Phát hiện mới về đình An Khánh

Lâm Hoài Phương

TT Dịch Thuật Hán Nôm  

Viện Lịch Sử dòng họ

Tóm tắt:

Từ trước tới nay các phương tiện truyền thông khi đề cập đến Đình An Khánh, tọa lạc tại Phường Thủ Thiêm, T. P Thủ Đức, T.P. HCM, đều cho rằng đình đã có từ 200-300 năm trước, lại có sắc phong của vua Tự Đức ban cho. Họ căn cứ vào sách của PGS.TS Tôn Nữ Quỳnh Trân (2010) Thủ Thiêm – quá khứ và tương lai,  NXB Tổng Hợp TP.HCM, nhưng Sách này lại trích dẫn từ các bài báo xuân Quận 2 của  tác giả Hải Đường viết năm 1998, 2000.

Nhân sự kiện đình được xây dựng lại năm 2023 , chúng tôi có tiếp xúc với Trung Tâm Bảo tồn di tích TP HCM và được T.T. cung cấp hinh ảnh, tư liệu hiện vật của đình, chúng tôi cũng trực tiếp đến đình xác minh. Thông qua các văn tự Hán Nôm trên các hiện vật chúng tôi đã phát hiện những điều mới sau :

  • Đình chỉ được lập khoảng năm 1918.
  • Đình không có sắc phong dưới thời Vua Tự Đức
  • Chủ nhân ngôi mộ, tức ngôi mộ Ông thần thành Hoàng của đình, nằm trong khuôn viên đình trước khi di dời là Ông Trần Tri.
  • Hành trạng của Ông Trần Tri dưới thời triều Nguyễn. 

 

A Dẫn nhập

Nhân sự kiện Đình An Khánh được phục dựng tại khu đất mới vào tháng 5 năm 2023 , trên các hệ thống truyền thông chúng ta thấy các tiêu đề như:

  • Đình An Khánh 300 tuổi trở về “bán đảo” Thủ Thiêm ,
  • Đình được xây dựng từ cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18 (1679 đến 1725) là một trong số các đình làng cổ nhất tại Sài gòn Gia Định xưa.
  • Đình có một sắc phong trên một mảnh lụa.do vua Tự Đức phong năm 1832[1] với nội dung “ Bình Dương huyện, Gia Định tỉnh, Tân Bình phủ, Bình Trị tổng, An Lợi , Trần Thống quân Hà Quảng Thống sư, danh lộc tri thủy bộ chi thần, tước sắc Thần hoàng bổn cảnh ” .(tr.87)

Phần dịch :”Vị thần họ Trần, thống soái đạo quân Hà – Quảng ( Hà Tỉnh -Quảng Bình , chỉ huy cơ doanh Lộc tri thủy bộ xã An Lợi, tổng Bình Trị Trung, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định được sắc vua ban cho tước vị Thần hoàng bổn cảnh”

  • Hai bức hoành phi do Mộc Ân các chủ đò cúng năm 1858 (tr.87)

Các nội dung trên được  tác giả Hải Đường viết trên báo Quận 2 xuân 1998  tr.9 và bài “ Ngày xuân du khảo những chứng tích lịch sử quý hiếm ở quận 2” báo Xuân quận 2 năm 2000 tr.27 . Sau đó PGS.TS Tôn Nữ Quỳnh Trân[2] đã cẩn trọng trích lại trong sách Thủ Thiêm – quá khứ và tương lai, (NXB Tổng Hợp TP.HCM năm 2010).

Còn có một bài báo ngày 24-09-2012 [3] viết : Ông Thọ, thủ từ đời thứ 5 nói :“Đình thờ thành hoàng là Hà Quãng Thống sư, một vị tướng dũng mãnh. Trong đình còn giữ lại sắc phong. Năm 1852 triều Nguyễn có sắc phong cho thần Thành Hoàng là Quãng hậu chánh trực hữu thiện đôn trung/ngưng để nhân dân phụng thờ, “ do thần đã giúp nước, che chở nhân dân nhiều năm linh ứng”. Ông nói thêm : “Ban giải tỏa mặt bằng Thủ Thiêm đã ra quyết định giải tỏa đình An Khánh, chỉ bồi thường 380 triệu đồng tiền kiến trúc. Do không đền bù đất đai nên chúng tôi không biết dời đình đi đâu. Nhân ngày hội đình, nhân dân tụ hội rất đông, bèn quyết định đưa lên thành phố tấm sắc phong. Thế là thành phố rút lại lệnh giải tỏa đình An Khánh”.

Ông còn đưa ra văn bản ban hành ngày 14-5-2012 của Ban Quản lý xây dựng trung tâm triển lãm quy hoạch TP Hồ Chí Minh cho xem. Công văn khẩn viết: “Sau khi Ban quý tế đình thần có báo cáo với UBND quận 2 và Ban giải phóng mặt bằng về việc Đình Thần đã được sắc phong vào năm 1852, Ban giải phóng mặt bằng quận 2 đã rút lại quyết định bồi thường (3/2011) và đến nay chưa có phương án thực hiện tiếp theo”.

Sau đây chúng ta hãy xem xét những thông tin của ngôi đình nói trên đúng hay sai thông qua những tài liệu về địa dư và lịch sử.

B Các dữ kiện để xác minh về địa lý, lịch sử của đình

  1. Lịch sử  làng An Khánh:
    • Xã An Lợi

Dưới thời nhà Nguyễn, theo sách Gia Định thành Thông Chí [4] của Trịnh Hoài Đức,  vị trí đìn h An Khánh xưa và nay thuộc thôn Bình Quới[5], tổng An Thủy Thượng, huyện Bình An, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa[6].

Vào triều Gia Long các thôn An Lợi, An Tài , Bình Quới (Quí) thuộc tổng An Thủy , huyện Bình An, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa[7]. Đó là năm (1818 – theo SG GĐ ký ức lịch sữ Văn Hóa – NNC Nguyễn ngọc Trảng, 2018 tr.39 )

  • Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) tổng An Thủy chia làm 4 tổng: thượng, trung, hạ, nam. Tổng An Thủy Thượng có 7 xã/thôn: An Lợi, An Tài, Bình Quới, Bình Khánh (mới lập) …và vẫn thuộc huyện Bình An, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa.
  • Năm 1837 Huyện Ngãi An được thành lập, thôn Bình Quới đổi thành thôn Giai Quý.
  • Sau khi Pháp vào chiếm đóng Gia Định (1859) đã đổi tên thôn An Lợi cũ thành An Lợi Đông , và thôn An Lợi Xã do  xác nhập  2 thôn An Tài và Giai Quý . 
  • Từ 5-1-1876 Ba thôn An Lợi Xã, An Lợi Đông, Bình Khánh nhập về Gia Định
  • Từ 1-1-1900 được gọi là làng thuộc tổng Bình trị Trung.
  • Từ ngày 1-1-1917 tổng Bình Trị Trung giải thể .
  • Từ ngày 1-1-1918, gọi là làng An Lợi Xã , thuộc tổng An Bình, quận Thủ Đức (mới lập), tỉnh Gia Định .
  • Từ ngày1-1-1928 làng An Đông Xã được thành lập do xác nhập 2 làng An Lợi Đông và và An Lợi Xã.
  • Ngày 9-12-1939 làng An Đông Xã nhập với làng Bình Khánh thành làng An Khánh
    • Làng Bình Khánh :
  • Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) tổng An Thủy chia làm 4 tổng thượng, trung, hạ, nam. Tổng An Thủy Thượng có 7 xã, thôn bao gồm thôn An Lợi và thôn Bình Khánh (mới lập) và vẫn thuộc huyện Bình An, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa.
  • Trải qua triều Thiệu Trị Tự Đức đến đầu Pháp thuộc đổi thuộc tổng Bình Trị Trung hạt thanh tra Sài Gòn, được sáp nhập với thôn Giai Quý , thôn Giai Quý giải thể
  • Từ 5-1-1876 goi là làng thuộc hạt tham biện Sài Gòn, rồi Bình Hòa
  • Từ 16-12-1885 thuộc hạt tham biện Gia Định
  • Từ ngày 1-1-1900 thuộc tỉnh Gia Định
  • Ngày 1-1-1918 lại thuộc tổng An Bình, quận Thủ Đức (mới lập), cùng tỉnh, vì tổng Bình Trị Trung giải thể..
  1. Vị trí đình An Khánh
  • Trước khi giải tỏa năm 2014: Đình cũ tọa lạc tại số 2/1 đường Lương Định Của , Phường An Khánh , quận 2, nay là TP Thủ Đức
  • Sau khi xây lại năm 2023:Đình mới cách vị trí cũ vài chục mét và là một phần trong tổng thể công viên văn hóa trung tâm bên sông Sài Gòn của khu đô thị mới Thủ Thiêm.

Đình sau khi giải tỏa khu dân cư năm  2014  

                    

Đình mới dựng năm 2023

  

  1. Các hiện vật trong đình :

            Chúng ta cần khảo sát  thêm các ảnh chụp hiện vật quan trọng có liên quan về việc hình thành đình do T.T Bảo Tồn di tích TP HCM cung cấp, Ba bức hoành phi sơn son thếp vàng này là:

  • Hoành phi
    • Hoành 1: 國安家慶

QUỐC AN GIA KHÁNH

Vì muốn có chữ An Khánh là tên đình nên người viết chọn câu “Quốc An Gia Khánh” [nhờ nước bình an mà gia đình được phúc], thay vì “Quốc Ân Gia Khánh” là câu  thường dùng khi làm bức hoành với nghĩa : Nhờ ơn nước mà gia đình được phúc.

Lạc khoản:     龍飛戊午年仲夏吉立

Long phi mậu ngọ niên trọng hạ cát lập

(Lập vào ngày tốt tháng 5 năm mậu ngọ -1918)

恩安利蔓 弍第子同奉供

                        Mộc ân An Lợi man[8] nhị đệ tử đồng phụng cung

            (Ơn Phật, hai đệ tử vùng sông nước An Lợi cùng dâng cúng)

Giải thích các từ dùng trong lạc khoàn:

“ long phi” : dùng chữ “ Long Phi” để tránh né tên triều đại. Năm 1859 Pháp đánh chiếm Biên Hòa, từ đó về sau địa phương nằm dưới sự đô hộ của Pháp,   

“ mậu ngọ” : có các năm …, 1858, 1918…Nếu bức hoành làm năm 1858 chắc chắn đã ghi “Tự Đức mậu ngọ niên trọng hạ cát lập “. Năm 1918 là năm dưới triều Vua  Khải Định, nếu vùng đất Biên Hòa còn tự chủ đã ghi : “ Khải Định mậu ngọ niên trọng hạ cát lập”, nhưng thời điểm đó Pháp đô hộ vùng đất này nên phải ghi “ Long Phi mậu ngọ niên trọng hạ cát lập” .

“mộc ân” :   có nghĩa là thấm nhuần ân đức.

Trước tiên hãy nói về từ ghép Ân Quang 恩 光. Đây là từ xuất hiện nhiều trong Tứ Thư & Ngũ Kinh. Nó chỉ cho ân đức của trời đất, ân điển của vua quan, ân nghĩa của cha mẹ v.v….Tuy nhiên, người đầu tiên sử dụng từ Mộc Ân Quang  沐 恩 光, có nghĩa là được tắm gội ân điển, có lẽ là Lưu Thiệu 劉 紹 đời nhà Nguyên. Trong tác phẩm Tống Truyện Nguyên Tông Quy Kim Xuyên 送 傅 元 宗 歸 金 川 có đoạn:

乃尔 念 丘 首, 西 還 沐 恩 光. ( Nãi Nhĩ Niệm Khâu Thủ, Tây Hoàn Mộc Ân Quang )

Tây Hoàn Mộc Ân Quang 西還沐恩光 nghĩa là: trở về phía Tây được tắm mình trong ân sủng. Về sau nhiều Nhà Văn Thơ đời Minh, đời Thanh thường sử dụng cụm từ Mộc Ân Quang 沐恩光 ( nghĩa đen: tắm trong ân điển. Hoặc hiểu nghĩa bóng: đội ơn mưa móc )

  • Hoành 2 : 萬物咸亨

VẠN VẬT HÀM HANH

[vạn vật đều thuận lợi ]

Lạc khoản:     龍飛戊午年仲夏吉立

Long phi mậu ngọ niên trọng hạ cát lập

沐恩第子江津渡眾船同奉供

Mộc ân đệ tử giang tân độ chúng thuyền đồng phụng cung

            “giang tân độ chúng” : 江 津 渡 衆  nghĩa đen là bến đò đưa người qua sông, nhưng kết hợp với danh xưng đệ tử thì đây là 2 nhà sư  cầu độ chúng sanh đến niết bàn.

Kết luận hai hoành phi này do nhà sư (sống ở Làng An Lợi) viết tặng đình năm mậu ngọ 1918.

  • Hoành 3: 威靈顯赫

UY LINH HIỂN HÁCH                       

Lạc khoản:     民國三十九年冬月吉旦重修

Dân Quốc tam thập cửu niên đông nguyệt cát đán trùng tu

                        本市華橋敬送

Bổn thị Hoa kiều kính tống

Hoành phi này được viết năm Dân Quốc thứ 39 (1950) do nhóm Hoa kiều ở chợ dâng cúng nhân dịp trùng tu đình.

3.2 Tấm lụa sắc phong Thần thành hoàng [9] đình An Khánh:

Đây là mãnh lụa có dạng gần vuông, dùng chỉ vàng thêu 36 chữ Hán, nằm trong một chiếc hộp gỗ đặt trên khán thờ thần, hằng năm chỉ mở một lần vào lễ kỳ yên.

爵勅本境城隍

盈鹿知水步之神

陳統軍河廣統師

平治中總安利社

嘉定省新平府平陽縣

Bên phải :      嘉定省新平府平陽縣   

平治中總安利社

Cột giữa:  陳統軍河廣統師

Bên  trái:   盈鹿知水步之神

爵勅本境城隍

Phiên âm:

Gia Định Tỉnh, Tân Bình Phủ, Bình Dương Huyện

Bình Trị Trung Tổng, An Lợi Xã

Trần Thống Quân Hà Quảng Thống Sư  

Doanh Lộc Tri Thủy Bộ chi Thần

Tước sắc bổn cảnh Thần hoàng

Tạm dịch nghĩa:

Xã An Lợi, Tổng Bình Trị Trung, Huyện Bình Dương, Phủ Tân Bình, Tỉnh  Gia Định, phong cho Ông tướng họ Trần, Chưởng dinh Hà Tiên – Tổng Đốc  Quảng Nam- Quảng Ngãi , Thần  nắm giữ đầy đủ quyền hành thủy-bộ , làm bổn cảnh Thần thành hoàng.

  • Thời điểm ghi sắc phong trên mảnh lụa :

Cách ghi thứ tự địa danh trên sắc :Tổng Bình Trị Trung, Huyện Bình Dương, Phủ Tân Bình, Tỉnh  Gia Định, hoàn toàn phù hợp với phân tích về lịch sử làng đã nêu trên . Riêng xã An Lợi phải đến thời điểm bắt đầu từ 1-1-1900 đến 1-1-1918 mới xác nhập vào Tổng Bình Trị Trung.

Như vậy sắc này được lập trong khoảng 1900-1917. ( khả năng là năm 1917)

  1. Người được ghi trên mảnh lụa và chủ nhân ngôi mộ là ai?

Trước khi di dời và xây lại đình, trong khuôn viên đình có một ngôi mộ được cho là mộ Ông Thần thành hoàng của đình. Đây là một trường hợp rất hiếm có,vì mộ  Ông Thần thành hoàng nằm ngay trong đình.

Ngôi mộ cổ xây bằng chất liệu hợp chất, hình chữ nhật (720x870cm) , có bình phong tiền, cửa mộ, hệ thống tường bao, trụ sen , bệ thờ, nấm mộ, bình phong hậu và hệ thống bo viền gia cố xung quanh kiến trúc mộ. Ngôi mộ này không có bia mộ, các vị cao niên ở đình cho biết dây là vị tướng họ Trần được dân làng tôn thờ.

Mặt trước bình phong hậu có 3 ô hộc hình chữ nhật , ô hộc chính giữa ghi chữ 神 (Thần) , góc dưới cùng 2 bên viết chữ 之立(chi lập).

 

Qua phân tích nội dung trong tấm lụa, kết hợp với các chữ trong bình phong hậu của ngôi mộ ta có thể kết luận : Người được nhắc đến trên mảnh lụa và cũng là chủ nhân ngôi mộ nằm sau đình là Tổng Đốc Trần Tri,” người được dân xem là thần thành hoàng của làng[10] “(xem chi tiết cuộc đời làm quan của Ông trong phụ khảo đính kèm).

* Năm 1842 Ông là quản cơ đánh quân Xiêm được Vua  thưởng 1 nhẫn vàng. Có thể đây là chiếc nhẫn khi khai quật mộ vào tháng 4-2014 đã thấy.

* Năm  1847 được phong tước An Khương Nam và được  khắc tên trên cỗ súng thứ 6 , trong 12 cỗ súng mới được làm cùng năm ( không biết cổ súng này hiện còn hay mất và ở đâu)

* Năm 1848 làm Chưởng Dinh Hà Tiên.

* Năm 1855 làm Tổng Đốc Quảng Nam- Quảng Ngãi

Qua 2 cuộc chiến thất  bại với Pháp ở Quảng Nam và Gia Định  1858-1959 Ông bị tước chức hàm . Ông mất năm nào không rõ nhưng qua lễ tế kỳ yên (lễ tế thần thành hoàng) vào ngày 16 tháng 11 âm lịch của đình An Khánh, ta có thể nói ông mất vào ngày ấy. Cuộc đời thăng trầm của Ông có thể phản ảnh qua ngôi mộ, và lòng thương tiếc của dân làng An Lợi đối với Ông.

  1. Đình được thành lập như thế nào?

Chúng ta tạm chia ra làm 2 giai đoạn :

  • Giai đoạn 1: Từ lúc Chúa Nguyễn Phúc Tần năm 1679 cho phép Tổng binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình, trung thành với nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh, theo cửa Cần Giờ đến Biên Hòa khai khẩn, canh tác. Đặc biệt trong thời Minh, Quan Công được xem là hộ pháp trong Phật giáo Trung Quốc[11]. Tín ngưỡng thờ Quan Đế Thánh quân được cụ thể hóa bằng các ngôi miếu/chùa[12] khá phổ biến. Thờ Phật nơi chánh điện và Quan Công gian kế bên. Vùng An Lợi cũng có thể có 1 ngôi miếu/chùa như vậy (không rõ tên gọi và năm xây dựng), trải qua bao thăng trầm và tồn tại cho đến khoảng năm 1900-1918. Mô hình này hiện hữu rất nhiều ở vùng chợ Lớn nơi người Minh Hương sinh sống trong giai đoạn đó. Có thể xem sự tồn tại của những ngôi miếu/chùa thờ Quan Công sẽ nhận diện được vùng này có cộng đồng người Hoa sinh sống.[13] Trong bản đồ do Trần văn Học[14] vẽ năm 1815 đã có vẽ khu phố dân cư tập trung gần vị trí đình, nơi mà Nguyễn Đình Đầu chú thích “xóm Tàu ô[15] ” .
  • Giai đoạn 2 : Như đã trình bày trong phần lịch sử làng An Khánh, làng được thành lập năm 1939. Trong trường hợp này do hai thôn An Lợi và Bình Khánh đã có một thời gian cùng trực thuộc đơn vị hành chánh: tổng An Thủy Thượng , huyện Bình An, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa từ năm 1821 đến năm 1837 ( Minh Mạng Thứ 2 đến thứ 18), nhưng từ năm 1837 làng An Lợi thuộc huyện Ngãi An, không cùng huyện với làng Bình Khánh nữa. Ông Trần Tri sau khi mất được an táng tại mộ địa quê nhà – đa số thôn nào cũng có 1 khoảnh đất làm mộ địa – riêng thôn Bình Khánh thì không có. Mặc dù cuối đời không còn chức vị cao như trước nữa, nhưng dân làng vẫn tưởng nhớ và thờ phụng Ông trong cùng nơi sinh hoạt tâm linh đó, sau một thời gian có thể do linh ứng của Ông nên làng quyết định phong cho Ông làm bổn cảnh thần hoàng năm 1917.

Thông thường các bức hoành có tên đình được dâng cúng cho đình nhân ngày thành lập, trùng tu, nhận sắc phong…Căn cứ  theo lạc khoản của 2 bức hoành phi “Quốc An Gia Khánh” và “ Vạn vật hàm hanh” do 2 nhà sư làng An Lợi dâng cúng nói trên, phần niên chế ghi là “ Long phi mậu ngọ”  đó là năm 1918 (thời Vua Khải Định) vì lúc ấy Pháp đã chiếm  Gia Định (2-1859), không thể là năm 1858 vì nếu là năm này phải ghi là “ Tự Đức mậu ngọ” . Do vậy đình không có sắc phong của Vua Tự Đức vào năm 1852 là lẽ đương nhiên. Đình cũng được trùng tu lần 1 vào năm 1950 ,và 1 đợt trùng tu lớn năm 1980[16]. do đó họa tiết khung của 3 hoành phi đều giống nhau.

  1. Tại sao có Thần Thành hoàng:

Thời nhà Lê có lập lệ : phong các quan đại thần khi thất lộc làm phúc thần, cho thờ bằng lọng vàng tại đình làng. Sau này đình làng này thờ ông quan này làm phúc thần, đình làng khác nếu không được cái hân hạnh ấy, thì tự ý hoặc xin phép các quan thờ các vị thần thánh thời cổ hoặc các bực đế vương trung thần liệt nữ thời trước làm thành hoàng. Cứ thế, dần dần chẳng đình làng nào là không thờ thành hoàng [17]

  1. Sắc phong có phải do vua ban không ?

Trên mảnh lụa, phần nội dung và dịch nghĩa, niên đại đã trình bày như trên , theo ý chúng tôi tấm lụa sắc phong này là do các vị chức sắc làng An Lợi  tự làm nhân lúc thành lập đình  1918 và giữ lại cho đến ngày nay. Các sắc phong thần trong đợt vua Tự Đức ban hành 1 loạt sắc cho toàn quốc là ngày 29/11/1852 , với một nội dung y như nhau, phần địa danh chỉ là 2 đơn vị là huyện và thôn/làng. Nhưng các bản sắc phong ấy không đơn giản, phải viết trên giấy long đằng, phải có đóng ấn  và viết đúng quy tắc không như sắc phong trên mảnh lụa này. Năm 1832 Tự Đức chưa lên ngôi.

C. Kết luận

Tổng kết lại:

  • Đình An Khánh thành lập năm 1918, Làng An Khánh có tên năm 1939 ,Sắc phong trên mảnh lụa lập khoảng năm 1900 – 1917 ( có thể là năm 1917) nhân việc thành lập đình, phong cho chủ nhân ngôi mộ là Ông Trần Tri, người được làng An Lợi xem là bổn cảnh thần hoàng.
  • Hy vọng qua bài tìm hiểu và phân tích trên chúng ta đã một phần nào biết thêm thông tin Đình An Khánh, và nhất là nhân thân vị bổn cảnh Thần Hoàng của Đình. Công việc kế tiếp chúng ta trong thời gian tới còn phải làm là xác minh quê quán, năm sinh và năm mất chính xác của Ông Trần Tri,  việc này đòi hỏi nhiều thời gian tìm địa bạ thời Minh Mạng, gia phả …

Cũng xin lưu ý là các câu đối bằng chữ Hán mới làm nhân dịp khánh thành, đều bị đặt không đúng vị trí trái phải. Vế 1 của câu đối  phải được treo bên phải – từ ngoài nhìn vào

D Nhân vật là thần thành hoàng bổn cảnh

 

PHỤ KHẢO

TỔNG ĐỐC[18] TRẦN TRI

Có thể Ông Trần Tri là người làng An Lợi tỉnh Gia Định không rõ  năm sanh,  năm mất. Nhưng qua kết quả quả giám định, giải phẩu y cốt tháng 4-2014 của Trường Đại Học Y Dược  TP . HCM, chúng tôi dự đoán Ông sinh vào khoảng năm 1805- 1810, mất vào ngày 16-11 Â.L khoảng năm 1860-1865. Sau khi mất, Ông được an táng tại quê nhà, phần diện tích mộ cũng khá to. 8.7×7.2m, cấu trúc đơn giản.

Chỉ biết cuộc đời quan lộ của Ông qua quyển  Đại Nam Thực Lục Quốc sử quán Triều Nguyễn.

  • Năm Canh Tý, Minh Mệnh năm thứ 21 [1840], tháng 9.

Án sát An Giang là Nguyễn Nhật Thạnh tâu nói : có viên Quản cơ [19] ở cơ [20] Gia Hậu, thuộc tỉnh Gia Định là Trần Tri, trước đây nhân ốm về quê, nay đã khỏi bệnh, nghe tin bọn thổ phỉ quấy rối, tình nguyện đến gần đó để ra sức giúp việc. Đã xét người ấy có chút quen thạo luật quân. Nay hiện đã gọi được 1000 lính hương dũng dồn làm 2 cơ Nghĩa dũng nhất, nhị, để cho viên ấy trông coi huấn luyện, làm thời sai phái. Vua y cho, sai lập tức phái đi Hà Tiên, lệ theo làm việc bắt giặc.

  • Năm Nhâm Dần Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], tháng 3

có giặc [Xiêm La] ở huyện Hà Âm  [phủ Tịnh Biên , tỉnh Hà Tiên]. Trước đây, bọn giặc rủ nhau tụ họp ở xứ Liệt Điệt [kênh Vĩnh Tế] (thuộc tỉnh Hà Tiên), Quản cơ Trần Tri đẵn phá nơi đường tắt hiểm trở, đầu tiên đánh phá được sào huyệt của bọn giặc ở hai núi Chân Chiêm và Tham Đăng [núi Tượng và núi Cấm] (đều thuộc huyện Hà Âm). Quản cơ Trần Tri ráng sức tiến lên, xông vào luỹ giặc trước, các quan kế tiếp xông vào, phá tan luỹ dài, bắn chết 164 tên, đâm trúng 32 tên. Tin báo tới nơi, vua khen thưởng Trần Tri, quân công kỷ lục 2 thứ ; thưởng riêng 1 chiếc nhẫn vàng.

  • Năm ất Tỵ, Thiệu Trị năm thứ 5 [1845],

tháng 5, Vệ úy [21] vệ Hữu thủy tỉnh Định Tường là Thừa ân úy Trần Tri do hàm Vệ úy các quân quản lính các biền binh vệ Tiền nhất hiện đóng thú, đợi khi đi thú [lính phải đưa đi xa làm nhiệm vụ lưu đồn trong 3 năm ]về, sẽ do bộ dẫn lên bệ kiến. Trong lúc tiến quân đánh đồn Ba Nam [đồn trọng yếu trên sông Me Kong (Tiền Giang), nay là Phumi Ba Nam thuộc thị trấn Neak loang huyện Peam Ro tỉnh Prey Veng]. Vệ úy Trần Tri bị thương nhẹ. Giặc Xiêm tụ đảng quấy rối các đồn Vịnh Bích, Kha Đốc. Nhận được tin báo, Đốc quân đạo Doãn Uẩn phái Quản vệ Trần Tri đi dẹp. Sau đó sung Quản vệ vệ Tiền nhất dinh Vũ lâm là Trần Tri được thưởng quân công kỷ lục, ngân tiền hạng to 1 đồng.

Tháng 10, Ông được phong làm Phó lãnh binh tỉnh Vĩnh Long . Bổ quyền Vệ uý quân Cấm binh làm Phó lãnh binh tỉnh Vĩnh Long là Thừa ân uý Trần Tri thụ Vệ uý Trung vệ dinh Tiền phong

  • Năm Bính Ngọ, Thiệu Trị năm thứ 6, [1846], mùa hạ, tháng 5, Ông lãnh chúc Lãnh binh Vĩnh Long
  • Đinh Mùi, Thiệu Trị năm thứ 7 [1847],

tháng 6, Ông được phong tước An Khương nam[22]

tháng 7, ngày mồng một, làm lễ Thu hưởng. 12 cỗ súng quý đã đúc xong

Sắc ban lời ngự minh vào cỗ súng thứ 6 là : “Thần uy phục viễn đại tướng quân”. Sắc rằng : Quân uy quét cả sang bên tả, chỉ có An Khương ngươi ; dồn cả mọi nước đều vào hàng xưng thần, dâng cống : An Khương nam Trần Tri.

Vua triệu Lãnh binh Bình Định Trần Tri về Kinh sung làm Khâm điểm viên cho lễ Tiểu tường cung Từ Thọ.

Cho Lãnh binh tỉnh Bình Định, Thừa ân uý, An Khương nam Trần Tri thăng thự Chưởng vệ [23], quyền Chưởng ấn vụ dinh Kỳ võ, được dự đình nghi

  • Mậu Thân, Tự Đức năm thứ nhất [1848]

Cho thự Chưởng vệ quyền Chưởng dinh Kỳ võ là Trần Tri sung làm Lục lộ Tả dinh Đề đốc [24]

Cho Trần Tri thự Chưởng vệ quyền Chưởng dinh Long võ

Tháng 10, Chưởng vệ Trần Tri đều sung làm Đổng lý đại thần, chuyên trông coi việc rước thần chủ

Tháng 12, Ông được làm Chưởng vệ (nguyên thự Chưởng dinh Kỳ võ) lĩnh Tuần phủ Hà Tiên.[25]

  • Tháng 8 1849 Cho Chưởng vệ lĩnh Tuần phủ Hà Tiên là Trần Tri quyền Chưởng dinh Tiền phong[26]
  • Tháng 2 1850 Chuẩn cho Chưởng vệ quyền Chưởng dinh Tiền phong là Trần Tri quyền Chưởng Tả dực dinh Vũ lâm
  • Tháng 2 1851 Cho Chưởng vệ quyền Chưởng Tả dực dinh Vũ lâm là Trần Tri thăng thự Tổng đốc Nam – Ngãi ( Quảng Nam- Quảng Ngãi)

Tháng 8 : Hai bộ Lại, Binh dâng sớ đại kế((1) Đại kế : theo Chu lễ, 3 năm có một kỳ xét lỗi lại gọi là đại kế.1) kỳ 3 năm thự Tổng đốc Nam – Ngãi là Trần Tri đều là một mình đảm đương trách nhiệm ở biên khổn, vỗ yên chống giữ đều phải lẽ. giao cho bộ bàn thưởng công.

  • Năm ất Mão, Tự Đức thứ 8 [1855].

Cho Thự Tổng đốc Nam – Ngãi là TrầnTri được thực thụ.

Tháng 3 Sai Tổng đốc Nam –  Ngãi là Trần Tri đem binh đến đánh dẹp. Bọn ác man ở Quảng Ngãi

Tháng 5 cho Tổng đốc Nam – Ngãi là Trần Tri làm Tổng thống việc quân

Tháng 6 Giặc Man ở Quảng Ngãi, giết người cướp súc sản ở các thôn, trại Long Bàn, Lâm Sơn, Phú Lâm Đốc thần là Trần Tri bị phạt

ất Mão, Tự Đức năm thứ 8 [1855], mùa thu, tháng 7giao cho viên Tổng thống Trần Tri Phòng thủ mà vỗ về để ngự Giặc Man

Giặc Man ở Quảng Ngãi bao vây bảo Tuy An, Trần Tri xin nhận tội, Trần Tri vì điều khiển trái phép, giáng 1 cấp. Truy tặng cho Nhị hàm Quản cơ ;

Tháng 8 Tổng thống quân vụ ở quân thứ Quảng Ngãi là bọn Trần Tri định ngày đánh giặc Man. Vua đồng ý

Tháng 12 sai Hữu tham tri bộ Binh kiêm quản viện Đô sát là Trương Văn Uyển tra xét, do bộ kết tội (vì bọn nha ở tỉnh -hiện do Tổng đốc là Trần Tri đảm nhận- , nhận bạc đút lót của thuyền buôn nước Thanh, phải khép vào tội thất sát, nhưng lại can về khoản phường buôn Thanh đút tiền cho). Rồi sau bộ xét nghĩ chuẩn cho Trần Tri, (vì tiếp nhận khoản tiền của người tặng cho, là cái thói quen nhau xưa nay, nguyên không có tính gì là theo bắt ép) giáng 4 cấp cho lưu lại.

Bính Thìn, Tự Đức năm thứ 9 [1856],

tháng giêng.Tổng thống là Trần Tri,  thưởng gia một cấp để tỏ ý thưởng công mà có ngờ thì nên thưởng hậu.( Man ở Quảng Ngãi làm loạn đã sai bọn Trần Tri đốc suất quan quân chia đường tiến đánh)

Bính Thìn, Tự Đức năm thứ 9 [1856], tháng 7.

Cho Tổng đốc Nam – Ngãi là Trần Tri thăng thự Đô thống[27] Tả quân vẫn lĩnh Tổng đốcTháng 8 1958 Thuyền của người Tây dương sinh sự ở vùng Trà Sơn, cửa biển Đà Nẵng, Quảng Nam. Trần Tri hiện đã thân đến nơi coi giữ hai thành An Hải và Điện Hải

Tháng 9, sai Hồng lô tự khanh sung làm việc ở Nội các là Nguyễn Duy cho rằng Tổng đốc là Trần Tri bó tay ngồi ngay, làm mất khí mạnh của quân sĩ sai triệt về tỉnh cùng Trần Hoằng tĩnh trấn lòng người đợi Chỉ trừng phạt. Tổng đốc là Trần Tri xin ở lại quân thứ gắng sức báo hiệu. Vua Không cho.

Vua cho rằng : Trước đây ( tháng 8) Tổng đốc Nam – Ngãi là Trần Tri mình giữ trách nhiệm coi một địa phương, ngày thường đã không biết phòng bị trước ; khi nghe tin báo lại không thân đến điều khiển ngay, chuẩn giáng bổ làm Phó vệ uý[28]

Tháng 12 Vua cho là nguyên thự Đô thống Tả quân lĩnh Tổng đốc Nam – Ngãi là Trần Tri đã bị giáng bổ, đổi bổ chỗ khác

Tự Đức năm thứ 12 [1859], mùa xuân, tháng giêng, Sai quyền Đề đốc Gia Định là Trần Tri đem quân (150 tên) đến đóng cửa biển Cần Giờ (Gia Định).

Tháng 2 Quân của Tây dương vây đánh thành tỉnh Gia Định. Khi ấy quân của Tây dương đã liền mấy ngày (từ ngày 11 đến ngày 14) bắn phá các đồn ven sông, rồi thẳng đến bến sông tỉnh thành (ngày 15) hướng vào thành bắn súng. Lại một toán lên bộ, quanh thành đánh sấn vào. Quan quân tan chạy cả, thành bèn bị vỡ. Quyền Đề đốc là Trần Tri, chạy về ụ Tây Thái huyện Bình Long. Khi thành Gia Định không giữ được, người tỉnh ấy là Trần Thiện Chính (Tri huyện phải cách), Lê Huy (Suất đội thải về) họp dân dõng hơn 5.800 người (dân nhiều người đem nộp tiền thóc), ngăn giữ quân thua lại, hộ vệ cho Trần Tri về ụ Tây Thái. Lại cho bọn Trần Tri thu họp những quân đã tan và chiêu mộ dân dõng cùng với Biên Hòa cùng chống đỡ cho nhau.

Tháng 8 Tước chức hàm của bọn tỉnh thần Gia Định là Trần Tri, đem về Kinh giao cho bộ Hình nghiêm bàn xử tội. (Đều can việc thất thủ đại đồn Quảng Nam và thành Gia Định), chiểu luật (“chủ tướng không cố giữ được thành”) xử tội trảm giam hậu. Nhưng sau đó phát súng làm quân tiền khu ở quân thứ, cố sức làm việc chuộc tội.

Trần Tri (lúc bấy giờ bọn Tri đã dời đến đóng quân ở cầu Tham Lương, thôn Thuận Kiều gần tỉnh thành).


Lâm Hoài Phương

                                                                                                            8-2024

 

 

Tài liệu tham khảo:

  • Gia Định thành Thông Chí , tập trung, quyển III, do Nha Văn Hóa xuất bản năm 1972. ( có in kèm nguyên tác bằng Hán văn)
  • Đại Nam thực lục – Quốc sử quán triều Nguyễn- Viện sử học- Nhà Xuất Bản Giáo Dục tái bản lần thứ nhất 2001 tập 5,6 7
  • Tầm nguyên từ điển , Lê văn Hòe, Quốc Học Thư Xã 1941
  • Tự Điển địa danh hành chánh nam bộ , Nguyễn đình Tư –nhà xuất bản chính trị quốc gia 2008.
  • Thủ Thiêm – quá khứ và tương lai,TS Tôn Nữ Quỳnh Trân  (NXB Tổng Hợp TP.HCM năm 2010).
  • Báo xuân quận 2 1998, 2000, Ngày xuân du khảo những chứng tích lịch sử quý hiếm ở quận 2”
  • Báo Tuổi trẻ, Báo Thanh Niên, Báo Lao Động, Báo Nhân dân…..
  • Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, Lê thị thu Hương, Bước đầu tìm hiểu về chức Tổng đốc qua ghi chép của một số văn bản chức quan triều Nguyễn, 8 – 2009

 

 

 

PHỤ LỤC

  1. Thành hoàng ( ) và Thành Trì (城池)

Thành là bức tường xây bao chung quanh một thị trấn, một thành phố. Ngày xưa, phía ngoài thành bao giờ cũng có đào hào rãnh cho sự phòng thủ được kiên cố.

Cái hào bao quanh thành đó, có nước thì gọi là trì (thành trì), cạn không có nước thì gọi là hoàng (thành hoàng).

Thuở xưa người ta tin rằng đất, nước chỗ nào cũng có thần coi giữ. Thành có thần coi thành, trì hay hoàng cũng có thần coi . Thần coi thành hoàng người ta gọi chung là thần thành hoàng.

Lâu dần, thành hoàng có nghĩa là thần coi một thị trấn, cho đến bây giờ ta hiểu thành hoàng là thần coi một làng, thờ tại đình làng.

 

  1. LÀNG AN KHÁNH sau khi thành lập

Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Năm 1966, chính quyền Việt Nam Cộng hòa sáp nhập xã An Khánh Xã vào Đô thành Sài Gòn và chia thành 2 phường An Khánh và Thủ Thiêm thuộc quận 1. Tuy nhiên, đầu năm 1967, các phường An Khánh và Thủ Thiêm lại được tách ra để thành lập Quận 9 thuộc Đô thành Sài Gòn.

Năm 1976, Quận 9 bị giải thể, các phường An Khánh và Thủ Thiêm được sáp nhập vào huyện Thủ Đức và đổi thành hai xã có tên tương ứng. Bình Khánh lúc này là một ấp thuộc xã An Khánh.

Ngày 6 tháng 1 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 03-CP[4]. Theo đó:

  • Chuyển xã An Khánh về Quận 2mới thành lập
  • Thành lập phường An Khánh trên cơ sở 169 ha diện tích tự nhiên và 12.865 người của xã An Khánh
  • Thành lập phường Bình Khánh trên cơ sở 226 ha diện tích tự nhiên và 6.580 người của xã An Khánh
  • Thành lập phường Bình An trên cơ sở 169 ha diện tích tự nhiên và 6.774 người của xã An Khánh.

Đến năm 2019, phường Bình Khánh có diện tích 2,03 km², dân số là 4.333 người; phường Bình An có diện tích 1,89 km², dân số là 18.821 người.

Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1111/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021)[1]. Theo đó:

  • Thành lập thành phố Thủ Đức trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của Quận 2, Quận 9 và quận Thủ Đức
  • Sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của phường An Khánh vào phường Thủ Thiêm
  • Thành lập phường An Khánh (mới) trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của hai phường Bình An và Bình Khánh.

[1] Chú ý những chữ tô đậm : nội dung sai vì năm 1832 Vua Tự Đức chưa lên ngôi

[2] Thành viên BCH hội KHLS TP HCM

[3] https://nhandan.vn/chuyen-dinh-an-khanh-post390515.html

[4] Sách Gia Định thành Thông Chí  quyển in năm 1972, tập trung, quyển III, phần cương vực  tr. 50 do Nha Văn Hóa xuất bản năm 1972, sách có in kèm nguyên tác bằng Hán văn.

[5] Địa bạ Triều Nguyễn – Biên Hòa- Nguyễn đình Đầu, NXB T.P HCM 1994 tr. 184

[6]  Theo wiki pedia làng Bình Khánh thuộc tổng Bình Trị Trung, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định , làng Bình Khánh này nay thuộc Cần Giở  https://vi.wikipedia.org/wiki/An_Kh%C3%A1nh,_Th%E1%BB%A7_%C4%90%E1%BB%A9c

[7] Gia Đinh Thành Thông Chí tr,50, – tr. 82 chữ Hán, chữ Hán gốc tr.[41b]

[8] Man: 蔓 chỉ nơi có nhiều nhà liền nhau ở dọc sông ,Sách Việt sử xứ đàng trong 1558- 1777 – Phan Khoan nhà sách Khai Trí 1967, tr. 463. Dười thời Chúa Nguyễn Phước Khoát  (1738-1765) có 12 dinh và 1 trấn (Hà Tiên). Dinh, phủ, huyện, tổng, xã. Các nơi gần núi rừng , dọc sông, biển thì đặt làm thuộc 屬cho các phường, thôn, nậu 耨, man 蔓, lẻ tẻ thuộc vào

[9]  Xem định nghĩa phụ lục :Thành hoàng và thành trì

[10] Thủ Thiêm – quá khứ và tương lai tr. 85

[11] Báo Giác Ngộ : Phật tử có nên thờ Quan Công?  31/10/2020

[12] Vì không biết gọi là miếu hay chùa, theo tín ngưỡng Việt: Miếu thờ quan Công, Chùa thờ Phật.

[13] Thư viện tỉnh Đồng Nai : Người Hoa ở Đồng Nai- tín ngưỡng và lễ hội 23/08/2015

[14] Võ tướng nhà Nguyễn, người đầu tiên vẽ bản đồ Sài Gòn Gia Định xưa theo phương pháp phương Tây

[15] Tàu sơn đen, thường dùng chỉ cướp biền ngày xưa   https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:B%E1%BA%A3n_%C4%91%E1%BB%93_Gia_%C4%90%E1%BB%8Bnh_1815.jpg

[16] Thủ Thiêm – quá khứ và tương lai tr.86

[17] Tầm nguyên từ điển tr.85

[18] Tổng đốc là chức quan đứng đầu liên tỉnh. Nắm giữ tất cả mọi việc quân dân từ việc thống lĩnh các quan văn võ trong hạt kiêm việc khảo hạch quan lại, soạn sức lệnh xây dựng biên cương, hàm Thượng thư Bộ Binh kiêm hàm Hữu Đô Ngự sử Đô sát viện,

[19] Quản cơ (chữ Hán: 管奇) là một chức võ quan thời Nguyễn. Quản cơ đứng đầu một cơ, trật Chánh tứ phẩm

[20] Cơ (tương đương vệ) đứng đầu là chưởng cơ hay quản cơ khoảng 500 lính

[21] Hàm tam phẩm

[22] Công , Hầu, Bá , Tử, Nam

[23] Hàm nhị phẩm  , 2.50- 4.800 lính

[24] Hàm chánh nhị phẩm, ngang Chưởng vệ 

[25] Tuần phủ : có quyền hạn điều hành mọi mặt dân sự và quân sự tại một tỉnh 

[26] Chưởng dinh :chức võ quan cao thứ 2, sau Ngũ quân Đô thống, hàm chánh nhị phẩm

[27] Hàm nhất phẩm

[28] Hàm tam phẩm

Bình luận về bài viết này