Nguyễn Hữu Đổng
Phụ nữ là gì? Hiện nay, thuật ngữ phụ nữ chưa được người dân hiểu biết; giới nghiên cứu cũng chưa hiểu thuật ngữ này. Bản thân tác giả khẳng định rằng, phụ nữ chính là lịch sử loài người phát triển; lịch sử loài người không phát triển không có phụ nữ – tức loài người không có cội nguồn. Theo đó, lịch sử loài người là phụ nữ phát triển, loài người không lịch sử phụ nữ không phát triển; tạo hoá của loài người là phụ nữ phát triển, tiến hoá của loài người phụ nữ không phát triển.
Thực chất phụ nữ từ góc nhìn lịch sử
Phụ nữ từ góc nhìn lịch sử gồm các mặt: tính chất lịch sử cá nhân người không chân thật, phụ nữ không có môi trường sống cân bằng, không phát triển bình đẳng; bản chất lịch sử nhóm người chưa chân thật, phụ nữ chưa có môi trường sống cân đối, chưa phát triển công bằng; thực chất lịch sử cộng đồng người chân thật (chân thực, trung thực), phụ nữ có môi trường sống hài hoà, phát triển công bằng bình đẳng công lý. Điều đó có nghĩa, phụ nữ là lịch sử loài người chân thật, tức “loài người phát triển” – loài người có môi trường sống hài hoà, công bằng bình đẳng công lý trong cuộc sống [1]; lịch sử không phát triển phụ nữ không phát triển; loài người không phát triển phụ nữ không phát triển; hay phụ nữ không phát triển không có loài người (or women do not develop without humanity). Tức là, phụ nữ gắn với lịch sử cuộc sống phát triển; chẳng hạn phụ nữ gắn với ngày tháng năm, giới, pháp luật (luật), “bọc trăm trứng” trong truyện huyền thoại người Kinh, chính trị hay lịch sử loài người phát triển.
Phụ nữ gắn với ngày tháng năm phát triển cho thấy rằng, nữ gắn với ngày không phát triển, không có bình đẳng giới; phụ gắn với tháng chưa phát triển, chưa có bình đẳng giới; phụ nữ gắn với ngày tháng năm phát triển, có bình đẳng giới. Điều đó có nghĩa, mùng 8 tháng 3 không phải ngày phụ nữ như giới lãnh đạo nêu ra, mà là ngày kỷ niệm về cuộc đấu tranh đòi “bình đẳng giới, quyền lợi của phụ nữ” [2]. Nói cách khác, cần hiểu đúng đắn ngày quốc tế phụ nữ 08/03, ngày phụ nữ Việt Nam 20/10; không chỉ chúc mừng phụ nữ nhân các ngày này, mà cần phải thiết thực bảo đảm quyền phụ nữ, quyền con người hay nhân quyền – tức “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc””…, “quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (that is, “the right to life, the right to happiness and the right to freedom”) [3].
Phụ nữ gắn với giới phát triển cho thấy rằng, tính chất sức sống giới nam không thật, phụ nữ không phát triển; bản chất sự sống giới nữ chưa thật, phụ nữ chưa phát triển; thực chất cuộc sống giới người chân thật, phụ nữ phát triển. Điều đó có nghĩa, giới người chân thật là phụ nữ phát triển; phụ nữ chính là giới người chân thật phát triển; giới người thiếu chân thật phụ nữ không phát triển – tức phụ nữ không được bảo đảm môi trường, công bằng bình đẳng công lý trong cuộc sống. Tức là, cần phải giáo dục con người chân thật, con người chân thật là phụ nữ phát triển (true human beings are developed women); bởi vì, có con người, tổ chức chân thật là phụ nữ phát triển; còn không chân thật thì phụ nữ không phát triển. Chẳng hạn, quốc gia chân thật là phụ nữ phát triển, quốc gia không văn hoá phụ nữ không phát triển; quốc tế chân thật là phụ nữ phát triển, quốc tế không văn minh phụ nữ không phát triển; loài người chân thật là phụ nữ phát triển, loài người không chân thật phụ nữ không phát triển (humanity is not genuine and women are not developed).
Gắn phụ nữ với bọc trăm trứng phát triển trong truyện huyền thoại của người Kinh cho thấy rằng, phụ tương tự Âu Cơ chưa phát triển; nữ tương tự Lạc Long Quân không phát triển; còn phụ nữ tương tự bọc trăm trứng phát triển. Điều đó có nghĩa, không phụ nữ không có bọc trăm trứng phát triển; không phụ nữ không có tổ tiên loài người. Theo đó, Giỗ tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng là chưa thật, mà phải là nghi lễ thờ cúng tổ tiên, hay lễ hội nhớ về cội nguồn người Kinh, người Việt Nam nói riêng, loài người nói chung; bởi vì Kinh chính là “kinh nguyệt” – huyết tộc người gắn liền với phụ nữ (human blood is associated with women). Nói cách khác, lịch sử loài người là phụ nữ phát triển, loài người không lịch sử phụ nữ không phát triển; tạo hoá của loài người là phụ nữ phát triển, “tiến hoá của loài người” phụ nữ không phát triển (“human evoluton” women did not develop) [4].
Gắn phụ nữ với chính trị phát triển cho thấy rằng, chính trị không chân thật nữ không phát triển; chính trị chưa chân thật phụ chưa phát triển; còn chính trị chân thật là phụ nữ phát triển. Điều đó có nghĩa, phụ nữ phát triển phụ thuộc chính trị chân thật; phụ nữ phát triển cần chính trị đạo đức; chính trị thiếu đức là phụ nữ không phát triển – tức phụ nữ không có môi trường sống, công bằng bình đẳng và công lý; chính trị thiếu đức là phụ nữ bạo lực, hay “đấu tranh chính trị như: lãnh đạo cướp chính quyền” [5]. Chẳng hạn, chính trị độc quyền phụ nữ thiếu quyền con người (women’s exclusive politics lack human rights), chính trị độc đoán nam nữ xung đột chiến tranh (authoritarian politics between men and women, conflic and war); chính quyền quan liêu, tham nhũng, lãng phí phụ nữ không phát triển (bureaucratic, corrupt government, wasted women do not develop).
Gắn phụ nữ với lịch sử loài người phát triển cho thấy rằng, lịch sử không chân thật phụ nữ không phát triển, không là nguồn gốc loài người; lịch sử chưa chân thật phụ nữ chưa phát triển, chưa là nguồn gốc loài người; còn lịch sử chân thật là phụ nữ phát triển, là nguồn gốc loài người. Điều đó có nghĩa, phụ nữ chính là lịch sử loài người phát triển; phụ nữ thiếu phát triển loài người thiếu phát triển, hay loài người thiếu cội nguồn tổ tiên. Nói cách khác, cần phát triển phụ nữ trong cộng đồng người; phụ nữ phát triển là loài người phát triển, tức loài người có nguồn cội hay nguồn gốc của mình. Do đó, cần phải phát triển phụ nữ (therefore, it is necessary to develop women); phụ nữ phát triển là loài người có nguồn gốc (developed women are the original human species), phụ nữ không phát triển loài người không nguồn gốc (women do not develop the originless human race).
Hạn chế hiểu biết phụ nữ
Phụ nữ gắn liền với lịch sử loài người. Tuy nhiên trên thế giới, giới nghiên cứu khoa học, kể cả giới nghiên cứu lịch sử hiểu biết nữ, phụ nữ còn hạn chế. Chẳng hạn, khi phân tích “nữ”, người nghiên cứu chỉ nhìn bản chất nội dung chưa phát triển, tính chất hình thức không phát triển, chứ không nhìn thực chất nguyên lý nữ phát triển; hay khi phân tích “phụ nữ” giới nghiên cứu chỉ nhìn tính chất không thật phụ nữ không là loài người, bản chất chưa thật phụ nữ chưa là loài người, chứ không nhìn thực chất sự thật phụ nữ là loài người.
Hạn chế hiểu biết phụ nữ làm cho nhiều người không rõ mối liên hệ giữa giới phụ nữ, con số và sự thật như sau: giới nữ gắn với số âm chưa thật, giới nam gắn với số dương không thật, giới người gắn với số thực – sự thật (chân thật); không nhận thức rõ mối liên hệ giữa cuộc sống, giới và phát triển như sau: sự sống giới nữ chưa chân thật chưa phát triển, sức sống giới nam không chân thật không phát triển, còn cuộc sống giới người chân thực là phát triển; không nhận thức rõ mối liên hệ giữa phụ nữ, quyền và con người như sau: tính chất nữ không gắn với quyền của cá nhân người, bản chất phụ chưa gắn với quyền của nhóm người, thực chất phụ nữ gắn với quyền của cộng đồng người. Đặc biệt, hạn chế nhận thức phụ nữ dẫn đến tình trạng chính quyền đối xử hà khắc với phụ nữ; chẳng hạn, như: “chưa có quốc gia nào đạt được bình đẳng giới như nhân loại mong muốn” [6], thậm chí phụ nữ nhiều nước thiếu quyền con người. Trong thực tế, nước Mỹ, phải đến năm 1920 phụ nữ mới được quyền đi bầu cử, còn ở Pháp là năm 1944; ở Iran phụ nữ ra đường buộc phải trùm khăn; ở Afghanistan, Taliban ra sắc lệnh yêu cầu phụ nữ mặc trang phục kín từ đầu đến chân nơi công cộng, đồng thời “cấm trẻ em gái tuổi vị thành niên đi học” [7]; v.v…
Hiện nay Việt Nam ta, hiểu biết phụ nữ của người dân, kể cả người nghiên cứu còn rất hạn chế; bởi vì, nhiều người không nhìn rõ tính chất, bản chất, thực chất của phụ nữ và phát triển. Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2005), phụ nữ chỉ được nhìn mặt bản chất “nữ giới”, chứ không nhìn mặt tính chất “nam giới”, tức không nhìn rõ thực chất giới người, hay không nhìn rõ xã hội loài người, dạng mô hình: bản chất giới nữ – thực chất giới người – tính chất giới nam; còn phát triển chỉ nhìn về sự “biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”, chứ không nhìn sự hài hoà môi trường sống, công bằng, bình đẳng, công lý cuộc sống con người trong quốc gia, xã hội loài người.
Hạn chế hiểu biết phụ nữ làm cho nhiều người không hiểu rõ rằng, nữ là tính chất hình thức không thật, phụ là bản chất nội dung chưa thật, còn phụ nữ là thực chất nguyên lý sự thật, phụ nữ trung thực nhân hậu, và còn dũng cảm chống giặc ngoại xâm như Hai Bà Trưng cách đây hai nghìn năm, lúc nước dưới ách đô hộ của ngoại bang; nhiều người không hiểu rõ rằng, hình thức nữ không gắn với phát triển, nội dung phụ chưa gắn với phát triển, còn nguyên lý phụ nữ gắn với phát triển; nhiều người cũng không hiểu rõ rằng, hiện phụ nữ được đi bầu cử nhưng vẫn hình thức, bởi vì dân chỉ đi “bầu” chứ chưa được “cử”, tức vẫn còn mô hình “Đảng cử” [8], chứ dân chưa được cử (but the people have not been elected yet); hiện nhiều người lãnh đạo cũng chưa hiểu rằng, các đại biểu trong Quốc hội “không phải đại diện cho một đảng phái nào mà đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam” [9], tức Quốc hội cần phải có nhiều đảng chính trị (that is, the National Assembly needs many political parties), hay có nhiều đại biểu ngoài đảng cầm quyền (or there are many representatives outside the ruling party).
Đặc biệt, thiếu hiểu biết phụ nữ dẫn đến tư duy sai, nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội. Chẳng hạn, như: tư duy sai về “cuộc đấu tranh giữa các giai cấp” [10], bởi về thực chất không có giai cấp người, không có “giai cấp công nhân” mà một số người nghiên cứu nêu ra, chỉ có giới công nhân, giới người hay có các cộng đồng khác giới, khác màu da, khác dân tộc làm việc ở các châu lục, vùng, miền, ngành nghề, lĩnh vực, môi trường sống đa dạng, khác nhau; hiện nhiều người không hiểu biết “nữ quyền là nhân quyền”, nên diễn ra tình trạng “con đường đấu tranh vì nữ quyền ngày càng trắc trở. Họ không hiểu rằng, không có cái gọi là nam quyền hay nữ quyền, tất cả đều là nhân quyền” [11]; diễn ra tình trạng “vấn đề định kiến giới, bạo lực trên cơ sở giới vẫn còn nhiều nhức nhối, tỉ lệ phụ nữ bị xâm hại, bạo lực còn ở mức rất cao” [12], hay “Trong xã hội Việt Nam, bạo lực thường bị giấu kín với 90,4% người bị bạo lực không tìm kiếm sự giúp đỡ từ chính quyền và một nửa trong số họ không bao giờ kể với bất kỳ ai về việc họ bị bạo lực. Thêm vào đó, bạo lực phụ nữ góp phần làm thâm hụt 1,81% GDP của quốc gia” [13].
Vài khuyến nghị hiểu đúng đắn thuật ngữ phụ, nữ, xây dựng người phụ nữ phát triển văn minh
Thứ nhất, hiểu đúng đắn thuật ngữ ‘phụ’:
Phụ nữ gắn liền với phụ. Tuy nhiên, phụ chưa được giới nghiên cứu làm rõ sự thật; chưa hiểu phụ thì chưa hiểu phụ nữ. Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2005), khi phân tích chữ ‘phụ’, người nghiên cứu chỉ nhìn tính chất không thật phụ không “quan trọng so với cái chính; thứ yếu”, bản chất chưa thật phụ chưa quan trọng, chứ chưa nhìn thực chất sự thật phụ quan trọng. Sự thật cho thấy rõ rằng, phụ gồm các mặt chủ yếu sau: tính chất phụ của cá nhân không thật; bản chất phụ của nhóm chưa thật; thực chất phụ của cộng đồng chân thật, dạng mô hình: phụ nhóm chưa thật – phụ cộng đồng chân thật – phụ cá nhân không thật. Điều đó có nghĩa, giới lãnh đạo nghiên cứu cần nhận rõ phụ cộng đồng chân thật; không hiểu phụ cộng đồng chân thật không hiểu đúng đắn phụ.
Thứ hai, hiểu đúng đắn thuật ngữ ‘nữ’:
Phụ nữ gắn liền với nữ. Tuy nhiên, nữ cũng chưa được giới nghiên cứu làm rõ sự thật; chưa hiểu nữ thì cũng chưa thể hiểu phụ nữ. Nữ gồm các mặt chủ yếu sau: tính chất không thật nữ không trung thực; bản chất chưa thật nữ chưa trung thực; thực chất sự thật nữ trung thực, dạng mô hình: bản chất chưa thật nữ chưa trung thực – thực chất sự thật nữ trung thực – tính chất không thật nữ không trung thực. Điều đó có nghĩa, giới lãnh đạo nghiên cứu cần nhận rõ sự thật nữ trung thực; không hiểu sự thật nữ trung thực không hiểu đúng đắn nữ. Tức là, cần phải sửa lại các thuật ngữ, khái niệm học thuật trong tất cả từ điển của loài người; bởi vì loài người chưa hiểu rõ thuật ngữ, khái niệm ngôn ngữ, trong đó đặc biệt chưa rõ thuật ngữ khái niệm như: phụ, nữ, sự thật, lịch sử phụ nữ và loài người phát triển.
Thứ ba, xây dựng người phụ nữ phát triển văn minh:
Phụ nữ chính là con người chân thật – người phụ nữ phát triển văn minh. Tuy nhiên, khái niệm này chưa được giới nghiên cứu hiểu rõ. Người phụ nữ phát triển văn minh gồm các mặt: tính chất phụ nữ không chân thật, không phát triển văn minh; bản chất phụ nữ chưa chân thật, chưa phát triển văn minh; thực chất phụ nữ chân thật phát triển văn minh, dạng mô hình: phụ nữ chưa chân thật chưa phát triển văn minh – phụ nữ chân thật phát triển văn minh – phụ nữ không chân thật không phát triển văn minh. Điều đó có nghĩa, giới lãnh đạo nghiên cứu cần nhận rõ phụ nữ chân thật; không hiểu phụ nữ chân thật thì không xây dựng được người phụ nữ phát triển văn minh.
Kết luận
Phụ nữ từ góc nhìn lịch sử chính là phụ nữ phát triển – tức phụ nữ biểu hiện loài người chân thật, hay loài người nhân đạo sống có tâm nhân hậu thuỷ chung. Hiện nay, phụ nữ chưa được người dân hiểu đúng; giới nghiên cứu chưa rõ tính chất, bản chất, thực chất đức tính trung thực của phụ nữ. Sự bất cập này là nguyên nhân dẫn đến đối xử bất công, chưa nhân văn nhân nghĩa với phụ nữ. Do đó, để có phụ nữ loài người tiến bộ, con người nước ta có văn hoá và phát triển, giới lãnh đạo nghiên cứu cần hiểu đúng đắn thuật ngữ phụ, nữ, xây dựng người phụ nữ phát triển văn minh.
…………………..
Tài liệu trích dẫn:
[1] Nguyễn Hữu Đổng, Nguồn gốc loài người từ góc nhìn văn hoá, https://vanhoavaphattrien.vn/nguon-goc-loai-nguoi-tu-goc-nhin-van-hoa-a22217.html, ngày 13/12/2023.
[2] Nguyễn Hữu Đổng, Còn 364 ngày khác là của ai? https://vietnamnet.vn/con-364-ngay-khac-la-cua-ai-292756.html, ngày 08/03/2016.
[3], [9] CD-ROM Hồ Chí Minh, Toàn tập, Xuất bản lần thứ ba, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2013, t. 4, tr. 1, 217.
[4] Theo Zing, Loài người có còn tiến hoá nữa không, https://vietnamnet.vn/loai-nguoi-co-con-tien-hoa-nua-khong-656540.html, ngày 10/07/2020.
[5] Đấu tranh vũ trang của phụ nữ miền Nam trong hai cuộc kháng chiến, https://baotangphunu.com/u-tranh-v-trang-ca-ph-n-min-nam-trong-hai-cuc-khang-chin/
[6] Thuỵ Du, Bình đẳng giới – một tiêu chí của dân chủ, công bằng, văn minh, https://nhandan.vn/binh-dang-gioi-mot-tieu-chi-cua-dan-chu-cong-bang-van-minh-post256997.html, ngày 07/03/2016.
[7] Hồng Vân, Taliban lại buộc phụ nữ che kín mặt khi đi ra ngoài, https://tuoitre.vn/taliban-lai-buoc-phu-nu-che-kin-mat-khi-di-ra-ngoai-20220507173112388.htm, ngày 07/05/2022.
[8] Lê Kiên, Cần xoá cơ chế “Đảng cử dân bầu”, https://tuoitre.vn/can-xoa-co-che-dang-cu-dan-bau-613128.htm, ngày 16/06/2014.
[10] Hà Đức Long, Bác bỏ luận điệu phủ nhận lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin, https://www.qdnd.vn/phong-chong-dien-bien-hoa-binh/bac-bo-luan-dieu-phu-nhan-ly-luan-giai-cap-va-dau-tranh-giai-cap-cua-chu-nghia-mac-lenin-764132, ngày 05/02/2024.
[11] Anh Thư, Một thế kỷ phong trào nữ quyền tại Việt Nam, https://tiasang.com.vn/tin-tuc/mot-the-ky-phong-trao-nu-quyen-tai-viet-nam-27032/, ngày 12/04/2021.
[12] PNVN, Định kiến giới, bất bình đẳng giới: Rào cản cần xoá bỏ, https://hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/%C4%91inh-kien-gioi-bat-binh-%C4%91ang-gioi-rao-can-can-xoa-bo-35394-1.html, ngày 25/09/2020.
[13] Hiền Minh, Khi nhiều người cùng lên tiếng, tình trạng bạo lực với trẻ em, phụ nữ sẽ chấm dứt, https://baochinhphu.vn/khi-nhieu-nguoi-cung-len-tieng-tinh-trang-bao-luc-voi-tre-em-phu-nu-se-cham-dut-102220705163642977.htm, ngày 05/07/2022.
………………………….
Ngày 04/03/2025
Nguyễn Hữu Đổng
……………………..