Những  dữ  kiện  Địa- Chính trị  của Việt Nam

  Tác giả :  Hérodote*

Người dịch : Phan Tấn Khôi**

Lời người dịch : cuốn sách “Les enjeux géopolitiques du Việt Nam” gồm nhiều tác giả , mỗi người viết về một khía cạnh của “Những dữ kiện địa-chính trị của Việt Nam”.  Hérodote là một tạp chí chuyên về địa-lý và địa-chính trị thế giới . Sau đây là bản tóm lược nội dung các bài viết đăng trong Hérodote số 157.

Benoit de Tréglodé , Việt Nam,  Đảng trị,  quân đội và nhân dân : Duy trì ảnh hưởng chính trị vào thời kỳ đổi mới .

Kể từ gần ba chục năm , chính sách cởi mở của  công cuộc Đổi Mới  do nước Cộng Hòa  xã hội chủ nghĩa Việt Nam tung ra vẫn kèm theo sự duy trì ảnh hưởng của Nhà nước-Đảng trị trong xã-hội. Thủ tướng  Nguyễn Tấn Dũng, sẽ chấm dứt nhiệm kỳ thứ hai  (2006-2016) lúc gần đến Đại-hội Đảng cộng sản việt-nam kỳ thứ XII, được dự trù vào tháng giêng 2016,  đã là mục tiêu của mọi sự chỉ trích đến từ mọi phía.  Nhưng Đảng cộng sản việt-nam và Quân đội nhân dân việt-nam vẫn còn là hai diễn viên trọng tâm của lịch sử chính trị Việt Nam cận đại.  Qua các hành động và sự kiểm soát của họ,  họ ở vào tình huống phải lựa chọn giữa chủ nghĩa độc tài chính trị và công cuộc cởi mở kinh tế mà Nhà nước-Đảng trị và xã hội việt-nam vừa trải qua kể từ sự sụp đổ của Liên Sô và sự tái hội nhập của xứ sở vào chính trừơng quốc tế.  Quốc-gia đã thấy song song  những cách thức tham ô được tổng quát hóa trong xã hội,  một khuynh hướng mà cả Đảng cộng sản Việt Nam lẫn Quân đội nhân dân việt-nam không thể ngăn chặn được mặc dù những chiến dịch thông thường và công khai của chính phủ và những lời đả kích của một xã hội dân sự đang phát triển mạnh mẽ.

 

Christopher GoschaMôn Địa-chính trị việt-nam nhìn từ phía đại lục Âu-Á :  Bài học nào của cuộc chiến tranh Đông-dương thứ ba dành cho ngày nay ?

Bài viết này đề nghị một sự đặt lại trọng tâm vị trí của nền địa-chính trị việt-nam ở giữa một bối cảnh Âu-Á châu và bối cảnh cuộc chiến tranh Đông-dương thứ ba mà ở đây được sử dụng như việc nghiên cứu từng trường hợp.  Khung cảnh đại  lục Âu-Á cung cấp cho chúng ta một cách chính xác một khung cảnh trong không gian liên tục xoay chiều cho những nhận thức trọng tâm-âu châu để có thể hiểu rõ hơn tại sao cái xứ sở nhỏ bé đó lại trở thành rất quan trọng cho tới ngày nay,  không phải chỉ đối với người Mỹ mà cũng còn đối với người Nga,  người Trung-quốc và người Ấn-độ.  Sau cuộc trở lại ngắn hạn về quá khứ , tôi sẽ đề cập tới thời kỳ hiện đại để chứng minh bằng cách nào những sự rạn nứt đã xẩy ra ngay giữa khối cộng sản Âu-á đươc tạo ra từ năm 1950 đã phối hợp với nhau một cách nguy hiểm trong những năm 1970,  sự kiện này và sự kiện kia mở ra hai vết  nứt :  một vết rạn  nứt thứ nhất Trung-Sô viết tại miền Tây Âu-Á,  và một vết rạn nứt thứ hai giữa đám Khmers đỏ và Việt Nam trong khu đồng bằng sông Mékong.  Bằng cách nào những sự xích mích đó đã kích động trên những giới tuyến quốc gia và phối hợp với nhau trong một bối cảnh địa-chính trị âu-á châu đã là những vấn đề cốt yếu nếu người ta muốn hiểu biết ngày nay cái cuộc chiến tranh thứ nhất giữa những người cộng sản trong lịch sử thế giới.  Kế đó diều này sẽ giúp chúng ta hiểu được một cách mới hơn tại sao Việt Nam trở thành rất quan trọng cho tới ngày nay,  trong môn địa-chính trị á-châu và thế giới hiện tại.

Nathalie FauCông cuộc Hàng hải hóa (Maritimisation) nền kinh tế việt-nam : một yếu tố làm trầm trọng thêm những xung đột giữa Việt Nam và Trung-quốc tại Biển Nam-hải ?

Sau gần một thập niên tạm lắng dịu (2000-2008) những căng thẳng tại Biển Nam-hải,  hay biển Đông đối với người Việt Nam, đã trở lại những năm vừa qua.  Tuy nhiên,  bản chất và những phương thức của cuộc xung đột đã thay đổi bởi vì Việt Nam kể từ đó có tham vọng trở thành một cường quốc về hàng hải của Đông-Nam Á châu.  Đã từ lâu chỉ được coi như một khiếm khuyết trong hệ thống phòng thủ việt-nam,  không gian hàng hải xuất hiện kể từ lúc phát động công cuộc Đổi Mới như một tài nguyên đã bị bỏ rơi quá lâu.  Như vậy,  cho tới cuối những năm 1990 , chính quyền việt-nam chỉ coi những vấn đề hàng hải dưới góc cạnh của chính sách phục hồi các miền lãnh thổ xưa cũ tại biển Nam-hải,  kể từ đó họ phát triển một chiến lược tư nguyện làm tăng giá trị những tài nguyên hàng hải của xứ sở họ : chuyển từ việc đánh cá ven bờ biển tiến tới việc đánh cá ngoài khơi,  khai thác những mỏ dầu khí ngoài khơi xa bờ hay còn có chính sách hội nhập trong ngành vận tải hàng hải thế giới bằng những thùng chứa lớn (conteneurs)  bằng cách tạo ra những hải cảng trong vùng nước sâu.  Kể từ đó,  những dữ kiện kinh tế,  quốc gia và chiến lược kết hợp với nhau.  Từ sự kiện đó,  để hiểu được bản chất những căng thẳng giữa Việt Nam và Trung-quốc,  điều cần thiết là phải nắm bắt được tính chất đặc biệt của những dữ kiện kinh tế hàng hải cũng như phải phân tích tiến trình của chiến lược quân sự hàng hải việt-nam.  Ngược lại,  điều thật sự đã không thay đổi là trạng thái luân phiên giữa giai đoạn những căng thẳng,  những thương thảo và những tiến triển ngoại giao trong các mối liên hệ giữa Việt Nam và Trung-quốc.  Tính chất hai chiều đó của những mối liên hệ giữa Việt Nam và Trung-quốc được thấy rõ ràng trong sự quản  lý khác nhau giữa một bên là những không gian hàng hải quần đảo (Hoàng-Sa và Trường-Sa) là những nơi xẩy ra va chạm và mặt khác là vịnh Bắc-bộ nơi xác định biên giới hàng hải chính thức đã đưa tới việc thiết lập một Vùng phát triển chung.

Sophie Boisseau du Rocher,   Việt Nam và khối  ASEAN  (Association of South-East Asian Nations) : Vượt qua chiến lược thực dụng 

Việt Nam và khối Asean (Hiệp hội các quốc gia Đông-Nam-Á) dìn giữ từ nguyên thủy những mối tương quan về sự gần gũi nhau mà đặc tính thứ nhất là chủ thuyết thực dụng.  Mỗi thành viên,  tùy theo giai đoạn,  cần đến sự giúp đỡ của thành viên  khác để tự xây dựng và mối quan hệ trở nên thâm sâu hơn khi trải rộng ra đến toàn thể môi trường mà Hiệp hội bao trùm.

Tuy nhiên,  sau một thời gian làm tăng giá trị của sự tràn ngập xuyên vùng trên,  Việt Nam đã quyết định theo đuổi một nền ngoại giao đa phương và như vậy làm khối Asean mất đi ngôi vị quan trọng hàng đầu.  Cho đến khi Asean sẽ không còn khả năng cung cấp cho Việt Nam một sự tương trợ có hiệu quả để bảo đảm sự che trở họ trong cuộc xung đột tại biển Nam-hải,  thì Hanoi sẽ tăng giá trị các mối quan hệ quốc tế dường như đối với họ chỉ có chúng mới có khả năng kìm hãm những tham vọng Tầu.  Đồng thời,  Việt nam chú tâm đến sự biến đổi đó của Hiệp hội các quốc gia Đông-Nam-Á.

Pierre Grosser,   Việt Nam sẽ là đồng minh quan trọng nhất của Hoa-kỳ tại Á-châu ?

Sau một cuộc chiến tranh dài và tàn độc,  Hoa-kỳ và Việt Nam đã bình thường hóa những mối quan hệ của họ năm 1995.  Nhưng những vấn đề song phương chẳng bao lâu đã bị lệ thuộc vào diễn biến của cảnh quan chiến lược tại Á châu-Thái bình dương.  Với sự gia tăng hùng mạnh của Trung-quốc và chính sách  “rebalancing”  (tái quân bình) của tổng thống  Obama hướng về Á-châu,  Việt Nam có thể được thấy như một quân bài đối với Washington trong vùng,  hơn thế nữa như có thể là một đồng minh.  Chính sách Tầu xác định những quyền lợi của họ tại biển Nam-hải sẽ có thể đẩy Việt Nam vào vòng tay người Mỹ,  nhân danh chính sách truyền thống cân bằng các cường quốc.  Thật vậy, những mối quan hệ giữa Washington và Hanoi gia tăng nhanh chóng.  Dù vậy,  vẫn còn một số nào đó những điểm lấn cấn ( nhất là những vấn đề thương mại và nhân quyền).  Việt Nam không thể là một mối lo ưu tiên đối với Hoa-kỳ.  Giới ưu-tú việt-nam không muốn lựa chọn Bắc-kinh hay Washington.  Không chỉ là bởi vì họ còn là cộng sản,  nhưng cũng bởi vì cái quá khứ chỉ cho thấy điều nguy hiểm khi chỉ liên hệ qua những liên minh độc quyền,  bởi vì những mối quan hệ với người láng giềng to lớn phương Bắc luôn luôn là rất đặc biệt,  và bởi vì sự đa dạng hóa những đối tác là ,  đối với Việt Nam cũng như đối với số đông những Quốc-gia Đông-Nam-Á,  phương tiện hay nhất để dìn giữ một nền độc lập đạt được một cách rất khó khăn và bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế.

Pierre Journoud,  Những mối quan hệ hai chiều giữa Nhà nước-đảng trị việt-nam và những người Việt-nam tại hải ngoại

Đặt lại vào trung tâm những dữ kiện kinh tế và địa-chính trị quan trọng kể từ ngã rẽ công cuộc  Đổi Mới,  bốn triệu  Việt kiều  (người Việt Nam tại hải ngọai) ngày càng được Đảng cộng sản việt-nam mua chuộc,  kể cả những kẻ “phản bội” hôm qua,  có liên quan mật thiết với chế độ cũ Saigon.  Thời gian,  nhưng cũng nhất là những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và sự sung túc đã thúc đẩy sự hòa hoãn những ký ức và sự áp lại gần nhau giữa những kẻ thù xưa mà sự trổi dậy những căng thẳng giữa Việt Nam và Trung-quốc dường như,  ít ra là bề ngoài,  kết thúc việc hàn gắn.  Tất cả những sự nhập nhằng,  thật ra,  không hoàn toàn biến mất.  Sự nhận thức chung một mối đe dọa Tầu dĩ nhiên tạo ra một tinh thần quóc gia liên quốc gia nhầm vượt lên trên  những chia cách xưa cũ đến từ những cuộc chiến tranh của thế kỷ XX.  Nhưng dưới hậu quả một mạng lưới ly khai tích cực và thần kỳ,  nó cũng làm sống lại sự phê bình Nhà nước-đảng trị,  bị phán xét như tham-ô và quá yếu đuối đối với Trung-quốc.  Nạn nhân của chính những chia rẽ của họ nhưng quan tâm trước nhất bảo vệ tính chất ổn định của xứ sở,  Nhà nước-đảng trị ngần ngừ giữa cái kho quá nhiều điều luật áp đảo của họ và sự đào sâu liên tục những mối liên hệ của họ với nhóm  Việt kiều.  

 

Jérémy  Jammes  và  Paul  SorrentinoĐịa-chính trị của những tôn giáo tại Việt Nam.  Những phương thức đa-cực của một xã hội dân sự thuộc tôn giáo.

Nhà nước-đảng trị phải thường trực đối đầu với những đòi hỏi chính trị của các phong trào tôn giáo và bài viết này muốn trở lại trên cái khuôn khổ địa-chính trị đó của những tôn giáo tại Việt Nam.  Vào lúc chấm dứt bản phân tích hành động chính trị của nhiếu trào lưu tôn giáo,  bàn cờ địa-chính trị việt-nam hiện đại sẽ thấy nhiều cơ quan tập trung những cơ cấu tôn giáo vươn lên để xây dựng tạo ra một xã hội dân sự tôn giáo và đa-cực.

Candice Trân Dai,  Mạng-lưới an toàn tại Việt Nam :  sự công thức hóa và thực hiện một chiến lược mới

Vào lúc khởi đấu những năm 2000,  Việt Nam quyết đi theo con đường phát triển tăng tốc và tương đối kỹ càng của lãnh vực những TIC (Technologies de l’Information et de la Communication,  Các kỹ thuật thông tin và liên lạc)  rất được một chính sách đặc biệt của chính phủ thúc đẩy và nâng cấp.  Trong tương lai năm 2020,  Việt Nam thật sự có tham vọng đạt tới thể chế quốc gia vượt trên trung bình toàn thể các quốc gia Đông-Nam-Á trên kế hoạch xã hội về thông tin.  Trong khi Việt Nam xuất hiện như một xú sở có tiềm năng  lớn lao trong lãnh vực những TIC và số học,  điều này phải đối diện với nhiều chướng ngại vật và những thách thức để có thể khai thác tối đa những tài nguyên của lãnh vực này và đạt tới những mục tiêu đầy tham vọng mà họ đã đề ra.  Sự quản lý vấn đề an toàn-mạng lưới là một trong những thách thức quan trọng.  Ý thức được tính chất yếu kém và dễ bị xâm nhập của không gian mạng-lưới việt-nam,  chính phủ việt-nam đã thực hiện việc công thức hóa và thực thi một chính sách mới về an toàn-mạng mà những nền tảng đầu tiên đã được thiết lập tương đối mới đây.

Éric  Mottet  và Frédéric  Lasserre,   Địa-chính trị  của những tài nguyên thiên nhiên và năng lượng tại Việt Nam :  một sự cố định có tính cách kinh tế có thể thực thi ?

Kể từ những năm 1990,  Việt Nam đã thoát xác thành con rồng kinh tế kèm theo một bùng nổ dân số không có tiền lệ.  Cuộc tăng trưởng mạnh mẽ này diễn ra với sự gia tăng  những đòi hỏi về năng lượng và nguyên liệu.  Nếu Việt  Nam sở hữu một số lớn tài nguyên phong phú , thì một số lớn còn trong một số lượng giới hạn.  Theo những dự đoán ở thời gian trung bình , những tài nguyên hóa thạch của xứ sở sẽ không thỏa mãn được sự đòi hỏi nội địa.  Vì vậy,  Hanoi thiết lập kế hoạch tung ra một chính sách năng  lượng quốc gia bao gồm những cố gắng trong ba chiều hướng : thủy điện,  năng lượng tái sinh và chương trình nguyên tử dân sự.  Bởi thiếu hụt kế hoạch chính xác và tài trợ thỏa đáng,  kế hoạch phát triển năng lực việt-nam dường như theo các cách kỹ thuật và tài chánh không thể thực hiện được mà không có sự giúp đỡ của ngoại bang mà sự hiện diện trên mảnh đất quốc gia tạo thành những dữ kiện địa-chính trị bản địa ,quốc gia và vùng.

Christophe  Gironde  và  Olivier  Tessier,  Việt Nam : những  “vùng đất mới”  của một sự canh tân hóa bất bình đẳng

Sự tăng trưởng và sự đổi mới kinh tế,  sự tăng cường dòng chảy hàng hóa,  vốn đầu tư và con người đã biến đổi rất nhiều bộ mặt của Việt Nam trong khoảng hai thập niên qua.  Bài viết này trình bầy những biến đổi các vùng đất,  ảnh hưởng của thành thị và kỹ nghệ,  Tính chất đa dạng và công cuộc thành thị hóa đồng quê , những “ước tính giá trị” và những vùng chưa phát triển,  và phân tích phương thức dân chúng cập nhật vào nó và với mức độ thành công nào.  Bài viết đưa ra ánh sáng những tác dụng hỗ tương giữa các sáng kiến của dân chúng và các xí nghiệp,  những yếu tố kinh tế “được giải tỏa” qua chính sách  Đổi Mới,  và vai trò của Quốc gia  đóng góp / hoặc thích nghi vào sự hé lộ tăng trưởng của những vùng đất mới đó đều là những dấu hiệu  của công cuộc canh tân hóa gia tốc của xứ sở và những điều bất bình đẳng mà nó gây ra.

Sylvie  Fanchette  Việc quản lý ruộng đất chính quốc và những sự đối nghịch giữa xã hội nông thôn và Nhà-nước/tỉnh lỵ (châu thổ sông Hồng)  

Kể từ những năm 2000,  những thành phố lớn việt-nam và các vùng ngoại ô đều là mục tiêu  những cuộc nổi dậy của nông dân đối diện với các cuộc truất hữu hàng loạt xẩy ra trong khung cảnh việc thành thi hóa cường độ.  Sự gia tăng các đối tác tham gia vào cộng cuộc thành thị hóa đó,  nhất là các nhà đầu tư ngoại quốc và các xí nghiệp công cộng về xây dựng mà thể chế đang được cập nhật hóa chỉ làm các cuộc thương lượng chung quanh vấn đề đất đai nông nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước  phức tạp thêm.  Qua lăng kính những phương thức ruộng đất của người dân,  những tập thể bản địa và tỉnh lỵ và các nhà đầu tư trong số đông làng mạc thuộc vùng ngoại ô thành thị đông dân cư,  bài viết này tìm cách phân tích diễn biến những mối quan hệ giữa Quốc-gia,  chínjh quyền cai trị và dân chúng.  Chúng ta sẽ tự hỏi về cường độ những đối nghịch vùng ngoại ô thành thị và bản chất những chiến lược của dân làng :  giữa kháng cự hay chấp nhận ,  những biến đổi cón trất nhiều.

*Hérodote,  Les Enjeux Géopolitiques du Việt Nam,  No 157,  Paris,  Éditions La        Découverte,  2015

**Phan Tấn Khôi,  Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Saigon,  ban Pháp văn , niên khóa 1960-1963.  Cao học Nghiên cứu Giáo dục,  Đại học Sư phạm Saigon, 1970-1972

 

           

 

 

 

Bình luận về bài viết này