Săn lùng Eichmann, truy nã tên quốc xã khét tiếng nhất thế giới (Bài 21)

Neal Bascomb

Trần Quang Nghĩa dịch

27

VÀO NGÀY 25 THÁNG 5, Avraham Shalom bắt xe buýt trở về khách sạn của mình ở Santiago, Chile. Anh, Eitan và Malkin đã đến đất nước này ba ngày trước đó, sau chuyến hành trình ngoạn mục bằng tàu hơi nước từ Mendoza qua dãy Andes. Vào ngày họ đến thủ đô, miền nam Chile đã phải hứng chịu một trận động đất kinh hoàng, mạnh nhất trong lịch sử được ghi lại, khiến hàng nghìn người thiệt mạng và gây ra sóng thần tràn qua Thái Bình Dương. Chỉ đúng ngày hôm đó Shalom mới có thể gửi một bức điện đến trụ sở Mossad, thông báo cho Harel rằng họ đã an toàn.

Anh lơ đãng nhìn qua vai một hành khách phía trước đang lật giở một tờ báo. Ở đó, bằng hàng chữ in đậm, anh nhìn thấy EICHMANN. Choáng váng, Shalom lao ra khỏi xe buýt ở trạm dừng tiếp theo. Tại một quầy báo ở góc phố, anh mua cả một xấp báo, hầu hết đều có tựa đề BEN-GURION CÔNG BỐ VỤ BẮT GIỮ ADOLF EICHMANN. Họ được cho biết là hoạt động này sẽ không được tung ra cho đến khi họ trở về Israel an toàn. Khi Shalom xuất trình các tờ báo cho Eitan và Malkin, họ đều tức giận như nhau, nhưng họ không thể làm gì được.

Vài ngày sau đó, họ bắt các chuyến bay ra khỏi đất nước. Tình cờ thay, Shalom và Malkin đều quá cảnh tại Buenos Aires và trải qua một giờ đầy lo lắng trên đường băng ở Ezeiza trước khi cất cánh. Cuối cùng họ đã trở lại Israel.

Khi Shalom trở về nhà với vợ, anh nhận ra rằng cô ấy biết anh đâ đi làm nhiệm vụ gì. Một chuyến viếng thăm của Yakov Gat vài ngày trước, đảm bảo với cô rằng chồng cô vẫn ổn và sẽ về nhà sớm, đã làm rõ điều ấy. Shalom biết rằng cô sẽ không bao giờ thốt ra một lời nào về công việc của chồng.

Những người khác trong nhóm cũng có trải nghiệm tương tự, mặc dù họ kiên quyết phủ nhận điều ngược lại. Vào buổi tối công bố, Moshe Tabor đang cùng vợ đến rạp chiếu phim ở Tel Aviv thì bộ phim bị gián đoạn vì tin tức này. Quay sang anh, cô nói, “Vậy mà em nghĩ anh đang ở Ấn Độ?”

Tabor cố gắng đánh lạc hướng sự chú ý của vợ, nhưng sau đó cô ấy nói với anh rằng khẩu súng lục đồ chơi mà anh mua cho con trai họ có dán tem từ Argentina.

Trong bữa tối ngày Sabat đầu tiên của Malkin với gia đình, em trai anh không nói chuyện gì khác ngoài chuyện này.. Malkin viện cớ không biết, muốn biết chuyện gì đã xảy ra khi anh ở “Paris” trong tháng qua. Mẹ anh đã thúc giục anh nói cho họ biết anh thực sự đã ở đâu.

“Này, mẹ không nhận được thư của con à?” anh ấy hỏi.

“Chúng giống như tất cả các bức thư khác của con. Chúng có thể được viết vào năm ngoái hoặc ngày mai… Này, còn có liên quan đến việc này không?”

Malkin vô cùng muốn thổ lộ với bà rằng anh đã trả được thù cho chị gái mình. “Làm ơn đi mẹ… Đủ rồi. Con đã ở Paris.”

Aharoni cũng đưa ra lý do tương tự khi anh trai anh bất ngờ gọi điện cho anh, muốn biết khi nào anh về. “Anh không ngây thơ,” anh trai anh thăm dò. “Anh biết chú đã đi hơn hai tháng và anh nghe thấy Ben-Gurion trên radio. Anh có thể cộng hai với hai lại với nhau. Đúng không nào? Làm tốt lắm!”

Một thư ký của Shin Bet, người cũng đã gắn sự vắng mặt của Aharoni với tin tức, đã ôm lấy anh vào ngày đầu tiên anh trở lại văn phòng. Không cần từ ngữ nào cả.

Tất cả các đặc vụ đều tự hào về thành công của mình, nhưng bản chất công việc của họ là, theo những gì họ biết, họ sẽ phải mang bí mật về thành tích của mình và những nguy hiểm mình đã  đối mặt xuống tận mồ.

_____

Eichmann đang bị giam giữ ngay bên ngoài Haifa, miền bắc Israel, tại một đồn cảnh sát kiên cố có mật danh là Trại Iyar. Y bị giam trong một phòng giam rộng 10 x 13 bộ chỉ có một chiếc ghế, một cái bàn và một chiếc cũi. Những ngọn đèn trên cao không bao giờ tắt và luôn có một người canh giữ ngồi bên cạnh anh.

Một người canh giữ khác thường xuyên quan sát qua khe hở trên cánh cửa được gia cố để chắc chắn rằng không có liên lạc nào giữa người canh giữ bên trong và tù nhân. Người chỉ huy nhà tù không chỉ lo sợ rằng Eichmann có thể tự sát mà còn có thể có một âm mưu ám sát y. Như một biện pháp phòng ngừa bổ sung, thức ăn của y luôn được nếm thử trước khi phục vụ và không ai trong số lính canh của y đã mất người thân trong Holocaust.

Chiều 29/5, lúc 4 giờ 30, có hai người đàn ông băng qua khoảng sân từ tòa nhà hành chính nhà tù  đến khu giam giữ. Chỉ huy Ephraim Hofstetter và chánh thanh tra của ông, Avner Less, là thành viên của Phòng 06, một đơn vị cảnh sát được tổ chức để thu thập bằng chứng, phỏng vấn các nhân chứng và thẩm vấn Eichmann cho phiên tòa xét xử cuối cùng của y. Hofstetter, người đã từng gặp Lothar Hermann ngay từ đầu trong cuộc săn lùng, là người đầu tiên được chọn làm  người phó của đơn vị. Ông đã chọn Less, một nhà điều tra tội phạm sắc sảo và là người gốc Berlin có cha đã bị xử lý bằng khí độc ở Auschwitz, để thẩm vấn tù nhân.

Hai người đàn ông bước vào phòng thẩm vấn, một không gian rộng rãi được trang bị một chiếc bàn đơn giản và vài chiếc ghế cứng. Họ đã chuẩn bị cho một chiến dịch mở rộng để bắt Eichmann phải nói hết. Những chiếc micro bí mật đã được lắp đặt trong phòng. Chúng sẽ được sử dụng nếu Eichmann không đồng ý cho ghi lại các phiên thẩm vấn. Khi họ đã ổn định, Hofstetter yêu cầu đưa Eichmann vào. Ông ta đã gặp tù nhân vài ngày trước ở Tel Aviv, nơi ông từng là nhân chứng trong quá trình nhận dạng chính thức của Moshe Agami và Benno Cohen.

Hai lính canh dẫn Eichmann từ phòng giam vào phòng thẩm vấn. Người tù mặc áo sơ mi kaki và quần dài, trông có vẻ căng thẳng, đứng nghiêm cho đến khi được yêu cầu ngồi xuống.

“Tôi đoán là ông nhận ra tôi? Tôi là Đại tá Hofstetter của Cảnh sát Israel.”

“Vâng, thưa ngài,” Eichmann trả lời bằng một giọng mạnh mẽ và ngắn gọn, mặc dù cả hai điều tra viên đều nhận thấy bàn tay của y, ở dưới gầm bàn, đang run rẩy không thể kiểm soát.

“Ông Eichmann, tôi được biết ông sẵn lòng – thực tế là hăng hái – trình bày vai trò của mình trong cái gọi là Đệ tam Đế chế ? Có đúng không?” Hofstetter hỏi, mong chờ câu trả lời sẽ không phải như vậy

“Vâng, đúng vậy.”

“Ông hoàn toàn nhận thức được rằng mình không bị ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào?”

“Vâng, thưa ngài.”

Luôn hợp tác, Eichmann cũng đồng ý cho phép thiết bị ghi âm trong buồng.

Người chỉ huy tiếp tục nói: “Vậy thì Đại úy Less sẽ ở lại đây với ông và lấy lời khai của ông.”

“Tôi nghĩ chúng ta nên bắt đầu với sơ yếu lý lịch của ông,” Less nói.

Trước sự ngạc nhiên của họ, Eichmann bắt đầu nói dài dòng về lịch sử cá nhân của mình. Tuy nhiên, khi ngày đầu tiên trôi qua, Less nhận thấy rằng sự thẳng thắn của tù nhân không hề trung thực – trên thực tế, bản thân nó đã là một sự lừa dối.

Giống như khi bị giam cầm ở Buenos Aires, Eichmann đang luyện tập cách tự bảo vệ mình trước tòa, theo cách mà những người đồng đội của y tại Nuremberg đã thực hiện. Giữa việc hút thuốc lá liên tục, y nói dối về sự tham gia của cá nhân mình vào hành động tàn bạo cho đến khi đối mặt với bằng chứng trái ngược nhau, và bất cứ khi nào điều đó xảy ra, y đều nói rằng y chỉ làm theo mệnh lệnh.

Bất chấp sự bối rối của mình, Eichmann không bao giờ tin rằng mình sẽ bị đưa ra xét xử. Y cho rằng người Israel sẽ ban phát loại công lý mà y nhớ lại những ngày còn ở Gestapo. Vào tuần thứ hai của tháng 6, một lính canh làm gián đoạn cuộc thẩm vấn, giải thích rằng anh ta phải đưa Eichmann đến gặp thẩm phán. Khi họ bịt mắt y, Eichmann loạng choạng, đầu gối khuỵu xuống và y kêu lên với Less, “Nhưng, Đại úy! Tôi vẫn chưa kể cho anh hết mọi chuyện!”Y chỉ bình tĩnh lại sau khi được đảm bảo rằng thẩm phán cần gặp y để gia hạn lệnh giam giữ.

Trong khi Eichmann đang bị giam ở Trại Iyar, tác động việc thông báo của Ben-Gurion tiếp tục lan rộng. Ở Israel, cú sốc về việc bắt giữ đã phát triển nhanh chóng, từ niềm tự hào về thành tích, đến yêu cầu trả thù nhanh chóng, đến quan điểm kiên quyết hơn rằng công lý chỉ có thể được thực thi theo quy định của pháp luật.

Có rất nhiều ý kiến ​​khác nhau, tất cả đều được đưa ra trong vô số báo in và hàng giờ phát sóng trên đài phát thanh, về việc ai cuối cùng sẽ xét xử Eichmann: Israel, Tây Đức, hay một tòa án quốc tế. Ben-Gurion đã rõ ràng về ý định của mình. “Nhà nước Do Thái là người thừa kế trong số sáu triệu người bị sát hại, người thừa kế duy nhất”, ông viết cho một đại diện của cộng đồng người Do Thái ở Mỹ muốn dẫn độ Eichmann về Tây Đức. Vì vậy, theo quan điểm của ông, phiên tòa nên được tổ chức ở Israel để hoàn thành “nghĩa vụ lịch sử” của quốc gia đó. Đối với nửa triệu người Israel sống sót sau thảm họa Holocaust, đa số đồng ý rằng phiên tòa nên được tổ chức ở Israel. Tuy nhiên, họ thận trọng về những hậu quả có thể xảy ra. Kể từ sau chiến tranh, hầu hết đều giữ cho mình những đau khổ mà họ phải gánh chịu qua bàn tay của bọn Đức quốc xã. Họ nhận thức rõ rằng một phiên tòa có nghĩa là sự phơi bày đau đớn những vết thương trong quá khứ.

Việc bắt giữ cũng có ý nghĩa quốc tế. Chính phủ Argentina đã rúng động ngay khi báo chí đưa tin vụ bắt giữ đã diễn ra trên đất của họ bởi “các đặc vụ Israel”. Arturo Frondizi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phản đối, vì ông ta đang có mối quan hệ mong manh với quân đội của mình, vốn coi hành động này rõ ràng là vi phạm chủ quyền của Argentina và muốn sử dụng nó để làm nổi bật điểm yếu của ông ta. Frondizi cũng chịu áp lực của phe theo chủ nghĩa dân tộc cánh hữu và bọn có cảm tình với Đức Quốc xã trong nước.

Ngày 1/6, Ngoại trưởng Argentina Diogenes Taboada đã triệu tập đại sứ Israel Levavi để yêu cầu lời giải thích chính thức và sự trao trả Eichmann. “Tôi không nghĩ điều này là có thể,” Levavi nói. Hai ngày sau, chính phủ Israel đưa ra một công hàm giải thích rằng một nhóm “tình nguyện viên Do Thái, trong đó có một số người Israel,” đã chịu trách nhiệm tìm kiếm Eichmann. Những tình nguyện viên này đã “tiếp xúc” với Eichmann và nhận được sự cho phép bằng văn bản để đưa y đến Israel, nơi họ đã giao y cho Cơ quan An ninh Israel. Công hàm kết luận rằng Israel lấy làm tiếc nếu những tình nguyện viên này đã vi phạm luật pháp Argentina, nhưng  điều “đặc biệt có ý nghĩa khi đưa xét xử người chịu trách nhiệm vụ sát hại hàng triệu người thuộc dân tộc Do Thái phải được tính đến.” Tiếp theo công hàm chính thức này Ben-Gurion đã gửi một bức thư cá nhân đến Frondizi, lặp lại rằng đã có một “sự biện minh mang tính đạo đức tối cao” cho hành động của các tình nguyện viên.

Người Argentina rõ ràng không tin vào câu chuyện đáng ngờ đó. Taboada một lần nữa kêu gọi trả lại Eichmann và trừng phạt những người chịu trách nhiệm bắt giữ. Cuộc khẩu chiến ngoại giao leo thang, và mặc dù Frondizi muốn chôn vùi vụ việc bằng cách lặng lẽ đưa vấn đề ra Liên Hiệp Quốc, những thành viên trong chính phủ của ông vẫn có ý định thực hiện các biện pháp cứng rắn hơn. Đại sứ Liên hiệp quốc của ông, Mario Amadeo, một người Thiên Chúa giáo theo chủ nghĩa dân tộc và là người trước đây ủng hộ Benito Mussolini, đã dẫn đầu đoàn buộc tội ở New York. Trái ngược với mong muốn của Frondizi, Amadeo thúc đẩy mạnh mẽ việc Eichmann trở lại cũng như kêu gọi Liên hiệp quốc bỏ phiếu lên án Israel. Liên Hiệp Quốc đã triệu tập một cuộc họp Hội đồng Bảo an khẩn cấp để thảo luận về khiếu nại của ông. Bất chấp bài phát biểu gây xôn xao dư luận của Golda Meir để bảo vệ Israel, Amadeo không chỉ giành được sự lên án mà còn ra lệnh cho Israel thực hiện “các khoản bồi thường thích hợp”. Tuy nhiên, kèm theo nghị quyết là một tuyên bố của Liên Hiệp Quốc cho rằng Eichmann nên bị đưa ra công lý xét xử. Sự bế tắc giữa hai nước kéo dài đến cuối tháng 7, khi Levavi bị tuyên bố là người không được chào đón ở Argentina và buộc phải rời đi. Cuối cùng, đây là hành động duy nhất cần thiết để Frondizi giữ thể diện. Mặc dù vậy, một số người ở Argentina vẫn muốn trừng phạt người Israel. Không thể tấn công trực tiếp vào họ, các nhóm cánh hữu đã tung ra một loạt cuộc tấn công vào cộng đồng Do Thái ở Argentina. Nhóm Tacuara đã thực hiện vụ việc tồi tệ nhất, đánh đập một số sinh viên Do Thái tại Đại học Buenos Aires và hô vang “Eichmann muôn năm. Do Thái Đáng Chết.” Một học sinh bị bắn, trong một cuộc tấn công ác độc sau đó, những kẻ cực đoan Tacuara đã khắc một hình chữ vạn lên ngực một cô gái tuổi teen có cha bị nghi ngờ đã giúp đỡ người Israel. Nick và Dieter Eichmann treo một lá cờ hình chữ vạn trước ngôi nhà trên phố Garibaldi của họ và phát ngôn gay gắt.

Vera Eichmann kêu gọi tòa án Argentina tiến hành tố tụng chống lại những người liên quan đến vụ bắt cóc chồng bà. Vào ngày 12 tháng 7, một thẩm phán đã phê chuẩn vụ án và mở cuộc điều tra với sự hỗ trợ của cơ quan an ninh Argentina. Không ai trong đội của Harel bị nguy hiểm, ngoại trừ Luba Volk, người đã ký tên vào nhiều giấy tờ liên quan đến chuyến bay El Al, vẫn còn ở trong nước. Một buổi chiều khi đang lái xe về nhà ở Belgrano, bà cảm thấy có một chiếc ô tô đang đuổi theo mình. Sau vài lượt, bà đã chắc chắn về điều đó, nhưng đó là cảnh sát hay bọn quá khích thì bà không biết. Bà đi thẳng đến đại sứ quán Israel, nơi các quan chức an ninh hướng dẫn bà không được ra khỏi nhà một mình vào ban đêm và phải trông chừng con trai cẩn thận.

Volk cố gắng phớt lờ nỗi sợ hãi mà bà cảm thấy, tiếp tục các hoạt động hàng ngày của mình nhiều nhất có thể. Một tuần sau, bà và chồng được gọi đến văn phòng của Joel Baromi, quyền đại sứ Israel. Baromi thông báo với họ rằng mình có thông tin tình báo đáng tin cậy rằng người Argentina, được thúc đẩy bởi các thủ tục tố tụng do vợ Eichmann đưa ra, sẽ bắt giữ Volk vì bà có liên quan đến chuyến bay.

Baromi khuyên: “Hãy rời khỏi đất nước này càng sớm càng tốt, và bằng mọi cách có thể – hợp pháp hoặc bất hợp pháp”.

Ngày hôm sau, Volk và gia đình bà đóng gói những đồ đạc quan trọng nhất của họ vào vài chiếc vali  và lên chiếc máy bay nhỏ tới Uruguay. Sau vài tuần ở Montevideo, bà và con trai đi tới Israel. Chồng bà theo sau ngay sau đó, sự nghiệp kinh doanh của ông rơi vào tình trạng hỗn loạn vì vội vã rời Argentina và có tin đồn rằng ông thực sự là một đặc vụ của Mossad.

Đến mùa thu, mối quan hệ giữa Argentina và Israel đã được cải thiện, và vụ việc do Vera Eichmann xúi giục đã chùng xuống.

Các nhà điều tra thậm chí còn không tìm ra tên của những người đã trở về trên chuyến bay El Al. Mossad đã che giấu dấu vết quá tốt. Ngoài ra, động lực tiếp tục cuộc điều tra đã gặp phải sự phản kháng, ắt hẳn vì sự xấu hổ của nhiều cơ quan khác nhau của Argentina, bao gồm cả cảnh sát và các cơ quan an ninh, vì đã bị đánh lừa.

Người chơi chính khác trong vở kịch này là Tây Đức. Thủ tướng Konrad Adenauer đã công khai trừng phạt Israel về vụ bắt cóc và cam kết xét xử tội phạm chiến tranh. Ông được sự ủng hộ của nhiều biên tập viên báo chí hàng đầu của đất nước mình, những người yêu cầu dẫn độ Eichmann và “xét xử bởi các thẩm phán thay vì bởi những kẻ báo thù”. Nhưng Adenauer chưa bao giờ thực hiện bất kỳ nỗ lực nghiêm túc nào để dẫn độ Eichmann, biết rằng người Israel sẽ không từ bỏ quyền xét xử y. Tuy nhiên, khi phiên tòa đến gần, Adenauer ngày càng lo lắng về những gì Eichmann có thể tiết lộ về các hoạt động chiến tranh của cố vấn an ninh quốc gia của ông, Hans Globke. Các quan chức Israel và Tây Đức đã thực hiện những nỗ lực kín để đảm bảo rằng phiên tòa không làm chính phủ thủ tướng bẽ mặt.

KẾ TOÁN VIÊN CỦA THẦN CHẾT và CÂU CHUYỆN CỦA EICHMANN, PHẦN 1: TÔI VẬN CHUYỂN HỌ ĐẾN NGƯỜI ĐỒ TỂ là những tiêu đề trên tạp chí Der Stern của Đức và tạp chí Life của Mỹ theo thứ tự. Trong suốt mùa thu năm 1960, cả hai tạp chí đều xuất bản nhiều phần hồi ký của Eichmann, thu hút hàng triệu độc giả trên toàn cầu tìm hiểu đầu óc và lịch sử của tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã. Một số báo kể lại một cảnh vào cuối năm 1941 khi Eichmann chứng kiến ​​những sự chuẩn bị đầu tiên cho việc tiêu diệt người Do Thái: “Tướng Heydrich ra lệnh cho tôi đến thăm Majdanek, một ngôi làng Ba Lan gần Lublin. Một đại úy cảnh sát Đức đã chỉ cho tôi cách họ xây dựng những căn phòng kín gió được ngụy trang như những túp lều của nông dân Ba Lan bình thường, bịt kín chúng rồi sau đó bơm khí thải từ động cơ U-boat của Nga. Tôi nhớ rất chính xác vì tôi chưa bao giờ nghĩ rằng điều đó có thể xảy ra, về mặt kỹ thuật.” Những tuyên bố như vậy cho thấy sự coi thường nhẫn tâm của Eichmann đối với sự đau khổ của nạn nhân.

Cuốn hồi ký được lấy từ bản đánh máy dày 850 trang mà Willem Sassen đã thực hiện từ các cuộc phỏng vấn được ghi âm với Eichmann. Chỉ vài ngày sau thông báo của Ben-Gurion, Sassen đã tiếp cận các nhà xuất bản trên khắp thế giới để bán cuốn sách độc quyền phỏng vấn. Để được chia số tiền thu được, anh ta thậm chí còn thuyết phục Vera Eichmann cấp phép bán. Sau này, bà tuyên bố rằng mình  không biết bản chất nội dung của chúng.

Ngay cả trước khi được xuất bản, tin tức về sự tồn tại của cuốn hồi ký đã gây ra một cơn bão lửa. Người đứng đầu cơ quan tình báo Đức BND, Reinhard Gehlen, đã kiến ​​​​nghị CIA xác định xem cuốn hồi ký đó có phải là thật hay không và “nếu vậy thì có bao nhiêu tài liệu gây tổn hại cho các thành viên của chính phủ Tây Đức, để ngăn chặn những hồi ký, nếu muốn và có thể.” Cuối cùng, giám đốc CIA Allen Dulles đã thuyết phục các biên tập viên của Life loại bỏ việc đề cập đến Globke. Mossad đã biết về cuốn hồi ký vài ngày sau khi bắt cóc Eichmann, và họ đã tự kiếm được một phần bản sao, biết rằng nó sẽ khiến vụ án của họ chống lại Eichmann càng vững chắc hơn.

Trong khi những lời thừa nhận và hồi tưởng gây sốc của Eichmann thu hút phần còn lại của thế giới, Avner Less và những người khác trong Phòng 06 đã sử dụng cuốn hồi ký để thách thức  mạng lưới dối trá, nửa sự thật và phủ nhận của Eichmann trong các cuộc thẩm vấn đang diễn ra của mình. Cuộc điều tra đã thu được hơn 275 giờ băng ghi âm, tổng cộng 3.564 trang ghi chép. Phòng 06 cũng chất vấn Eichmann hàng trăm tài liệu chỉ ra sự tham gia của y vào vụ diệt chủng. Những tài liệu này, trong số hơn 400.000 trang được thu thập, đến từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm các kho lưu trữ chiến tranh ở Tây Đức và Hoa Kỳ cũng như các bộ sưu tập của Tuviah Friedman và Simon Wiesenthal.

Vào ngày Ben-Gurion thông báo cho Knesset, Wiesenthal nhận được một bức điện từ Yad Vashem thông báo cho ông về việc bắt giữ và nói rằng, “Xin chúc mừng vì công việc xuất sắc của ông.” Sau khi dành một chút thời gian để bình tĩnh lại trước những tin tức bất ngờ, ông quay sang cô con gái tuổi teen của mình, Pauline. “Khi còn nhỏ con chưa bao giờ nhìn thấy bố mình. Con đang ngủ là lúc bố đi tìm người đàn ông này, và khi bố về đến nhà thì con cũng còn ngủ. Bố không biết mình sẽ sống được bao lâu. Bố không biết liệu mình có thể sống được bao lâu. Bố không biết có để lại cho con chút tài sản nào không. Nhưng bức điện này là món quà bố  dành cho con. Bởi vì thông qua bức điện tín này giờ đây bố là một phần của lịch sử.” Trong những tháng tiếp theo, Wiesenthal trình bày với Hofstetter tất cả những gì ông có về Eichmann. Ông tình nguyện tìm kiếm thêm các hồ sơ buộc tội. Ông cũng cung cấp thông tin quan trọng về chiến lược bào chữa của Robert Servatius, luật sư của Eichmann,  thông qua một người cung cấp thông tin thân cận với gia đình Eichmann.

Friedman cũng sẵn sàng hỗ trợ như vậy. Tối 23/5, ông nhận được tin qua điện thoại. Người bạn của ông ở Tel Aviv phải nhắc lại trước khi Friedman có thể hiểu ra. Xao xuyến, ông bước ra khỏi văn phòng của mình để tìm đến một sạp báo, nơi đăng môt cách muộn màng một bản tin có dán hình khuôn mặt của Eichmann. Vài ngày sau, Friedman gặp Phòng  06, trình bày hồ sơ bốn trăm trang về Eichmann. Cuối cùng, nhiều năm tìm kiếm đầy ám ảnh, khám phá mọi chi tiết mà ông có thể săn tìm  về người đàn ông này, đã tỏ ra hữu ích: chứng minh tội lỗi của Eichmann.

_____

Trong quá trình thu thập bằng chứng, các điều tra viên của Phòng 06 không chỉ tìm kiếm các tài liệu buộc tội và lời thú tội của chính Eichmann. Họ muốn những nhân chứng, những nhân vật đã tiếp xúc với Eichmann trong chiến tranh, những người có thể làm chứng cho những hành động tàn bạo chống lại người Do Thái ở mọi quốc gia bị Đức Quốc xã chiếm đóng. Một trong những nhân chứng này, người đã nhìn thấy Eichmann trong những ngày trước khi khu ổ chuột Munkács ở Hungary được dọn sạch, là Zeev Sapir.

Vào ngày 1 tháng 11 năm 1960, Sapir đến văn phòng Phòng 06 để được phỏng vấn. Nhiều người đàn ông và phụ nữ đã tự mình trình diện, nhưng Sapir không phải là một trong số họ. Một hiệp hội người Hungary sống sót ở Israel đã gợi ý tên anh, và chỉ sau khi các điều tra viên của Phòng 06 liên lạc với anh về khả năng làm chứng, anh  mới đồng ý trình bày về những ký ức đau đớn tột cùng của mình về cuộc chiến.

Sau khi được Hồng quân giải cứu vào tháng 1 năm 1945, Sapir đã phải nằm viện nhiều tháng để hồi phục. Một sĩ quan Nga đã mời anh cùng trở về Moscow để dự Lễ Vượt Qua, và từ đó Sapir đã đi đến Bucharest, nơi anh được Ủy ban Phân phối Liên đới  Do Thái ở Mỹ giúp đỡ, đã cho anh một số tiền và cho phép anh đến ở vài tuần trong trại trung chuyển  của họ. Anh dùng tiền để mua một bộ đồ; bộ quần áo mới đã khiến anh cảm thấy mình trở lại là con người. Sapir sau đó đã trở về quê hương Dobradovo, nhưng ở đó chẳng còn lại gì cho anh. Trở lại Budapest, trong khi đăng ký tên của mình với chính quyền, theo yêu cầu vào thời điểm đó, anh đã phát hiện ra tên anh trai mình trong danh sách đăng ký cách đó một tuần. Sapir đi tìm kiếm anh  khắp nơi; anh vẫn luôn tưởng anh trai mình đã chết trong trại lao động Hungary. Sau đó vài tuần, trên một chuyến tàu tới Vienna, anh bỗng nhìn thấy gương mặt anh trai phản chiếu trong một tấm gương và họ đã được đoàn tụ. Cùng nhau, hai anh em đã đến Áo và thông qua mạng lưới Brichah đi bằng thuyền đến Palestine. Sapir đã gia nhập một kibbutz và giống như nhiều người tị nạn khác, đã tham gia vào cuộc đấu tranh cho một nhà nước Do Thái độc lập. Sau này, anh lấy vợ, lập gia đình và làm giáo viên. Đối với anh, việc nhắc lại quá khứ vẫn còn khó khăn nhưng anh chưa bao giờ quên nó.

Bây giờ, khi ngồi trước mặt các điều tra viên của Phòng 06, những ký ức chợt hiện về trong anh: lò gạch Munkács, Auschwitz, mỏ than Dachsgrube. Anh cũng kể cho họ nghe về thời điểm Adolf Eichmann đi vào khu ổ chuột ở Munkács và tuyên bố rằng người Do Thái không có lý do gì phải lo lắng. Vài ngày sau, anh giải thích với các nhà điều tra rằng anh và những người còn lại trong làng đã bị chuyển đến trại tử thần.

28

TRONG THUNG LŨNG BÊN DƯỚI  Thành phố Cổ có Beit Ha’am, Toà Nhà của Nhân dân, một tòa nhà bốn tầng bằng đá trắng và đá cẩm thạch ở giữa Jerusalem hiện đại, hỗn loạn. Vào ngày 11 tháng 4 năm 1961, lúc 8:55 sáng, một trăm cảnh sát và quân đội với vũ khí tự động đã bao vây canh gác tòa nhà. Bên trong, Adolf Eichmann, mặc bộ vest màu xanh đậm, đeo cà vạt và đeo cặp kính gọng sừng dày, được đưa vào phòng xử án và đi thẳng vào một buồng kính chống đạn ở phía bên trái của khán phòng. Y ngồi đối diện với bục nhân chứng trống rỗng. Hai người bảo vệ đứng ngay phía sau y.

Ngồi trong hội trường, 750 khán giả nhìn y không chớp mắt. Trực diện phía trước họ, trên tầng đầu tiên của bục cao ba bậc, là năm công tố viên và hai luật sư bào chữa trong bộ áo choàng đen, ngồi cạnh nhau tại các bàn. Phía trên họ là những người viết tốc ký và thư ký của tòa án.

Trong năm phút, có rất ít chuyển động trong hội trường. Eichmann ngồi yên lặng, chịu đựng, hiếm khi liếc nhìn ra ngoài buồng kính của mình. Chỉ có tiếng thì thầm bị bóp nghẹt khi khán giả cố gắng hiểu làm thế nào người đàn ông trơ trọi này, với khuôn mặt bình thường và phong thái chừng mực này, lại có thể chịu trách nhiệm cho nhiều cái chết như vậy. Họ sẽ bớt ngạc nhiên hơn nếu trong buồng kính là một con quái vật đang cào cấu dữ dội vào sợi xích của nó. Máy ảnh và micrô ẩn trong các bức tường lát gạch cách âm, ghi lại mọi khoảnh khắc để thế giới nhìn và nghe.

Cuối cùng ba vị thẩm phán bước vào phòng xử án và ngồi vào những chiếc ghế có lưng cao ở bục phía trên cùng. Bằng tiếng Do Thái trầm lặng nhưng nghiêm khắc, chủ tọa phiên tòa, Moshe Landau, đã mở đầu phiên tòa. “Adolf Eichmann, đứng dậy!”

Eichmann bật dậy ngay khi lời nói của thẩm phán được dịch qua chiếc tai nghe đeo trên cổ y.

“Ông có phải là Adolf Eichmann, con trai của Adolf Karl Eichmann?”

“Vâng,” y trả lời.

Khi được ban thẩm phán hướng dẫn, Eichmann quay về phía họ, quai hàm hơi nhếch lên, vẻ mặt vẫn dửng dưng. Landau bắt đầu đọc bản cáo trạng, đầu cuối, tay chắp như thể đang cầu nguyện.

“Điểm đầu tiên. Bản chất của hành vi phạm tội: Tội ác chống lại người Do Thái. Các chi tiết của hành vi phạm tội: (a) Bị cáo, trong khoảng thời gian từ 1939 đến 1945, cùng với những người khác, đã gây ra cái chết của hàng triệu người Do Thái với tư cách là người phải chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch của Đức Quốc xã về việc tiêu diệt thể xác người Do Thái, một kế hoạch được biết đến với tiêu đề ‘Giải pháp Cuối cùng cho Vấn đề Do Thái’.

Giọng nói của Landau giống như giọt nước nhỏ vào đá. Bản cáo trạng kéo dài suốt một giờ: mười lăm tội danh, vô số cáo buộc trong từng tộj danh. Bị cáo đã nhổ tận gốc toàn bộ quần thể. Bị cáo đã tập hợp những người Do Thái vào các khu ổ chuột và trục xuất họ hàng loạt. Bị cáo đã phạm tội giết người hàng loạt tại các trại diệt chủng Auschwitz, Chelmno, Belzec, Sobibor, Treblinka và Majdanek. Bị cáo đã bắt người Do Thái làm nô lệ trong các trại lao động cưỡng bức và phủ nhận quyền làm người của họ. Bị cáo đã tra tấn và gây ra đau khổ một cách vô nhân đạo. Bị cáo đã trấn lột tài sản của người Do Thái thông qua cướp bóc, khủng bố và tra tấn. Bị cáo  đã trực tiếp liên quan đến cái chết của một trăm trẻ em ở Lidice, Ba Lan. Bị cáo đã hoạt động khắp châu Âu cũng như ở Liên Xô và các nước vùng Baltic như Litva, Latvia và Estonia – luôn luôn, với chủ định “tiêu diệt Dân tộc Do Thái”.

Khi thẩm phán yêu cầu Eichmann đưa ra lời bào chữa, y đã trả lời bằng cụm từ tương tự cho mỗi tội danh. “Theo nghĩa của bản cáo trạng thì không.” Đây chính xác là tuyên bố mà Hermann Göring đã sử dụng tại Nuremberg.

Ngay sau khi lời bào chữa của luật sư của Eichmann được lắng nghe, Gideon Hausner, tổng chưởng lý 45 tuổi, một người đàn ông có dáng người mập mạp và đội mũ trùm đầu, mắt xanh, bắt đầu bài phát biểu mở đầu của mình. Ông có phong thái của một người biết rằng mình đang nói thay cho lịch sử.

Khi tôi đứng trước các quý vị đây, các Thẩm phán của Israel, để cầm đầu quyền Công tố đối với Adolf Eichmann, tôi không đứng một mình. Cùng với tôi là sáu triệu người buộc tội. Nhưng họ không thể đứng dậy và chỉ ngón tay buộc tội về phía người ngồi trước tòa và kêu lên: “Tôi buộc tội”. Vì tro của họ được chất đống trên những ngọn đồi ở Auschwitz và cánh đồng Treblinka và rải rác trong các khu rừng ở Ba Lan. Những ngôi mộ của họ nằm rải rác khắp chiều dài và chiều rộng của châu Âu. Máu của họ kêu lên, nhưng tiếng nói của họ không được nghe thấy. Vì thế tôi sẽ là người phát ngôn của họ.

Phiên tòa đã được bắt đầu. Theo sự chỉ đạo và mục tiêu của David Ben-Gurion, nó giống như việc vạch trần chương trình tiêu diệt người Do Thái của Đức Quốc xã cũng như việc truy tố một tội phạm. Trong 56 ngày tiếp theo, Hausner mở vụ án chống lại Eichmann, đặt y vào mối liên hệ với Holocaust. Ông trình bày cho Eichmann kết quả thẩm vấn của Avner Less, các tài liệu của Đức bị thu giữ, các lời khai từ những cộng tác viên cũ của ông ta như chỉ huy trại Auschwitz Rudolf Höss, các trang từ các cuộc phỏng vấn của Sassen, và lời khai của nhân chứng.

Trong suốt quá trình truy tố, Eichmann vẫn bình tĩnh và cảnh giác. Mỗi lần bước vào buồng kính của mình trước phiên xử, y lấy khăn tay lau bàn ghế, rồi sắp xếp giấy tờ về mình như thể đang chuẩn bị cho một ngày ở văn phòng. Thông thường, y luôn tập trung vào công tố viên. Thỉnh thoảng, tuy nhiên, đầu y sẽ giật sang trái, dường như là vô tình, hoặc y sẽ hóp má đến mức da căng cứng ở xương mặt. “Trong những khoảnh khắc như thế,” một nhân chứng kể lại, “y có phần giống Eichmann mà chúng tôi muốn thấy: một khuôn mặt tàn nhẫn không thể giải thích được, khiến tôi rùng mình.”

Vào ngày 28 tháng 5, Zeev Sapir đã được gọi lên bục nhân chứng. Khi bước vào căn phòng, Sapir nhìn Eichmann và cảm thấy một niềm tự hào và phấn chấn dâng trào khi nhìn thấy kẻ thù của dân tộc mình đang ngồi. giữa hai lính gác Israel. Sau khi một trong các thẩm phán đọc lời  tuyên thệ, trợ lý công tố trẻ Gabriel Bach bắt đầu thẩm vấn. Đầu tiên thật dễ dàng: tên, thị trấn nơi sinh, ngày quân Đức đến. Sau đó, anh được hỏi về việc quét sạch Dobradovo.

“Làng của anh có bao nhiêu người Do Thái?” Bach hỏi.

Sapir trả lời: “Một trăm lẻ ba linh hồn, bao gồm cả trẻ em ở mọi lứa tuổi”. Anh tiếp tục nói, khi những ký ức về những gì đã mất ở đó quay trở lại với anh.

Bach sau đó hỏi Sapir đã nghe nói từ lúc nào một sĩ quan SS quan trọng dự kiến ​​sẽ đến Munkács. Sapir mô tả việc điểm danh và người đàn ông tên Eichmann đi vào khu ổ chuột dẫn đầu một nhóm gồm các sĩ quan Đức và Hungary.

“Anh nhìn thấy bị cáo ở đây. Anh có thể xác định có phải ông ta là người đàn ông mà anh đã nhìn thấy lúc đó không?”

Sapir lại nhìn chằm chằm vào Eichmann, người đang ngồi trong buồng kính, mắt ngoảnh đi, đang viết nguệch ngoạc điều gì đó vào sổ tay. Tên giống nhau, nhưng người đàn ông đối diện với Sapir không có đồng phục, vũ khí và khí chất quyền lực. Hơn nữa, mười bảy năm đã trôi qua. “Thật khó để so sánh,” Sapir nói. “Ông ấy rất khác với con người thật của ông  ta, nhưng có một số điểm tương đồng mà tôi có thể thấy ở ông ta.” Sau đó, nhân chứng kể lại nỗi kinh hoàng đã chờ đợi anh sau khi Eichmann rời trại. Ký ức vẫn còn nguyên vẹn và tươi rói.

Sapir nói với phòng xử án rằng anh không bao giờ gặp lại cha mẹ hoặc các em trai và em gái của mình sau quá trình tuyển chọn tại Auschwitz. Anh gần như vỡ òa khi nhớ lại tuổi của các em nhỏ: mười một, tám, sáu và ba. Phòng xử án im lặng khi anh kể lại cuộc hành trình của mình từ mỏ than và sau đó là Sĩ quan SS Lausmann chuẩn bị tàn sát những người không thể đi tiếp: “Một cái nồi được mang vào phòng, chúng tôi đều tưởng trong đó có thức ăn. Nhưng hắn bắt chúng tôi, từng người một, cúi xuống từng người vào trong nồi và bắn họ ở sau gáy.”

Sapir gặp khó khăn khi đứng thẳng trên bục nhân chứng. Một nhân viên mang đến cho anh một chiếc ghế. Anh ngồi xuống một cách khó khăn và ôm đầu gục xuống trong vòng tay. Anh không chạm vào ly nước được đưa cho mình. Công tố viên đề nghị bỏ qua câu hỏi về việc cuối cùng anh đã trốn thoát bằng cách nào, nhưng Sapir muốn kể câu chuyện của mình. Anh đã giành được quyền. Anh muốn nói với họ rằng anh đã bị buộc phải ăn khoai tây đông lạnh để tồn tại và về những vụ xả súng bừa bãi trong rừng. Thẩm phán Landau đã cho phép điều đó. Khi nói xong, Sapir giơ tay áo lên và cho cả phòng xử án xem hình xăm Auschwitz của mình: A3800.

Vào thời điểm đó, không thể biết lời khai của anh sẽ đóng vai trò gì đối với kết quả của phiên tòa, nhưng điều quan trọng đối với anh là sự thật về những gì anh đã trải qua vì Eichmann giờ đã được biết. Thật vậy, sau khi đưa tin đầy đủ về phiên tòa trên báo chí, đài phát thanh và truyền hình, câu chuyện của Sapir, giống như mọi khía cạnh khác của phiên tòa, đã được biết đến trên toàn cầu. Một số đặc vụ của chiến dịch thành công đã giúp phiên tòa có thể diễn ra đã đến mục kích  Eichmann trong buồng kính. Hầu hết không buồn đến dự nhiều hơn một phiên; họ còn bận rộn với các hoạt động khác. Chỉ cần biết mình đã thành công trong việc lôi y ra trước công lý là đủ.

Sau khi tổng chưởng lý Hausner đã trình bày xong phần luận tội của mình, đến lượt của luật sư biện hộ. Ông tuyên bố rằng nhà nước Đức Quốc xã phải chịu trách nhiệm về các tội ác. Eichmann chỉ đơn thuần tuân theo mệnh lệnh, và vai trò của ông ta trong các hành động tàn bạo đã bị hạn chế và được thực thi mà không có bất kỳ sự sốt sắng cụ thể nào từ phía bị can. Trên thực tế, Servatius lập luận, Eichmann thực sự muốn cứu người Do Thái bằng cách thúc đẩy việc di cư của họ. Cuối cùng Eichmann đã lên tiếng bảo vệ mình.

Với giọng điệu quân sự, cụt ngũn của y, người ta có thể mong đợi những câu trả lời thẳng thắn, nhưng Eichmann đã nói loanh quanh dài dòng, bỏ lững mà phần mở đầu thường mâu thuẫn một cách khó hiểu với đoạn kết thúc. Tuy nhiên, những lập luận của y dường như hoàn toàn có lý đối với y, cũng như những chuyến du ngoạn dài dòng của y vào sự phức tạp của hệ thống cấp bậc Đức Quốc xã, đầy những biệt ngữ SS không thể hiểu được. Các người dịch đương đầu với  nhiệm vụ nặng nề trong việc truyền đạt những lời phát biểu của y. Về tội đồng lõa trong vụ sát hại hàng triệu người, y lý giải:

Theo quan điểm tội lỗi của con người, một câu hỏi mà tôi phải phán xét một cách nghiêm khắc hơn nhiều, bởi vì về mặt này tôi phải ngồi phán xét cùng với bản thân tôi – về mặt này, tôi phải thừa nhận rằng tôi đã thực hiện phần việc của mình, mặc dù theo lệnh. Từ quan điểm pháp lý, với tư cách là người nhận mệnh lệnh, tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc thực hiện chúng. Việc tôi phải thực hiện một phần việc trục xuất và những người Do Thái bị trục xuất đã chết đến mức nào, tôi có tội về mặt pháp lý đến mức nào là một câu hỏi mà theo tôi, nên để lại cho đến khi câu hỏi về trách nhiệm được xem xét.

Eichmann hiếm khi lùi bước trong 50 giờ đối chất tiếp theo, ngay cả khi bị vướng vào những lời dối trá của chính mình. Các đoạn băng của Sassen tỏ ra là bằng chứng kết tội mạnh mẽ, đặc biệt là ở khía cạnh phơi bày sự sẵn sàng và quyết liệt của Eichmann trong việc thực thi nhiệm vụ của mình chống lại người Do Thái. Y giành được nhiều chiến thắng trong các cuộc đấu khẩu, hầu hết trong số đó khi Hausner cố gắng tiếp cận quá mức bằng cách lôi kéo Eichmann vào mọi khía cạnh của nạn diệt chủng người Do Thái. Trước sự thất vọng của chính quyền Adenauer, Eichmann nhắc nhở tổng chưởng lý rằng Hans Globke cũng đóng một vai trò nào đó, nhưng vì Globke chưa bao giờ được gọi để làm chứng nên việc đề cập này có ít tác động.

Trong suốt cuộc thẩm vấn chéo, Eichmann chứng tỏ là một sự hiện diện đáng gờm, không hề lay chuyển trước nhiều nỗ lực của vị tổng chưởng lý, một số là thiếu sáng suốt, nhằm buộc ông ta phải thừa nhận tội lỗi pháp lý. Tuy nhiên, Eichmann không thể trốn tránh sức nặng của bằng chứng chống lại y, đặc biệt là những bằng chứng liên quan đến hành động của y ở Hungary.

Sau khi kết thúc những phát biểu vào ngày 14 tháng 8, quan tòa cho hoãn phiên tòa. Bốn tháng sau, họ quay trở lại với phán quyết của họ. Eichmann  bị kết tội về tất cả nội dung của bản cáo trạng, nhưng y đã được trắng án trong nhiều cáo buộc cá nhân trong số này. Khi Eichmann lắng nghe các thẩm phán đọc bản án dài 211 trang của họ, y dần mất kiểm soát bản thân. Khuôn mặt y co giật, và y điên cuồng nhìn từ bên này sang bên kia.

Vào cuối ngày thứ hai, Eichmann đưa ra tuyên bố, lặp lại nhiều lập luận mà y đã sử dụng để bào chữa cho mình. Vào thứ sáu, ngày 15 tháng 12 năm 1961, Thẩm phán Landau yêu cầu Eichmann đứng dậy và tuyên án:

Đối với việc gửi mỗi chuyến tàu của bị cáo tới Auschwitz, hoặc tới bất kỳ địa điểm tiêu diệt nào khác, mang theo một nghìn người, có nghĩa là bị cáo là kẻ đồng lõa trực tiếp trong một nghìn hành vi giết người có chủ ý. Ngay cả khi chúng tôi phát hiện ra rằng bị cáo đã hành động vì sự vâng lời mù quáng, như ông ta lập luận, chúng tôi vẫn có thể nói rằng một con người đã tham gia vào những tội ác nghiêm trọng như thế này trong nhiều năm phải trả mức hình phạt tối đa mà luật pháp quy định … Nhưng chúng tôi phát hiện ra rằng bị cáo đã hành động xuất phát từ sự đồng lòng nội tâm với mệnh lệnh đã được đưa ra và xuất phát từ ý chí quyết liệt nhằm đạt được mục tiêu phạm tội… Tòa án này tuyên án tử hình Adolf Eichmann.

Đây là bản án tử hình đầu tiên và duy nhất cho đến ngày nay của tòa án Israel.

Eichmann bất động, môi mím lại như thể đang buộc mình phải kìm nén dù chỉ một phản ứng nhỏ nhất. Cổ họng và cổ áo sơ mi của y ướt đẫm mồ hôi. Tám phút sau khi phiên xử bắt đầu, chấp hành viên hô to: “Tất cả đứng dậy!” và các thẩm phán lần lượt ra ngoài. Phiên tòa đã kết thúc.

Eichmann kháng cáo bản án và các phiên điều trần được tổ chức vào tháng 3 năm 1962. Trong khi chờ đợi quyết định tại nhà tù Ramleh, khu đồn trú được canh gác nghiêm ngặt bên ngoài Jerusalem, nơi y bị giam giữ trong suốt cả hai quá trình tố tụng, y đã viết cuốn tự truyện thứ hai của mình. Đây là nỗ lực thứ ba của y để kể câu chuyện của đời mình. Cuộc phỏng vấn với Sassen là cuộc phỏng vấn đầu tiên của y; cuốn hồi ký y viết khi ở Trại Iyar giữa các buổi thẩm vấn với Avner Less là cuốn hồi ký thứ hai. Mỗi lần như vậy, mục đích của y đều là biện minh cho vai trò của mình trong Holocaust và đặt hành động của mình vào những gì y coi đó là ánh sáng tốt nhất có thể: ba tài liệu được tạo ra  cho y nhiều hơn cho bất kỳ ai khác.

Eichmann bắt đầu gặp Mục sư William Hull, một nhà truyền giáo Tin lành người Canada ở Jerusalem. Theo sáng kiến ​​riêng của mình, Hull đã thỉnh cầu người Israel cho phép ông làm cố vấn tâm linh cho Eichmann. Lúc đầu Eichmann từ chối, nhưng Hull vẫn kiên trì, và cuối cùng cả hai gặp nhau trong phòng giam của Eichmann lần đầu tiên trong số mười ba phiên gặp gỡ. Hull muốn cứu linh hồn của tên tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã bằng cách khiến y ăn năn tội lỗi, thú nhận những việc làm trong quá khứ của mình và xác nhận rằng “Chúa Jesus Christ là Đấng Cứu Rỗi của ông ta”, một nhiệm vụ cao cả mà Eichmann đã dành mười bảy năm qua để thuyết phục bản thân chính xác lý do tại sao y không cần phải tìm kiếm sự tha thứ cho những gì mình đã làm.

Eichmann tham gia vào các cuộc nói chuyện này với mục đích nghiêm túc thường thấy của mình. Y giải thích với Hull rằng y tin vào Chúa nhưng việc nghiên cứu các tôn giáo khác, cũng như Nietzsche và Kant trong quá trình “tìm kiếm bình an thông qua sự thật” đã khiến y rời xa tôn giáo có tổ chức. Y tin vào một vị thần thuộc phiếm thần luận, một vị thần có trong tự nhiên và trong mọi vật.

Hull thuyết phục Eichmann tiếp tục nghiên cứu Kinh thánh (y từ chối đọc Cựu Ước vì đó là “truyện ngụ ngôn của người Do Thái”), nhưng ngoài điều này, mục sư không thành công gì ngoài việc lôi kéo Eichmann vào cuộc trò chuyện. Eichmann không sợ sự phán xét của Chúa: “Không có địa ngục”, y tuyên bố. Hơn nữa, y từ chối thú tội: “Tôi không phạm tội. Tôi rõ ràng với Chúa. Tôi không làm điều đó. Tôi không làm gì sai cả. Tôi không hối hận.” Hull o ép y về vấn đề này, nhưng Eichmann tỏ ra cứng nhắc trong đức tin tự tạo.

Vào ngày 29 tháng 5 năm 1962, đơn kháng cáo của Eichmann bị bác bỏ.  Y đỏ mặt tức giận khi hội đồng gồm 5 thẩm phán trình bày lại lý do đưa ra bản án có tội. Cuối ngày hôm đó, y cầu xin sự khoan hồng với tổng thống Israel. Hai ngày sau đó, lúc 7 giờ tối, ủy viên nhà tù, Arye Nir, người đã giám sát việc giam giữ Eichmann trong hai năm, báo cho tù nhân của mình rằng lời cầu xin này cũng đã bị từ chối. Eichmann đã hết lựa chọn, và Nir dứt khoát thông báo với y rằng y sẽ bị treo cổ vào lúc nửa đêm.

Eichmann yêu cầu một chai rượu vang trắng, thuốc lá, một tờ báo và cái bút. Ngồi ở bàn làm việc trong phòng giam, người cảnh vệ luôn túc trực bên cạnh, y viết lá thư cuối cùng cho vợ và các con trai. Sau đó y cạo râu, mặc quần nâu và áo sơ mi rồi đánh răng. Đến 11 giờ 20 tối, khi Linh mục Hull đến, Eichmann đã uống hết nửa chai rượu, hút thuốc lá và bình tĩnh đến đáng sợ.

“Tại sao ông buồn?” Eichmann hỏi mục sư. “Tôi thì không buồn.”

Họ đã dành 20 phút bên nhau, nhưng Eichmann vẫn chưa hối lỗi vào phút cuối cùng. “Tôi có sự bình yên trong trái tim tôi. Thực sự, tôi rất ngạc nhiên khi thấy mình có được sự bình yên đến thế… Cái chết chỉ là sự giải thoát của linh hồn.”

Hai lính canh và viên chỉ huy bước vào phòng giam. Trước khi họ trói tay y ra  sau lưng, Eichmann xin cầu nguyện một lát. Y lui vào góc trong một phút rồi tuyên bố: “Tôi đã sẵn sàng.”

Cùng với Hull, Eichmann được áp giải xuống hành lang nhà tù. Y bước đi nhanh nhẹn năm mươi thước, và Nir phải ra lệnh cho lính canh đi chậm lại. Nhóm bước vào phòng hành quyết dã chiến thông quá một khoảng trống  đã được đục xuyên qua một bức tường. Trước đây, căn phòng tầng ba là nơi ở của lính canh. Một bệ gỗ đã được xây trên một lỗ khoét trên sàn phòng. Một sợi dây được treo vào khung sắt. Chánh thanh tra Phòng 06 Michael Goldmann và Rafi Eitan, những người đến chứng kiến Eichmann, đang đợi họ với tư cách là nhân chứng cho vụ hành quyết. Trong vài tháng qua, Eitan đã thẩm vấn Eichmann nhiều lần tại Trại Iyar về cách tổ chức và hoạt động của SS.

Các lính canh dẫn Eichmann lên bục gỗ và trói hai chân y lại với nhau. Y nhìn chằm chằm vào Eitan và nói một cách gay gắt, “Tôi hy vọng, rất nhiều, sẽ đến lượt ông ngay sau lượt của tôi.”

Một chiếc mũ trùm đầu màu trắng được mang ra nhưng y từ chối. Y nhìn bốn nhà báo được chọn để chứng kiến ​​vụ hành quyết khi họ đang viết nguệch ngoạc trên tập giấy của mình. Một sợi dây thừng, lót bằng da để chống trầy xước, được quàng qua đầu y.

“Nước Đức muôn năm,” Eichmann kêu lên. “Argentina muôn năm. Nước Áo muôn năm. Tôi phải tuân theo luật chiến tranh và lá cờ của mình. Tôi đã sẵn sàng.”

Hai lính canh di chuyển đằng sau tấm chăn che chắn cơ chế mở cửa sập dưới chân tù nhân. Thiết bị này đã được thiết kế sao cho chỉ một trong hai nút thực sự có thể mở được cửa sập của bệ.

Eichmann mỉm cười yếu ớt và nói: “Các quý ông, chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau, số phận của mọi người là vậy. Tôi đã tin vào Chúa cả đời và tôi cũng tin vào Chúa đến chết.”

Lúc đó đúng là nửa đêm.

Người chỉ huy hét lên: “Sẵn sàng!”

Eichmann nhắm mắt lại, nhìn xuống cánh cửa sập bên dưới. bàn chân. Mặt y tái ngoét.

“Hành động!”

Hai lính cảnh vệ nhấn nút và bục gổ mở ra với một tiếng keng..

Eichmann rơi 10 bộ xuống căn phòng bên dưới mà không gây ra tiếng động nào. Sợi dây đi thẳng, nghe rít một tiếng rồi lắc lư qua lại.

Goldmann nhìn qua lỗ trên sàn và nói rằng Eichmann không cử động. Một bác sĩ bước vào căn phòng ở tầng hai, kiểm tra Eichmann và chính thức tuyên bố rằng y đã chết.

Các nhân chứng đều ký vào bản tuyên bố xác nhận sự có mặt của họ tại vụ hành quyết.

Sau đó Nir bảo những lính canh bất đắc dĩ cắt thòng lọng khỏi xác chết. Sắc mặt Eichmann trắng bệch, sợi dây cứa vào cổ y. Khi một trong những người cảnh vệ, Shlomo Nagar, nhấc Eichmann lên, anh trục xuất một ít không khí mắc kẹt trong phổi của người chết, tạo ra một âm thanh khiến Nagar gần như ngất xỉu và anh ắt sẽ nghe lại trong những cơn ác mộng của mình trong nhiều năm tới. Anh và một số lính canh khác đặt Eichmann lên cáng, đắp chăn len màu xám cho y rồi khiêng y  ra sân nhà tù. Eitan ở lại phía sau. Ông đã thấy đủ rồi.

Goldmann, có cha mẹ và đứa em gái mười tuổi đã bị tách khỏi anh ở Auschwitz, cùng Nir và Hull đi theo những người cảnh vệ và chiếc cáng ra sân.

Có một làn sương mù lờ mờ trong không khí, và với ánh đèn nhà tù chiếu qua hàng rào thép gai, Goldmann nhớ đến trại hành quyết nơi gia đình anh đã bị giết. Lính canh đưa thi thể ra khỏi cổng nhà tù đến một bãi trống trong một khu rừng cam. Ở đó một người đàn ông từng làm việc tại lò hỏa táng của trại tử thần đang đợi bên một lò nung. Khi lính gác cố gắng đặt cái xác vào đống lửa đang âm ỉ bằng một chiếc nĩa sắt dài có hai mũi nhọn, một người trong số họ mất thăng bằng và cái xác rơi xuống đất. Mọi người đều chết lặng khi nhìn thấy cảnh tượng này. Goldmann xắn tay áo lên, bước tới giúp đặt thi thể vào trong lò. Trong ánh sáng rực rỡ, Hull nhìn thấy hình xăm Auschwitz trên cánh tay của sĩ quan Phòng 06.

Hai giờ sau, tro được lấy ra khỏi bể chứa đã cháy đen. Họ đổ đầy một nửa hộp trụ nhỏ bằng  niken. Goldmann ước tính xem có bao nhiêu người Do Thái chết  đã tạo nên núi tro bên ngoài lò hỏa táng Auschwitz-Birkenau. Vào mùa đông, lính SS đã buộc anh phải rải tro này trên đường đi để quân Đức không bị trượt chân trên băng.

Với sự tham gia của Hull, Nir và Goldmann lái xe đến cảng Jaffa. Họ đến nơi trong bóng tối của buổi sáng ngày 1 tháng sáu. Một số quan sát viên khác đang đợi bên cạnh thuyền máy tuần tra của cảnh sát Yarden, và họ cùng nhau lái ra biển khơi. Bằng cách ném tro của Adolf Eichmann ra biển, sẽ không có nơi nào để ai đó muốn tỏ lòng kính trọng đối với cuộc đời y hoặc để xây dựng tượng đài tôn vinh y. Cách đó sáu dặm, ngay bên ngoài lãnh hải của Israel, thuyền trưởng đã tắt động cơ. Con thuyền trôi đi trong im lặng, lên xuống bập bềnh theo sóng nước. Một vạt ánh sáng đỏ xuất hiện ở phía chân trời. Khi Hull lầm rầm cầu nguyện, Nir bước ra phía sau thuyền và đổ chiếc hộp trụ đựng tro vào những con sóng xoáy. Tro bụi trôi lên đỉnh sóng rồi biến mất. Động cơ đã khởi động và thuyền trưởng quay trở lại bờ biển.

Họ đến được bờ đúng lúc mặt trời đang dần nhô lên trên bầu trời và Tel Aviv đã sống lại.

LỜI KẾT

ELIE WIESEL, người đoạt giải Nobel Hòa bình, tác giả và người sống sót ở Auschwitz, đã tham dự phiên tòa xét xử Eichmann với tư cách là phóng viên. Nhiều năm sau, ông nói rằng việc bắt giữ và xét xử tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã cho thấy rằng

Lịch sử Do Thái có trí tưởng tượng phong phú. Một số người Do Thái đã bắt được y và đưa y ra trước công lý. Họ đã không giết y, điều mà họ có thể làm ở Buenos Aires. Không, họ đã đưa y đến đất nước Israel tự do và có chủ quyền, nơi con người có thể xét xử y. Phiên tòa gần như quan trọng trong lĩnh vực giáo dục hơn là trong lĩnh vực tư pháp. Điều quan trọng là thanh niên Israel phải biết chuyện gì đã xảy ra, chúng ta đến từ đâu. Và đó chính là điều mà phiên tòa Eichmann thực sự đã làm được. Nhưng không chỉ ở Israel, bước ngoặt thực sự là nhận thức của thế giới đối với bi kịch của dân tộc Do Thái.

David Ben-Gurion đã đạt được tham vọng của mình. Phiên tòa đã có tác động sâu sắc đến Israel. Nó thống nhất đất nước theo cách mà nó chưa từng được thống nhất kể từ cuộc chiến năm 1948. Nó giáo dục công chúng Israel, đặc biệt là giới trẻ, về bản chất thực sự của Holocaust. Và sau mười sáu năm im lặng, nó đã cho phép những người sống sót chia sẻ trải nghiệm của họ một cách cởi mở. Phiên tòa cũng củng cố cho người Israel rằng một quốc gia có chủ quyền đối với người Do Thái là điều cần thiết cho sự sống còn của họ.

Đối với phần còn lại của thế giới, vụ Eichmann khiến sự kiện Holocaust bắt rễ trong ý thức văn hóa tập thể. Sự chuyên sâu của tin tức và làn sóng tiểu sử của Eichmann cũng như những lời kể tuyệt vời về việc bắt giữ ông ta đã góp phần vào quá trình này. Cuộc tranh luận được khuấy động bởi phiên tòa, đặc biệt là sau khi Hannah Arendt xuất bản cuốn Eichmann ở Jerusalem vào năm 1963, đã nuôi dưỡng và củng cố những cội nguồn đó. Những nhận xét của cô về tính tầm thường của cái ác mờ nhạt so với cơn bão lửa gây ra bởi những lời chỉ trích của cô về phiên tòa và lời kết án  của cô đối với nhiều người Do Thái về cơ bản đã đồng lõa với việc tiêu diệt chính đồng bào họ trong chiến tranh. Hàng trăm bài báo và cuốn sách đã được xuất bản phản đối hoặc ủng hộ lập luận của cô ấy, gây ra sự xem xét lại kỹ lưỡng và đầy nhiệt huyết về lịch sử diệt chủng. Vụ thảm sát Holocaust cuối cùng đã được ghi nhớ trong ý thức của thế giới – không bao giờ bị lãng quên – bởi sự ra đời ào ạt của các cuốn hồi ký của những nạn nhân sống sót, các tác phẩm học thuật, các vở kịch, tiểu thuyết, phim tài liệu, tranh vẽ, triển lãm bảo tàng và các bộ phim tiếp nối sau phiên tòa và điều đó vẫn tiếp tục tận ngày nay. Ý thức này, ở Israel và trên toàn thế giới, là di sản lâu dài của chiến dịch săn lùng Adolf Eichmann.

Tất cả những người tham gia vào cuộc rượt đuổi kéo dài mười lăm năm đều được ghi nhớ bằng trải nghiệm.

Simon Wiesenthal và Tuviah Friedman đã giành được rất nhiều sự chú ý nhờ sự tham gia của họ. Vai trò của họ thường được thổi phồng, phần lớn là do Mossad không đưa ra bất kỳ tuyên bố nào trong một thời gian dài. Được khuyến khích bởi sự quan tâm mới của công chúng đối với tội ác chiến tranh, cả hai quay trở lại săn lùng tội phạm Đức Quốc xã, mặc dù Wiesenthal theo đuổi các vụ án của mình mạnh mẽ hơn và thành công hơn Friedman. Bất chấp lời kể của Wiesenthal với con gái ông cho rằng vụ án Eichmann sẽ bảo đảm tên tuổi của mình trong lịch sử, chính 45 năm hoạt động không ngừng nghỉ của mình, nhằm thúc đẩy “công lý chứ không phải sự báo thù”, mới tạo ra di sản của ông.

Fritz Bauer, người mà sự liên quan vẫn được giữ bí mật trong hai thập niên, đã nhanh chóng chuyển sang các vụ án tội phạm chiến tranh khác đang được điều tra.

Trong những tuần sau thông báo của Ben-Gurion, Bauer và các công tố viên Tây Đức đồng nghiệp đã bắt giữ một loạt cựu thành viên Đức Quốc xã có liên quan đến tội ác này, bao gồm một số cấp phó của Eichmann. Cho đến khi ông qua đời vào năm 1968, tổng chưởng lý bang Hesse đã đàn áp các nhóm phát xít Đức và vận động mạnh mẽ để hạ bệ các cựu Đức Quốc xã khỏi quyền lực, bao gồm cả Globke. Ông tiếp tục truy tố các tội ác chiến tranh, nổi tiếng nhất là trong các phiên tòa xét xử Auschwitz năm 1963.

Đối với gia đình Hermann, mà mối liên hệ của họ với Bauer đóng vai trò bản lề trong cuộc săn lùng, trải nghiệm của họ sau vụ  bắt giữ Eichmann thật bức xúc. Bằng cách nào đó, dù đó là do chuyến thăm của Ephraim Hofstetter hay vì các viên chức Do Thái ở Buenos Aires điều tra việc ông ấy tuyên bố rằng  mình biết nơi ẩn náu của Eichmann, các phóng viên đã nhận được một tin mách vào tháng 3 năm 1961 cho rằng Hermann thực ra là tên bác sĩ Josef Mengele. Sau khi bị bắt rồi nhanh chóng được cảnh sát thả ra, một tờ báo Argentina còn vạch trần ông trong một phóng sự cho rằng ông đã che giấu các thông tin về Mengele và Eichmann. Trước khi chiến dịch bắt giữ Eichmann mở ra, Sylvia Hermann đã rời Argentina đến Hoa Kỳ, nơi cô ấy vẫn còn sống cho đến ngày nay. Năm 1971, sau khi đích thân Tuviah Friedman kiến nghị với Thủ tướng Golda Meir, Lothar Hermann đã nhận được phần thưởng cho thông tin dẫn đến việc bắt giữ Eichmann thành công. Cho đến lúc đó, vai trò của ông và con gái trong vụ bắt giữ vẫn được giữ bí mật.

Về phần gia đình Eichmann, Vera và con trai út Ricardo đã di chuyển qua lại giữa Buenos Aires và Tây Đức trong vài năm trước khi định cư ở Osterburken, cách Heidelberg 40 dặm về phía Tây. Vera không bao giờ chấp nhận rằng chồng mình đã phạm tội và bà cũng không vượt qua được việc chồng mình bị. hành quyết Ricardo hiếm khi nhớ về cha mình và chia sẻ họ của ông ấy là một gánh nặng mà anh ấy phải tiếp tục mang theo. Hiện là giáo sư khảo cổ học ở Đức, anh nhận ra những hành động khủng khiếp của Adolf Eichmann và không muốn nói về ông ta. Trong số ba người con trai lớn, Horst tiếp tục sống ở Buenos Aires và được cho là một thủ lĩnh của tân Đức Quốc xã. Dieter và Nick chuyển về Đức, tới vùng Hồ Constance, trên sông Rhine. Họ vẫn tin rằng cha họ chỉ tuân theo mệnh lệnh và hầu hết những gì chống lại ông tại phiên tòa là sai sự thật. Ngoài ra, họ không muốn bàn luận về ông ta.

Bốn mươi bảy năm đã trôi qua trước khi các đặc vụ Shin Bet và Mossad, cũng như phi hành đoàn El Al, được nhà nước Israel công khai công nhận về công lao của họ trong hoạt động. Đối với phi hành đoàn, một lời nhắn đơn giản nhưng chân thành từ cơ trưởng Zvi Tohar, cảm ơn họ vì “sự cống hiến phi thường cho nhiệm vụ” trên chuyến bay này – “một bước ngoặt trong sự tiến bộ của hàng không Israel” là phần thưởng duy nhất mà họ từng nhận được. Tất cả họ đều quay trở lại công việc của mình và không nói gì về chiến dịch cho đến tận gần đây.

Sau khi trở về Israel, Zvi Aharoni được Isser Harel chuyển sang Mossad và được giao nhiệm vụ lãnh đạo một nhóm mới truy lùng tội phạm chiến tranh – quan trọng nhất là Josef Mengele, Martin Bormann và Heinrich Müller. Năm 1962, vào ngày Eichmann bị hành quyết, Aharoni quay lại Nam Mỹ để tìm Mengele. Anh nhận được tin báo từ một cựu sĩ quan SS ở Montevideo, Uruguay, rằng một người Đức ở Brazil đang giúp tên bác sĩ trại Auschwitz lẩn trốn. Vài tuần sau, Aharoni đang ở trong một khu rừng cách São Paolo 25 dặm về phía nam thì phát hiện Mengele đang đi giữa hai vệ sĩ địa phương xuống một con đường mòn. Tất cả những gì Aharoni phải làm là theo dõi y cho đến khi một chiến dịch bắt giữ Mengele có thể được tung ra để mang y trở lại Nhà tù Ramleh. Aharoni tin chắc việc đó có thể thực hiện được. Nhưng sau đó anh nhận được tin từ Isser Harel rằng anh phải từ bỏ nhiệm vụ ngay lập tức.

Đầu mùa xuân năm đó, một cậu bé tám tuổi tên Yossele Schumacher đã bị bắt cóc ra khỏi Israel bởi nhóm Do Thái Chính thống cực đoan chống lại nhà nước  Phục quốc Do Thái. Harel chỉ huy nhiều đặc vụ, trong đó có Aaron, để đưa em trở lại. Yossele cuối cùng đã được tìm thấy ở New York, nhưng Mengele thì đã xổng chuồng, trốn tránh bị bắt trong suốt phần đời còn lại của mình. Tên bác sĩ Auschwitz chết đuối ở Brazil năm 1979. Aharoni đã nghỉ hưu ở Mossad từ lâu trước đó để trở thành doanh nhân, định cư ở miền Tây Nam nước Anh.

Avraham Shalom tiếp tục làm việc cho Shin Bet, trở thành giám đốc vào năm 1981. Ông buộc phải rời bỏ vị trí của mình ba năm sau đó sau khi hai thanh niên Palestine cướp một chiếc xe buýt bằng lựu đạn và sau đó bị quân đội bắt giữ, và đánh đập đến chết theo lệnh của ông. Đó là một cái kết tai tiếng  cho một sự nghiệp lẫy lừng. Shalom tham gia kinh doanh ngành an ninh tư nhân và hiện sống ở Tel Aviv và London.

Peter Malkin trở thành người đứng đầu bộ phận điều hành Shin Bet. Ông rời thế giới gián điệp vào năm 1976 để theo đuổi tham vọng trọn đời là trở thành nghệ sĩ. Những bức tranh nổi tiếng nhất của ông là những bức ông phác họa khi ở Buenos Aires. Malkin qua đời năm 2005.

Yakov Gat cũng đạt được thành công hơn nữa trong Shin Bet. Sau đó, ông gia nhập một công ty an ninh tư nhân và làm việc ở đó cho đến khi nghỉ hưu.

Moshe Tabor, người (trong số rất nhiều người khác) đã tình nguyện treo cổ Eichmann khi bản án của y được tuyên, làm việc nhiều năm nữa trong ngành an ninh và nghỉ hưu bằng tiền trợ cấp. Ông mất năm 2006.

Shalom Dani qua đời vì một cơn đau tim vào năm 1963. Các đồng nghiệp cũ của anh vẫn nói về anh với sự kính yêu.

Rafi Eitan đã có một sự nghiệp lẫy lừng dường như không có hồi kết. Ông đã làm việc cho cơ quan an ninh Israel trong mười lăm năm. Sau đó, ông trở thành cố vấn an ninh và chống khủng bố cho một số thủ tướng Israel. Sau đó, Eitan điều hành đơn vị gián điệp của Bộ Quốc phòng (nơi ông tuyển dụng điệp viên người Mỹ Jonathan Pollard), giám sát ngành hóa chất nhà nước Israel, và năm 2006 được bầu vào Knesset.

Chỉ ba năm sau chiến dịch Eichmann, ở đỉnh cao thành công và ở tuổi 50, Isser Harel từ chức giám đốc Mossad và Shin Bet. Một số người trong chính trường quyền lực của Israel lo ngại rằng ông có quá nhiều ảnh hưởng trong chính phủ và chuẩn bị trở thành người thay thế Ben-Gurion. Sau khi Harel phát động một chiến dịch chết người và thiếu thận trọng chống lại các nhà khoa học tên lửa của Đức làm việc cho Ai Cập, kẻ thù của ông đã lôi kéo ông ra khỏi sự ủng hộ của thủ tướng. Khi Harel rời trụ sở Mossad lần cuối, nhiều nhân viên của ông đã rơi nước mắt. Ngoài thời gian ngắn làm việc tại Knesset, ông còn dành thời gian viết sách và tư vấn về các vấn đề an ninh. Ông qua đời năm 2003.

Harel và tất cả cộng sự của ông – bất kể họ làm việc trong cơ quan an ninh bao lâu hay sự nghiệp đưa họ đến đâu – kể lại việc họ tham gia vào nhiệm vụ bắt giữ Eichmann và đưa y ra xét xử ở Israel với niềm tự hào không thể chối cãi. Trong một nghề được biết đến vì những hành động dối trá, những thỏa hiệp về mặt đạo đức và những hậu quả thường không lường trước được và không mong muốn, đây là một tình huống hiếm gặp.

Rafi Eitan tuyên bố với một cái nhìn bình tĩnh rằng, không chỉ chiến dịch đã được thực hiện gần như hoàn hảo mà còn cho thấy tác động của nó rất rõ ràng: “Trên khắp thế giới và cả ở Israel, chúng tôi bắt đầu hiểu về Holocaust.”

Đối với những người như Peter Malkin, có gia quyến từng bị Đức quốc xã tàn phá, sự tham gia của họ mang lại một thỏa mãn cá nhân thậm chí còn lớn hơn. Năm 1967, trong khi đang làm việc ở Athens, Malkin nhận được cuộc gọi từ Avraham Shalom, báo tin mẹ anh đang phải nhập viện. Malkin tức tốc quay lại Tel Aviv và đến thẳng bên giường bệnh của mẹ. Đôi mắt bà nhắm nghiền, khuôn mặt nhợt nhạt. Bà không phản ứng khi anh nói chuyện với bà.

“Bà ấy không nói được,” bà già ở giường bên nói sang.

“Mẹ,” Malkin thì thầm vào tai bà, “Con muốn nói với mẹ một điều. Những gì con đã hứa, con đã làm được. Con đã tóm được Eichmann.”

Mẹ anh không mở mắt, cũng không quay đầu lại. Đã bảy năm kể từ khi anh tóm được Eichmann trên Đường Garibaldi, Malkin đã giữ bí mật với bà vì lời thề mà anh đã thực hiện, nhưng giờ anh không thể chịu đựng được việc bà ra đi mà không biết con đã làm được gì.

“Mẹ ơi, Fruma đã được báo thù. Chính em trai của con gái mẹ  đã bắt giữ được Adolf Eichmann.”

“Bà ấy không nghe thấy cậu nói đâu,” bà già bên cạnh nói, giờ càng mất kiên nhẫn với chuyến thăm của anh. Ngay khi Malkin đang mất hy vọng, anh cảm thấy một bàn tay úp lên bàn tay mình, và sau đó bàn tay mẹ anh siết chặt.

“Mẹ hiểu không?”

Malkin háo hức hỏi mẹ. Đôi mắt mẹ nhấp nháy..

“Ừ,” bà nói. “Mẹ hiểu rồi.”


HẾT

Dịch xong ngày 12/8/2024

Eichmann tại Khám đường Ramle, Israel, tháng 4, 1961

Eichmann trong buồng kính tại phiên tòa, tháng 5, 1961

Zeev Sapir làm chứng trước tòa, tháng 6, 1061

Bình luận về bài viết này