước và tập thể; mục tiêu đến 2045 là hình thành đội ngũ doanh nghiệp tư nhân có năng lực cạnh tranh khu vực và toàn cầu, tạo môi trường bình đẳng với Doanh Nghiệp Nhà Nước DNNN, và thu hút tư nhân vào công nghệ cao, năng lượng sạch, AI, logistics. Ý nghĩa tích cực là khuyến khích đổi mới sáng tạo và giảm độc quyền; nhưng nghịch lý là tư nhân còn nhỏ lẻ, ít doanh nghiệp tầm quốc tế; nếu chính sách thiếu minh bạch sẽ sinh thân hữu; và mâu thuẫn khi vừa muốn dựa tư nhân, vừa giữ vai trò chủ đạo của DNNN. Kết nối với 2045, giả định cốt lõi là tư nhân trở thành động cơ chính thay vì chỉ dựa FDI hay DNNN; nói cách khác, đây là dịch chuyển quan trọng từ “quốc doanh chủ đạo” sang “tư nhân song hành”. Kết luận là trụ cột tư nhân chỉ có giá trị khi đi cùng cải cách thể chế tạo cạnh tranh bình đẳng, hạn chế thân hữu – độc quyền – tham nhũng, và đầu tư mạnh vào giáo dục – công nghệ để tư nhân không dừng ở lắp ráp.
VII
Việt Nam dựa vào lắp ráp – xuất khẩu, với hơn 70% kim ngạch đến từ khu vực FDI như Samsung, Intel, Foxconn, Nike. Cấu trúc xuất khẩu thiên về gia công điện tử, dệt may, giày dép và phụ thuộc chuỗi cung ứng toàn cầu; Mỹ là khách hàng số một, gần 30% tổng xuất khẩu, đặc biệt ở điện tử, dệt may, đồ gỗ. Trong khi đó, Mỹ thực thi reshoring qua IRA, CHIPS Act và các gói công nghiệp để kéo các ngành chiến lược về nước, giảm phụ thuộc Trung Quốc; nếu “sản xuất tại Mỹ” đạt tỉ lệ cao ở một số lĩnh vực, Việt Nam sẽ mất lợi thế. Rủi ro thuế quan lớn vì Mỹ từng áp 25–46% lên thép, nhôm, gỗ và có thể nhắm dệt may, thủy sản khi cáo buộc trợ cấp hay lẩn tránh xuất xứ; làn sóng China+1 từng có lợi ngắn hạn cho Việt Nam nhưng cũng khiến nguồn gốc bị soi kỹ hơn, đặt ta vào thế phụ thuộc người mua – dễ bị đánh thuế. Xuất khẩu sang Trung Quốc khó vì họ vừa là đối thủ sản xuất vừa bảo hộ mạnh và tự chủ nhiều mặt hàng; Việt Nam chủ yếu bán nông sản – nguyên liệu thô giá trị thấp. Với Ấn Độ, sự bảo hộ cao và cạnh tranh trực tiếp trong dệt may, dược, IT hạn chế cơ hội; với Indonesia, hướng công nghiệp hóa bảo hộ khiến thị trường này không thể thay Mỹ. Bẫy “một khách hàng khổng lồ” là ở đó, chính sách Mỹ, xu hướng sản xuất tại chỗ và biến động chính trị đều có thể làm đổi chiều. Lối thoát là đa dạng hóa thị trường EU, Nhật, Hàn, Trung Đông, châu Phi đi kèm nâng chất lượng – thương hiệu; thoát lắp ráp để leo lên thiết kế – công nghệ – thương hiệu; tận dụng EVFTA, CPTPP, RCEP để giảm rủi ro; và đi theo chiến lược kép tận dụng Mỹ khi cửa mở và chủ động phương án khi cửa khép. Kết luận: ráp máy dẫn tới lệ thuộc Mỹ và nguy cơ sụp trụ nếu chính sách thay đổi; xuất khẩu sang Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia không thể thay, nên phải nhảy khỏi bẫy lắp ráp để giữ kỳ vọng 2045.
EVFTA (EU–Vietnam Free Trade Agreement): Hiệp định Thương mại Tự do giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam. Nó cắt giảm đáng kể thuế quan, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, và đầu tư giữa hai bên.
CPTPP (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership): Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, gồm 11 quốc gia khu vực châu Á–Thái Bình Dương như Nhật Bản, Canada, Australia, Việt Nam, Singapore… Đây là phiên bản được giữ lại và sửa đổi sau khi Mỹ rút khỏi TPP ban đầu.
RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership): Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, bao gồm 15 nước châu Á–Thái Bình Dương, trong đó có ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand. Đây là FTA lớn nhất thế giới tính theo GDP và dân số.
VIII
Dấu hiệu FDI rút lui lặng lẽ thể hiện rõ, nhiều doanh nghiệp Nhật chuyển nhà máy sang Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan; khảo sát JETRO 2023–2024 cho thấy ý định mở rộng ở Việt Nam giảm, ý định thu hẹp tăng. Ở Hàn Quốc, Samsung giữ hiện diện lớn nhưng ngừng mở rộng ở Bắc Ninh, Thái Nguyên và dồn lực sang Ấn Độ; một số tập đoàn Hàn đưa dây chuyền tới Ấn Độ để phục vụ thị trường 1,4 tỉ dân. Với Âu – Mỹ, sau đợt China+1 ban đầu, nhiều công ty phản ánh khó khăn thủ tục, chi phí năng lượng – logistics và tính không ổn định pháp luật, nên chọn Malaysia hoặc Indonesia. Lý do rút lui từ từ gồm chi phí lao động Việt Nam tăng; cạnh tranh từ Ấn Độ, Indonesia với thị trường lớn và hạ tầng cải thiện; bất định chính sách trong nước; già hóa dân số làm hẹp nguồn lao động trẻ – rẻ; và tiêu chuẩn xanh – lao động của Mỹ – EU siết chặt. Nguy cơ là nếu Việt Nam chỉ là nơi ráp giá rẻ, khi chi phí tăng hoặc chuỗi cung ứng dịch chuyển, nhà đầu tư sẽ rút êm; bẫy FDI là thu hút nhiều vốn nhưng giá trị để lại thấp, khi rút thì gần như trắng tay. “Đùa giai” thành sự thật khi vốn vào nhanh, rút lặng lẽ qua việc không mở rộng, chuyển dây chuyền, để lại khu công nghiệp trống và lao động mất việc. Kết luận: nếu không cải cách thể chế, nâng chất lượng lao động và công nghiệp hỗ trợ, FDI sẽ dịch chuyển sang Ấn Độ, Indonesia, Philippines; đến 2045, thay vì hùng cường, Việt Nam có nguy cơ thành xưởng ráp lỗi thời.
IX
Về SCO và tác động kinh tế: tại Hội nghị thượng đỉnh SCO 2025 ở Thiên Tân, Việt Nam tham dự với vai trò đối tác đối thoại, thúc đẩy hợp tác về hạ tầng chiến lược, nông nghiệp, năng lượng và năng lượng hạt nhân, chuyển đổi số và chuyển dịch xanh; Thủ tướng nhấn mạnh đa phương hóa – đa dạng hóa, cam kết hòa bình, tự lực, hợp tác; bên lề có các cuộc gặp song phương về thương mại – đầu tư với Pakistan (khoáng sản, năng lượng mặt trời), Ấn Độ, Malaysia và các nước SCO khác. Tuy nhiên SCO vẫn là sân chơi chính trị – an ninh nhiều hơn kinh tế sâu: chưa có FTA như ASEAN và liên kết kinh tế kém chặt so với RCEP hay CPTPP. Một số đề xuất như phát hành trái phiếu chung, thiết lập hệ thống thanh toán – lưu ký nội vùng, hay ngân hàng đầu tư chung mới dừng ở ý tưởng nhằm tăng hợp tác tài chính và che chắn rủi ro bên ngoài. Tóm lại, SCO có tác dụng nhưng chưa rõ rệt ngay, mở rộng đối tác và uy tín đã đạt, kết nối hạ tầng – kinh tế – kỹ thuật có cam kết nhưng cần thời gian, các công cụ tài chính nội khối mới ở giai đoạn đề xuất, và không thể thay thế Mỹ – EU – Trung Quốc; Việt Nam vẫn phải đa dạng hóa FTA. Kết luận: ý nghĩa chủ yếu là chính trị – ngoại giao; tác động kinh tế trực tiếp chưa tức thời nhưng mở ra cơ hội nếu được cụ thể hóa.
X
Thực tế “ngừng mở mang” thể hiện ở việc nhiều dự án FDI chậm lại hoặc đình chỉ mở rộng: Samsung, LG gần như không công bố thêm nhà máy; doanh nghiệp Nhật giảm mở rộng và chuyển hướng; FDI Âu – Mỹ ngại thủ tục, chi phí năng lượng – logistics nên chọn điểm đến khác. Đây chính là rút lui trong yên lặng: không phá bỏ hiện hữu nhưng không đầu tư thêm, đồng nghĩa đóng băng tăng trưởng. Hệ quả việc làm là không tạo thêm chỗ cho lao động mới; một số dây chuyền rút đi gây mất việc; ước tính 2024–2025 có thể xuất hiện tới 2 triệu, có thể rất nhiều hơn, lao động dư thừa, nhất là dệt may – da giày và điện tử – lắp ráp khi chuyển dần sang Ấn Độ, Mexico. Căn nguyên đến từ thị trường Mỹ siết (thuế 25–46%), FDI không mở rộng và tự động hóa – AI – robot thay thế lao động phổ thông; kết hợp ba yếu tố này tạo nguy cơ thất nghiệp diện rộng. Kết luận: đây là kịch bản nghiêm túc khiến công nghiệp chững lại; nếu không có công nghiệp nội địa bù đắp, 2 triệu chỉ là con số nhỏ khởi đầu.
XI
Sức mua giảm vì thất nghiệp tăng và lương thấp trong khi giá điện, xăng, thực phẩm, y tế, học phí tăng. Hộ gia đình chuyển sang tiêu dùng thiết yếu, giảm mua hàng ngoại và hoãn kế hoạch lớn như xe hơi, nhà ở; dịch vụ – giải trí ế khách, thu nhập lao động dịch vụ giảm; tâm lý xã hội là thắt lưng buộc bụng và co cụm chi tiêu. Hệ quả dây chuyền là doanh nghiệp bán chậm, tồn kho cao, phá sản tăng; ngân hàng đối mặt nợ xấu; bất động sản giảm giá, dự án đình trệ, lao động xây dựng mất việc; ngân sách thu hẹp. So sánh cho thấy Trung Quốc cũng ở trạng thái tương tự với sức mua yếu, thất nghiệp thanh niên và bất động sản suy giảm; Việt Nam nếu không thoát bẫy FDI + ráp máy có thể đi cùng con đường. Kết luận: pouvoir d’achat có thể đi tàu ngầm; từ “VN hùng cường 2045” có thể thành “VN thắt lưng buộc bụng 2045” nếu không nâng năng suất nội địa, công nghiệp hỗ trợ và năng lực doanh nghiệp Việt.
XII
Người Việt chuộng vàng do truyền thống giữ của trong bối cảnh chiến tranh, đổi tiền, lạm phát; niềm tin vào tiền đồng yếu; chứng khoán thiếu minh bạch nên mỗi khi bất ổn, dòng tiền chạy vào vàng thay vì sản xuất. Dòng tiền cũng chạy ra ngoại quốc khi tầng lớp khá giả mở tài khoản hoặc mua bất động sản ở Singapore, Mỹ, Úc, Canada để bảo hiểm tài sản trước rủi ro thể chế; kiều hối vào nhiều nhưng cũng có dòng ngược ra ngoài, làm suy giảm vốn tích lũy quốc gia. Bất động sản trở thành tài sản lớn nhất của hộ gia đình (>60%), nhưng về pháp lý đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý, người dân chỉ có quyền sử dụng đất theo thời hạn; quyền sở hữu mong manh và có thể thu hồi, tạo ra một bong bóng niềm tin. Vòng luẩn quẩn là không tin tiền đồng thì giữ vàng, không tin vàng trong nước thì chuyển ra ngoài, không tin đầu tư sản xuất thì ôm đất; nhưng vàng bất động, tiền ngoại rời khỏi nền, và bất động sản dễ thành bong bóng không tạo giá trị sản xuất. Kết luận: nỗi sợ có cơ sở, nhưng ba nơi trú ẩn ấy không giúp kinh tế lớn mạnh; dù có nhiều kiều hối và tiền trong đất, năng suất quốc gia vẫn thấp nên khó giàu thật sự.
XIII
Về Việt kiều và đầu tư, mỗi năm kiều hối khoảng 18–20 tỉ USD, thuộc nhóm cao nhất thế giới, nhưng 70–80% cho tiêu dùng, mua nhà, vàng chứ không vào sản xuất – kinh doanh dài hạn; FDI từ Việt kiều rất nhỏ so với tiềm lực, trái ngược cộng đồng Do Thái, Ấn Độ, Trung Quốc hải ngoại. Lý do Việt kiều không tin là rủi ro pháp lý vì không có sở hữu đất thực, môi trường kinh doanh thiếu minh bạch với thủ tục xin–cho, bảo hộ pháp lý yếu khi tranh chấp, chính sách biến động và ký ức tịch thu tài sản sau 1975. Hệ quả là Việt Nam đánh mất nguồn vốn và tri thức lớn, trong khi Trung Quốc, Ấn Độ, Israel tận dụng rất tốt mạng lưới hải ngoại. Kết luận: sáu triệu Việt kiều là nguồn lực lớn nhưng chủ yếu nuôi tiêu dùng; cốt lõi là thiếu niềm tin vào thể chế – sở hữu – pháp lý; nếu không cải thiện, Việt Nam sẽ tiếp tục có kiều hối mà không có kiều đầu tư.
XIV
So sánh Trung Quốc – Việt Nam: về quyền sở hữu và vốn tích lũy, Trung Quốc cũng sở hữu toàn dân nhưng cho phép quyền sở hữu nhà ở vĩnh viễn với cơ chế gia hạn 70 năm rõ ràng, tạo niềm tin để tích lũy vốn nội địa; Việt Nam chỉ có “sổ đỏ” quyền sử dụng nên vốn chảy sang vàng, đô la hoặc ra ngoại quốc. Về sản xuất nội địa, Trung Quốc có chuỗi cung ứng gần hoàn chỉnh, từ nguyên liệu tới thương hiệu như Huawei, BYD, CATL, Lenovo; Việt Nam chủ yếu lắp ráp thuê, công nghiệp hỗ trợ yếu và phụ thuộc 70% linh kiện nhập khẩu. Về quy mô thị trường, Trung Quốc có 1,4 tỉ dân và hơn 400 triệu trung lưu, đủ lớn để đỡ xuất khẩu khi bị siết; Việt Nam 100 triệu dân với thu nhập khoảng 5.000 USD nên sức mua yếu và lệ thuộc Mỹ/EU. Về kiều bào, Hoa kiều là mạng lưới toàn cầu đổ vốn và mở thị trường cho công nghiệp Trung Quốc; sáu triệu Việt kiều thiếu niềm tin thể chế nên không dám đầu tư. Về dân số, Trung Quốc già hóa nhanh nhưng già sau khi đã giàu tương đối (GDP/người khoảng 13.000 USD danh nghĩa và khoảng 29.000 USD theo PPP), còn Việt Nam đối mặt “già trước khi giàu”. Tóm lại, Trung Quốc không mắc những nhược điểm ráp máy – phụ thuộc kiều hối – đất đai mập mờ – sức mua yếu theo cách Việt Nam đang mắc vì đã xây được công nghiệp nội địa mạnh, thị trường lớn, tích lũy vốn xã hội và niềm tin kiều bào; dẫu vậy, Trung Quốc có các nhược điểm khác như nợ công lớn, bong bóng bất động sản, kiểm soát chính trị chặt và già hóa rất nhanh. Về số liệu GDP/người của Trung Quốc, theo WEO 2025, GDP/người theo PPP khoảng 28.978 USD; theo dữ liệu NBS 2024 là 95.749 nhân dân tệ, tương đương khoảng 13.445 USD danh nghĩa; CEIC ghi 13.306 USD cho năm 2024 so với 12.959 USD năm 2023. Đánh giá thực tế là danh nghĩa khoảng 13.000–13.500 USD, còn theo PPP khoảng 29.000 USD.