
Neal Bascomb
Trần Quang Nghĩa dịch
21
EICHMANN LÊ BƯỚC VÀO NGÔI nhà an toàn, được kẹp chặt giữa Shalom và Malkin. Toàn đội đưa y qua nhà bếp và lên tầng trên có phòng giam đã chuẩn bị sẵn. Không ai nói với y một lời nào. Chỉ có Aharoni được nói chuyện với y, và lúc này người thẩm vấn đang im lặng. Họ chen chúc vào căn phòng ngủ nhỏ có một chiếc giường, hai chiếc ghế gỗ và một chiếc bàn. Một bóng đèn treo lủng lẳng trên đầu một sợi dây trên trần nhà.
Trong một lúc, Eichmann vẫn đứng ở giữa phòng, các đặc vụ lần đầu tiên nhìn rõ y. Chiếc áo khoác ngoài của y dính đầy bùn sau cuộc vật lộn dưới mương, và cặp kính bảo hộ che mắt y. Y im lặng, đứng thẳng lưng như một tấm ván, hai tay buông thõng hai bên. Chỉ có bàn tay y cử động, nắm chặt rồi thả ra trong cơn lo lắng.
Aharoni ấn Eichmann xuống giường và họ lột quần áo y. Y hoàn toàn phục tùng và trông bất lực trong bộ đồ lót và đôi tất sờn rách, bẩn thỉu. Aharoni tự hỏi làm thế nào mà sinh vật thảm hại này lại có thể là Adolf Eichmann, người từng làm chủ mạng sống của hàng triệu người Do Thái. Bác sĩ Kaplan bước tới, kiểm tra cơ thể và miệng của Eichmann xem có viên nang xyanua nào được giấu kín không. Anh cũng tháo răng giả của y ra kiểm tra.
Eichmann phá vỡ sự im lặng, giọng nói căng thẳng nhưng rõ ràng: “Không ai có thể cảnh giác được trong mười lăm năm.”
Lúc đầu, Eichmann nghĩ rằng những người đang tấn công trên Đường Garibaldi là bọn trộm cướp, nhưng y nhận ra những kẻ bắt cóc mình là người Do Thái sau khi được cảnh báo bằng tiếng Đức rằng sẽ bị bắn nếu gây ra bất kỳ âm thanh nào.
Y đã bắt đầu run rẩy ở giai đoạn đó, nhưng y đã ổn định lại một chút trong suốt chặng đường dài. Bây giờ y thấy rõ ràng là họ đang kiểm tra những viên thuốc độc.
Bác sĩ kiểm tra sức khỏe của tù nhân để chắc chắn rằng y không sắp suy sụp. Sau đó, theo chỉ đạo của Aharoni, anh kiểm tra thân thể của Eichmann để tìm ra bất kỳ dấu hiệu phân biệt nhận dạng nào, như được liệt kê trong hồ sơ của Mossad. Họ không có dấu vân tay để chứng minh chắc chắn rằng họ đã bắt được đúng người, nhưng nếu những đặc điểm này ăn khớp với nhau – và quan trọng hơn, liệu họ có thể lấy được lời thú tội – mọi nghi ngờ sẽ bị loại bỏ khỏi tâm trí họ.
Bác sĩ tìm thấy một số vết sẹo khớp với những vết sẹo được mô tả trong giấy chứng nhận y tế và lời khai của nhân chứng, bao gồm một vết sẹo nhợt nhạt dài 2 inch rưỡi bên dưới lông mày trái và một vết sẹo phía trên khuỷu tay trái của y. Tuy nhiên, khi bác sĩ kiểm tra phần trên cánh tay trái của y, không có hình xăm SS mà chỉ có một mô sẹo lâm nhâm, có lẽ là dấu hiệu của việc xóa hình xăm.
Aharoni muốn bắt đầu đặt câu hỏi ngay khi đối tượng của anh đang ở trạng thái mất cân bằng nhất. Anh có thể không phải là một đặc vụ chìm có kinh nghiệm, nhưng với tư cách là một người thẩm vấn, anh không có đối thủ trong Shin Bet. Anh không bao giờ sử dụng vũ lực vì biết rằng điều đó chỉ dẫn đến những lời thú tội sai lầm. Thay vào đó, anh hạ gục đối tượng của mình bằng những loạt câu hỏi ngắt quãng, vặn vẹo họ bằng những lời dối trá của chính họ và dồn dập họ bằng những sự thật đã biết cho đến khi sự thật là lối thoát duy nhất. Anh đã nghiên cứu tâm lý học ứng dụng và dưới sự giám sát của CIA, đã học việc ở Chicago với John Reid và Fred Inbau, tác giả của văn bản tiêu chuẩn về thẩm vấn. Trước khi các câu hỏi bắt đầu, Malkin và Shalom mặc cho tù nhân của họ bộ đồ ngủ rộng rãi, đặt y nằm thẳng trên giường và còng mắt cá chân trái của y vào khung giường. Họ vẫn để yên kính bảo hộ, khiến y dễ bị tổn thương và mất phương hướng.
Lúc 9 giờ 15 phút tối, Aharoni hỏi câu hỏi đầu tiên. Anh đã chuẩn bị cho một đêm dài. Anh đã khắc ghi toàn bộ hồ sơ của Eichmann để không bao giờ phải trì hoãn việc đặt câu hỏi tiếp theo.
“Mày tên gì?” Aharoni hỏi với giọng ra lệnh.
“Ricardo Klement,” tù nhân trả lời.
“Trước đây tên mày là gì?”
“Otto Heninger.”
Aharoni trở nên căng thẳng. Anh chưa bao giờ nghe đến cái tên này, và cách đối tượng của y trả lời một cách lạnh lùng và đáng tin cậy đã làm y ngạc nhiên. Anh thay đổi chiến thuật, quyết định rằng chỉ những câu hỏi gián tiếp mới dẫn đến lời thú tội.
“Con trai thứ ba của mày sinh khi nào?”
“Vào ngày 29 tháng 3 năm 1942.”
“Tên của nó là gì?”
“Dieter.”
“Mày cao bao nhiêu?”
“Năm bộ, tám inch.”
“Mày mang giày cỡ bao nhiêu?”
“Chín.”
“Áo cỡ bao nhiêu?”
“Bốn mươi bốn.”
Các câu trả lời đến nhanh chóng gần như các câu hỏi, và tại thời điểm này, chúng khớp với những gì Aharoni có trong hồ sơ. Người tù đã không nói dối.
“Số thẻ thành viên Đảng Xã hội Quốc gia của mày bao nhiêu?” Aharoni hỏi, duy trì tốc độ nhanh chóng để không cho Eichmann có cơ hội nói quanh co hoặc cố gắng lừa dối.
“889895,” y đáp dứt khoát, không suy nghỉ. Đây là số của Eichmann. Đó là một sự thừa nhận quan trọng, như thể Aharoni đã hỏi màu mắt của y.
“Số của mày trong SS?”
“45326.”
Klement là Eichmann. Đó là một điều chắc chắn. Bây giờ Aharoni muốn nghe y thừa nhận điều đó. Anh nhìn Shalom bên kia giường, người cũng đang nóng lòng muốn nghe tù nhân thú nhận danh tính thực sự của mình. Rồi anh tiếp tục.
“Mày đến Argentina khi nào?”
“1950.”
“Tên mày là gì?”
“Ricardo Clement.”
Y vẫn chống cự nhưng tay y hơi run. Y phải biết rằng mình đã tiết lộ bản thân với số thẻ đảng của mình.
“Số SS của mày có phải là 45326 không?”
“Đúng.”
“Ngày sinh của mày là ngày nào?”
“Ngày 19 tháng 3 năm 1906.”
“Mày sinh ra ở đâu?”
“Solingen.”
Aharoni đã đến nơi. Anh biết điều đó. Anh kiên quyết hỏi: “Tên khai sinh của mày là gì?”
“Adolf Eichmann.”
Niềm vui lan khắp cả biệt đội, Aharoni và Shalom vươn cánh tay qua người tù và xiết bàn tay nhau một cách nồng nhiệt. Gat sau đó đã mô tả khoảnh khắc đó giống như mặt trời ló dạng vào ban đêm. Họ đã có người mình tìm kiếm.
Vài giây sau khi thừa nhận, Eichmann lại nói, lần này với giọng lấy lòng. “Các anh có thể dễ dàng hiểu được rằng tôi đang bị kích động. Nếu có thể, tôi muốn xin một chút rượu vang – rượu vang đỏ – để giúp tôi kiềm chế cảm xúc của mình.”
Aharoni trả lời rằng họ sẽ mang đồ uống cho y.
“Ngay khi anh bảo tôi giữ im lặng, trong xe, tôi biết mình đã nằm trong tay người Israel,” Eichmann tiếp tục. “Tôi biết tiếng Do Thái. Tôi học nó từ Giáo sĩ Leo Baeck. Sh’ma Yisrael, Ha’Shem Elokeinu – (Nghe này, ôi Israel. Chúa Trời là thượng đế của chúng con-”
Aharoni cắt ngang lời y, từ chối nghe Adolf Eichmann nói lời cầu nguyện thiêng liêng nhất trong tôn giáo Do Thái, một lời cầu nguyện được các tín hữu đọc vào buổi sáng và buổi tối. Đó là lời cầu nguyện được thốt ra vào giờ chết, và hàng triệu người Do Thái đã phải thốt lên vì Eichmann. Mọi người rời khỏi phòng để bình tĩnh lại và để tránh gây bạo lực với tù nhân.
Khi họ đã lấy lại bình tĩnh Aharoni quay lại thẩm vấn trong một giờ nữa, hỏi thêm về gia đình Eichmann: ngày sinh và nơi sinh của các con trai và anh em y, của vợ y và của đại gia đình y. Họ đã biết đã nắm được mục tiêu của mình, nhưng nếu sau đó y lì lợm phản cung, khai rằng mình đã bị tra tấn nên phải thừa nhận theo ý họ, thì những chi tiết này, mà chỉ mình Adolf Eichmann mới có thể biết, sẽ chứng minh điều ngược lại.
Cuối cùng, Eitan yêu cầu kết thúc cuộc thẩm vấn.
Họ vẫn chưa cử người đến báo cáo cho Harel. Ông ta ắt hẳn đang nôn nóng muốn biết kết quả của chiến dịch và Klement đã thừa nhận danh tính thực sự của mình.
_____
Shalom và Aaron trước tiên lái xe đến Buenos Aires và đỗ chiếc xe limousine Buick vào một bãi đậu xe. Medad sẽ đến lấy nó vào hôm sau và trả lại cùng với chiếc Chevrolet. Anh ta dự định nói với mỗi đại lý cho thuê xe rằng vợ anh ta bị ốm và anh ta sẽ thuê lại chiếc xe sau vài tuần nữa (tiết kiệm được khoản phí 5.000 đô la). Nếu cảnh sát tìm kiếm những chiếc xe, họ sẽ tìm thấy chúng trong các lô đất cho thuê, có thể truy tìm danh tính tồn tại trong đầu của Shalom Dani.
Trong khi cuộc thẩm vấn đang diễn ra, Tabor đã lau sạch dấu vân tay trên từng inch của chiếc xe limousine và tháo bản lề phía sau ghế ngồi và cơ cấu lò xo cho phép chuyển biển số.
Khi họ tới quán cà phê thì đã vài phút đến nửa đêm. Người đứng đầu đang thanh toán tiền, sẵn sàng chuyển sang địa điểm tiếp theo trong danh sách của mình. Trong vài giờ qua, ông đã lướt qua mọi tình huống có thể tưởng tượng được về những gì có thể xảy ra khiến người của mình đến muộn như vậy – mọi thứ từ việc tất cả bọn họ đều bị bắt cho đến việc họ đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.
Khi ông nhìn thấy Shalom và Aharoni, mặc dù trông họ nhếch nhác và mệt mỏi, Harel thoáng thấy sự phấn khích trong mắt họ. Họ ngồi xuống bàn, và Shalom nói thẳng với xếp rằng họ đã bắt được Klement, và không còn nghi ngờ gì nữa, y ta chính là Adolf Eichmann.
“Khoảnh khắc tôi nhìn thấy các cậu,” Harel nói, “tôi biết các cậu đã làm được điều đó. Chuyện thế nào?”
Shalom kể lại cuộc hành quân. Aharoni sửng sốt trước lời khen ngợi lặng lẽ của thủ lĩnh và sự cứng nhắc của ông ta khi nghe câu chuyện. Nhưng Shalom, người đã từng làm việc nhiều hơn với Harel, biết rằng tâm trí của ông đã chuyển sang những gì xảy ra tiếp theo: đưa Eichmann tới Israel.
Họ chia tay ngay sau đó. Harel vội vã đến một nhà hàng gần đó, nơi một sayan do Ilani tuyển dụng đang đợi ông. Harel nhận ra “Meir Lavi” nhờ một cuốn sách đặt trên bàn của anh. Lavi đã di chuyển từ quán cà phê này sang quán cà phê khác trong nhiều giờ như Harel mà không biết mục đích hành động của mình cũng như không biết mình sẽ gặp ai.
Harel chào anh ta nhưng bỏ qua những lời giáo đầu. Ông hướng dẫn Lavi đến gặp Ilani và nói: “Máy đánh chữ vẫn ổn.”
“Tất cả chỉ bấy nhiêu thôi sao?” Lavi thất vọng hỏi vì đã dành rất nhiều thời gian chờ đợi chỉ để không làm gì khác hơn là chuyển đi một tin nhắn có vẻ vô nghĩa.
Vẻ mặt Harel lại cho anh biết điều khác.
“Tôi sẽ đến gặp anh ấy ngay,” Lavi nói.
Thông điệp của Harel gửi Ilani, được dịch là Eichmann đang nằm trong tay họ, sẽ được chuyển đến trụ sở Mossad, sau đó tới David Ben-Gurion và bộ trưởng ngoại giao của ông ta, Golda Meir.
Thay vì vẫy taxi, Harel chọn đi bộ đến nhà ga xe lửa để lấy túi. Với mỗi bước qua những con phố ở Buenos Aires, hít thở không khí trong lành lạnh lẽo, ông dần dần nhận ra tầm quan trọng của những gì họ đã đạt được. Trong một thời gian ngắn, ông cho phép mình tận hưởng thành công của họ.
_____
Tại ngôi nhà trên phố Garibaldi, Vera Eichmann đợi chồng về. Đã gần đến nửa đêm, và mặc dù bà biết rằng chồng sẽ về muộn vì cuộc họp công đoàn, nhưng bà không ngờ lại muộn đến thế này. Ông ấy hiếm khi đi chệch khỏi thói quen hàng ngày của mình. Lẽ ra ông ấy phải về nhà và lên giường từ lâu rồi. Ông ấy còn phải đi làm vào ngày hôm sau. Có cái gì đó không ổn.
Bà đã nghe có tiếng ô tô chạy ngang qua nhà sau 8 giờ, ngoài ra không nghe thấy điều gì lạ cả. Có thể ông đã dính vào một vụ tai nạn nào đó; có lẽ ông ấy đang ở bệnh viện. Nhưng bà đang nghỉ đến điều tồi tệ nhất – điều mà bà luôn lo sợ: rằng những người mà ông ấy đang chạy trốn cuối cùng cũng đuổi kịp ông. Bà đã tự thuyết phục mình – có lẽ vì cần thiết – rằng ông ta không thể phạm những tội ác khủng khiếp mà họ đã mô tả trên các tờ báo. Lương tâm của bà rất rõ ràng về điều đó, mặc dù bà có cố tình không biết. Mặc dù vậy, bà chưa bao giờ nghi ngờ sự cần thiết của việc họ phải trốn ở Argentina.
Bà định nói với các con rằng ông ấy chưa về nhà. Họ sẽ tiến hành một cuộc tìm kiếm ông và kéo ông quay lại.
_____
Vào lúc nửa đêm, Malkin gõ nhẹ vào cánh cửa đang mở của Eitan. “Tôi sẽ quay lại chỗ đó,” anh nói khi người đứng đầu chiến dịch nhìn về phía anh.
Anh giải thích rằng ngay trước cuộc thẩm vấn Eichmann, anh chợt nhận ra tên Đức Quốc xã không đeo kính cận của mình. Cuộc khám xét chiếc xe limousine sau đó không phát hiện được điều gì. Malkin đã suy ngẫm về hậu quả nếu chiếc kính được tìm thấy trên phố Garibaldi. Vera Eichmann sẽ có ngay bằng chứng cho thấy chồng bà đã bị bắt cóc và có cơ sở để cảnh sát khám xét, ngay cả khi bà không tiết lộ danh tính của y.
Eitan cân nhắc những rủi ro. “Tôi không chắc là cậu nên làm vậy.”
“Nghe này, hãy để tôi lo việc đó,” Malkin thúc giục. “Anh biết tôi sẽ không làm điều gì nguy hiểm mà.”
Sau một thời gian tranh cãi, Eitan đồng ý, và Malkin rời Tira lái xe một mình đến San Fernando, nơi anh bắt chuyến xe buýt đêm. Một cơn gió lạnh và ẩm ướt thổi qua đồng bằng khi anh từ từ đi về phía Phố Garibaldi, đảm bảo rằng không có cảnh sát hay bất kỳ ai khác xung quanh. Một ngọn đèn dầu duy nhất vẫn còn cháy trong nhà Eichmann. Họ vẫn mong đợi y trở về, Malkin nghĩ.
Anh theo dõi lại động tác của mình trong suốt quá trình tóm giật, tìm kiếm con đường và con mương bằng chiếc đèn pin nhỏ. Anh phát hiện một số mảnh kính vỡ trong bùn bên đường nhưng không có gọng.
Không có gì. Malkin tiếp tục tìm kiếm trong bụi cây phía sau con mương, nhưng không có kết quả. Ai đó có thể nhìn thấy anh nếu anh nán lại quá lâu.
Vài giờ sau, anh trở lại ngôi nhà an toàn. Trong khi chờ Tabor mở cổng, có thứ gì đó nhảy lên lưng anh. Malkin quay lại và đưa tay ra phía sau để quật kẻ tấn công mình xuống, và chợt nhận ra mình đã tóm được một nắm lông. Một con mèo trắng đã vồ lấy lưng anh. Anh thả con mèo đang gào thét ra, không chỉ nguyền rủa nó mà còn nguyền rủa chính mình vì đã quá căng thẳng. Khi Tabor bước ra, Malkin đã có thể mỉm cười trước phản ứng quá đáng của mình, và anh cho con mèo vào nhà tránh thời tiết.
Ngôi nhà yên tĩnh và lạnh lẽo khi anh trở về. Những bức tường xây dày làm giảm đi mọi âm thanh nhưng vẫn giữ được hơi lạnh trong không khí. Điều đó không có nghĩa là mọi người đều đang ngủ say dưới đống chăn. Còn lâu. Vì Shalom và Aharoni ở tại một ngôi nhà an toàn khác, chỉ có năm đặc vụ ở Tira – Eitan, Malkin, Medad, Gat và Tabor – để theo dõi tù nhân và đứng gác ở phía trước và phía sau ngôi nhà trong trường hợp có ai đến gần. Chỉ có hai người trong số họ có thể ngủ cùng một lúc.
Không chắc là chưa có ai phát hiện ra nơi họ đang giam giữ Eichmann. Mọi biện pháp phòng ngừa đã được thực hiện để đảm bảo rằng ho không bị theo dõi. Dù vậy, đây chỉ là đêm đầu tiên, một trong mười đêm sắp tới, có thể còn hơn thế nữa, cho đến khi Eichmann có thể được El Al chở đi. Còn rất nhiều thời gian để cảnh sát, cơ quan an ninh Argentina hoặc cộng đồng Đức Quốc xã ở nước ngoài tìm thấy họ. Nhóm Mossad chỉ cần ngồi, chờ đợi và hy vọng rằng các biện pháp phòng ngừa sẽ giúp họ được an toàn.
Mỗi thành viên đều đã cân nhắc khi nào và bằng cách nào tin tức Eichmann bị bắt sẽ vỡ ra. Vera Eichmann có lẽ sẽ chần chừ trước khi đến gặp cảnh sát, nhưng bà và các con trai của bà có thể dễ dàng cảnh báo bạn bè trong mạng lưới của những cựu thành viên Đức Quốc xã vẫn còn hoạt động ở Argentina. Một số tên trong bọn chúng có ảnh hưởng trong chính phủ và quân đội. Hoặc họ có thể tự đi tìm. Nếu một cuộc khám xét công khai được thực hiện, có thể chỉ cần một sai lầm, một sơ suất là ai đó sẽ báo cảnh sát và dẫn họ đến nhà. Các kịch bản tiềm năng là vô tận.
Nếu cảnh sát đến, Eitan phải tự còng tay mình vào tù nhân và yêu cầu được gặp cấp trên của họ. Những người còn lại cố gắng tẩu thoát. Nhưng nếu bọn đến xét không phải là cảnh sát thì sao? Họ có thể thấy mình phải ngăn chặn một cuộc tấn công. Nếu điều này xảy ra, họ không đời nào cho phép Eichmann trốn thoát. Tabor đã quyết định đưa Eichmann lên khoảng không gian sát trần nhà mà anh đã nghĩ ra phía trên phòng giam, nơi anh sẽ siết cổ y.
Sau đó, có khả năng tù nhân của họ có thể tự mình vượt ngục. Eitan đã thiết lập chế độ canh gác 24 giờ luân phiên ba-ca làm việc theo giờ. Ông ta muốn có người bảo vệ luôn ở trong phòng với Eichmann. Ông muốn cửa luôn mở, đèn luôn sáng và ông định ngủ ở phòng bên cạnh để đề phòng. Hơn nữa, ông muốn đeo kính bảo hộ lên mắt tù nhân cho đến khi y đến Israel. Điều này không chỉ làm giảm cơ hội trốn thoát của y mà còn nếu bằng cách nào đó y trốn thoát được, y sẽ không thể xác định được họ. Eitan đoán rằng tù nhân của họ đã lên kế hoạch để thoát ra khỏi nhà.
Trong suốt đêm đầu tiên trong tình trạng bị giam cầm, Eichmann bồn chồn, có lẽ đang cân nhắc khả năng bỏ trốn. Y đã không chịu ăn bất cứ thứ gì và không ngủ. Khi y nằm ngửa trên giường, khuôn mặt y liên tục vặn vẹo rồi thả lỏng, dường như nằm ngoài tầm kiểm soát của y.
Tùy theo nét mặt nào co lại hay giãn ra, y biểu lộ nhiều loại cảm xúc: tức giận, tinh thần phản kháng, bình tĩnh thư giãn, nội tâm sâu sắc. Thỉnh thoảng y cố gắng điều chỉnh cơ thể, gõ lách cách chiếc còng tay cố định mắt cá chân gầy gò vào khung giường sắt. Bị bịt mắt, tước bỏ mọi vật dụng mà y có thể sử dụng để mở khóa còng và bị canh gác suốt ngày đêm, Eichmann có thể lập kế hoạch và di chuyển theo mọi cách y muốn. Nhưng thực tế không có cách nào trốn thoát. Nhưng các đặc vụ biết rằng tù nhân của mình là một kẻ mưu mô có trí thông minh xảo quyệt, đã thoát khỏi một số trại tù binh và trốn tránh những kẻ truy đuổi trong nhiều năm. Họ cần phải cảnh giác.
22
SÁNG NGÀY 12 THÁNG 5, GAT đỡ Eichmann ngồi dậy trên giường. Y vẫn bị bịt mắt, mắt cá chân vẫn bị xích vào chân giường. Gat đưa cho y một ly nước cam và đút cho y ăn một ít trứng và bánh quy giòn, Eichmann ăn một cách kiêng dè. Y vẫn phục tùng và im lặng, không thốt ra một lời phàn nàn. Tay y run rẩy liên tục.
Aharoni đến ngôi nhà an toàn ngay sau bữa sáng và ngồi xuống trước mặt tù nhân, một cuốn sổ và một cây bút trên bàn bên cạnh mình. Bằng thứ tiếng Đức ngắn gọn, ngắt quãng, anh ta tiếp tục cuộc thẩm vấn từ nơi đã dừng lại.
“Tao chỉ có một vài câu hỏi đơn giản dành cho mày,” anh nói. “Trả lời, và mày sẽ không gặp vấn đề gì cả.”
“Vâng, thưa ông,” Eichmann ngoan ngoãn trả lời.
“Tại sao đêm qua mày lại sử dụng cái tên ‘Otto Heninger’?”
“Đó là tên của tôi trong hơn bốn năm.”
“Đó là ở đâu vậy?”
“Ở Đức. Tôi làm thợ rừng ở đó trước khi đến Argentina.”
Không chút miễn cưỡng, Eichmann kể lại ngày tháng trốn thoát khi chiến tranh kết thúc, từ cuộc gặp cuối cùng với Kaltenbrunner, cho đến việc rút lên núi, bị người Mỹ giam cầm, cho đến việc trốn thoát xuyên châu Âu đến Argentina. Y coi thường kẻ thù của mình và không hề tỏ ra hối hận về bất cứ điều gì y đã làm trong quá khứ.
“Tại sao gia đình mày không sống dưới cái tên Klement giống như mày?” Aharoni hỏi, biết rõ rằng điều này đã hủy hoại Eichmann khi con trai ông là Nick gặp Sylvia Hermann.
“Ông đừng mong tôi sẽ sống nhờ vào sự gian dối của gia đình tôi,” Eichmann chán ghét nói.
Aharoni tỏ ra nghi ngờ trước nhận xét này. Vợ và các con trai của Eichmann đã gian dối vì sự an toàn của y suốt nhiều năm. Câu trả lời là điển hình trong nhiều câu mà người thẩm vấn sẽ nhận được khi Eichmann bóp méo hiện thực để phù hợp với cái tôi của mình. Theo chỉ dẫn trước của Isser Harel, Aharoni chuyển sang thẩm vấn Eichmann về những cựu thành viên Đức Quốc xã khác sống ở Argentina. Đầu tiên anh hỏi liệu y có biết nơi ở của bác sĩ Auschwitz Josef Mengele không.
“Không, tôi không biết điều đó.”
“Tao cho rằng mày thậm chí không biết y có ở Argentina không?”
Eichmann lắc đầu.
“Còn Martin Bormann?” Aharoni hỏi. Thư ký riêng của Hitler, người bị kết án tử hình vắng mặt tại Tòa án Nuremberg, vẫn đứng đầu danh sách những tên Đức Quốc xã chưa được phát hiện. “Mày có biết gì về nơi ở của tên ấy không?”
“Không, tôi không biết.”
“Nhưng chẳng phải bạn bè của mày đã giúp mày làm giấy tờ giả để đến Argentina sao?”
“Đó là một thời gian dài trước đây.” Aharoni mời Eichmann thức uống nhưng y từ chối. Anh lại đổi chủ đề, lần này là hỏi thăm bà vợ Eichmann sẽ làm gì khi y không về nhà. Họ cần biết chuyện gì sẽ xảy ra.
“Không làm gì,” y nói một cách tự tin. “Bà ấy sợ hãi. Bà ấy không biết chuyện.”
“Còn con trai của mày là Nick và Dieter thì sao?”
“Chúng sẽ biết có chuyện gì đó đã xảy ra.”
“Chúng sẽ đi báo cảnh sát à?”
Eichmann nói rằng y nghĩ chúng sẽ không làm vậy, ít nhất là không ngay lập tức. Về phần những tên Đức Quốc xã trước đây trong cộng đồng người Đức, y cho rằng họ sẽ lo cho mạng sống mình trước khi lo tìm kiếm y. Aharoni thấy rõ rằng Eichmann ít nghĩ đến những đồng nghiệp cũ của mình và y cũng đã nói lên sự thật.
Cuộc thẩm vấn tiếp tục kéo dài thêm vài giờ nữa, hai người ngồi cách nhau vài bước chân trong căn phòng nhỏ. Eichmann vẫn bình tĩnh và thẳng thắn, ít nhất là về cuộc sống của bản thân mình. Cuối cùng, khi Aharoni cảm nhận cuộc trao đổi giữa họ đã đủ thoải mái nên anh ấy liền hỏi, “Mày đã chuẩn bị việc ra hầu tòa ở Israel chưa?”
“Không. Chắc chắn là không. Thứ nhất: Tôi không làm gì sai cả,” Eichmann nói một cách mạnh mẽ, như thể y đã chờ đợi câu hỏi từ lâu. “Tất cả những gì tôi làm là tuân theo thượng lệnh. Các ông không bao giờ có thể chứng minh rằng tôi đã tự mình làm vậy, rằng tôi đã phạm tội. Thứ hai: Nào, nào tôi có dính líu gì với Israel? Tôi là người Đức. Các ông có thể đặt tôi— nếu, thực sự, nếu tôi có phạm bất kỳ tội ác nào, tôi sẽ bị xét xử ở Đức. Hoặc ở Argentina, tôi là công dân ở đây. Nhưng không phải ở Israel.”
“Chắc mày đang nói đùa,” Aharoni chế giễu. Haim Cohen đã khuyên anh sẽ tốt hơn nếu Eichmann sẵn lòng đến Israel và muốn có, nếu có thể, một tuyên bố có chữ ký về vấn đề đó. “Mày biết tỏng là sẽ không có ai đưa mày ra xét xử ngoại trừ người Israel. Vì vậy, đó là Israel hoặc không ở đâu cả. Đừng lo lắng. Đây sẽ không phải là một phiên tòa trá hình. Đó sẽ là một phiên tòa đúng nghĩa. Mày sẽ có một luật sư.”
“Tôi sẽ suy nghĩ về điều đó,” Eichmann cuối cùng nói.
Aharoni kết thúc cuộc thẩm vấn; Eichmann sẽ sớm nhận ra rằng y không còn lựa chọn nào khác. Hiện tại, Aharoni cần báo cáo lại cho Harel về vấn đề cấp bách nhất: gia đình Eichmann sẽ làm gì khi y không về nhà.
_____
Nick Eichmann đang lắp đặt hộp điều khiển cho trục thang máy trong thành phố thì em trai Dieter bất ngờ xuất hiện.
Hổn hển thở và hoảng sợ, Dieter buột miệng nói: “Ông già biệt tích rồi!”
Chiếc tuốc nơ vít trong tay Nick rơi xuống sàn. Dieter vội kể lại việc bố họ đã không về nhà vào đêm hôm trước.
Hai người con trai đã từng cảm thấy bức xúc trước những tin tức lặp đi lặp lại trên báo chí thông báo về một cuộc săn lùng mới đối với cha của họ. Nỗi sợ hãi của họ càng tăng cao bởi cuộc chạm trán kỳ lạ vào tháng 4 với hai người đàn ông cho biết đang tìm mua bất động sản trong khu vực. Vụ việc người lái xe limousine hỏi đường hai đêm trước đó càng làm họ nghi ngờ hơn. Bây giờ ông già đã biến mất, họ ngay lập tức nghĩ rằng ông chắc chắn đã trở thành nạn nhân của một cuộc tấn công, có thể là của người Do Thái, thậm chí có thể là người Israel.
Họ cùng nhau lao ra khỏi công trường. Người anh em thứ hai của họ, Horst, đang đi tàu buôn, điều đó có nghĩa là việc tìm cha phải do hai anh em lo. Họ đã băng qua Buenos Aires để gặp Carlos Fuldner, người đã giúp cha họ vào được Argentina, người đã cung cấp cho ông ta việc làm trong những năm qua, và vẫn là một trong những những nhân vật hàng đầu trong cộng đồng người Đức ở nước ngoài. Dieter và Nick không biết nơi nào khác để xoay. Vào thời điểm này, họ cũng sợ rằng bọn bắt đi cha mình ắt cũng muốn bắt cóc họ, mẹ và em trai làm con tin.
Fuldner bình tĩnh và lý luận chín chắn hơn. Y nói với các con trai của Eichmann rằng có ba lý do chính đáng tại sao cha họ không quay lại phố Garibaldi. Đầu tiên, cảnh sát có thể đã bắt ông ta và giam ông qua đêm vì say rượu hoặc một số vi phạm khác. Thứ hai, ông ta có thể đã gặp tai nạn và được đưa đến bệnh viện – hoặc thậm chí là nhà xác. Thứ ba, những kẻ truy đuổi ông có thể đã tìm thấy ông, như các con trai ông nghi ngờ, và những cá nhân này, dù là nhóm hay được nhà nước bảo trợ, đã bắt cóc hoặc đã giết ông. Đây là những lựa chọn, rõ ràng và đơn giản, và cần phải tiến hành một cuộc tìm kiếm, bắt đầu từ các bệnh viện và các đồn cảnh sát. xung quanh San Fernando. Khu vực xung quanh ngôi nhà cũng cần được khám xét để tìm bất kỳ dấu hiệu vật lộn nào và có thể là cả thi thể. Họ cũng nên đến thăm nhà máy Mercedes-Benz để xem liệu Eichmann có đến làm việc ngày hôm trước hay không.
Nick và Dieter rời đi để bắt đầu cuộc tìm kiếm, hy vọng rằng Fuldner và các thành viên khác trong cộng đồng người Đức sẽ tập hợp lại để giúp đỡ. Họ cũng dự định đến thăm Willem Sassen, một người bạn của cha họ, có nhiều mối quan hệ trong thành phố.
Hỏi thăm tin tức tại đồn cảnh sát San Fernando và các bệnh viện gần đó không có kết quả gì. Vera Eichmann đi thẳng đến Mercedes-Benz, nơi bà được cho biết Ricardo Klement đã làm việc cả ngày hôm trước và sau đó đã ở lại muộn để tham dự cuộc họp công đoàn. Ông ta đã không đến làm việc vào ngày hôm đó, và viên quản lý thông báo với Vera rằng Eichmann sẽ mất việc và các quyền lợi nếu ông ta không sớm quay lại làm việc.
Một cuộc tìm kiếm xung quanh Phố Garibaldi đã phát hiện ra cặp kính vỡ của Eichmann, bị ấn xuống bùn dưới mương. Bây giờ không còn câu hỏi nào nữa. Ông ta đã bị bắt cóc.
Một ngày sau khi vụ bắt giữ, Isser Harel quay trở lại chuỗi quán cà phê trong thành phố. Mọi sự chú ý của ông đều chuyển sang việc đưa Eichmann ra khỏi Argentina trước khi chiến dịch bị bại lộ.
Yosef Klein gặp lãnh đạo Mossad tại một trong những quán cà phê của ông ta. Tin tức về vụ bắt giữ không ảnh hưởng nhiều đến trưởng trạm El Al như lời cảnh báo của Harel rằng những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của họ vừa leo thang, đặc biệt vì họ không chắc gia đình Eichmann sẽ làm gì. Cuộc trò chuyện chuyển sang chuyến bay, cụ thể là về việc làm thế nào họ sẽ di chuyển tù nhân lên Britannia khi họ đã hoàn tất kế hoạch đỗ máy bay ở khu vực bảo trì của Aerolineas Argentinas.
Họ đã xem xét rất nhiều khả năng, một số do Harel đưa ra, một số khác do Klein đề xuất. “Hãy làm theo cách này,” Klein gợi ý. “Được rồi,” Harel thường trả lời. “Tôi sẽ xem xét điều đó, nhưng nếu làm theo cách khác thì sao… Và cách thứ ba… Còn…?” Dòng ý tưởng – bao gồm cả ý tưởng liên quan đến dây đai và bộ dây thừng và móc để nâng Eichmann lên máy bay- tiến hóa thành ba khả năng
Cách thứ nhất tập trung vào việc đưa Eichmann lên máy bay trong một chiếc thùng được đóng dấu là hàng hóa ngoại giao. Cách thứ hai, họ giấu y trong một chiếc xe đẩy của người cung cấp thực phẩm đã được nâng lên tàu trước khi khởi hành. Kế hoạch thứ ba liên quan đến việc mặc cho Eichmann bộ đồng phục El Al và đưa y đi kiểm tra cùng phi hành đoàn. Cả ba đều có điểm mạnh và điểm yếu, tùy thuộc vào cường độ hiện diện của cảnh sát, rào cản, kiểm soát hộ chiếu và liệu chiến dịch có bị bại lộ hay không. Vì Harel chỉ có 45 phút với Klein trước khi cần chuyển sang quán cà phê tiếp theo nên họ hoãn việc đưa ra quyết định điều tra sâu hơn về ưu và nhược điểm của từng kế hoạch.
Cuối ngày hôm đó, thủ lĩnh Mossad ngồi nói chuyện với Avraham Shalom. Vì Eitan đang giám sát ngôi nhà an toàn nên Harel cần người dẫn đầu cuộc trốn thoát. “Anh chịu trách nhiệm đưa Eichmann ra ngoài,” Harel thông báo với người phó của mình. “Hãy lên kế hoạch.”
Chuyến bay El Al là trọng tâm chính của Shalom. Anh cần tham khảo ý kiến của Klein về các thủ tục tại sân bay và làm quen với địa điểm cũng như con người ở đó. Anh cũng cần vạch ra những tuyến đường an toàn cũng như sắp xếp giấy tờ và đồ cải trang cho ngày họ chở Eichmann đến sân bay. Quan trọng nhất, anh phải hoàn thiện phương pháp thuận lợi nhất để đưa Eichmann lên máy bay, sử dụng một trong ba kế hoạch đã thảo luận với Klein hoặc kế hoạch của riêng anh.
Shalom được hướng dẫn khảo sát cảng Buenos Aires: có cách nào đưa Eichmann ra khỏi đất nước bằng tàu không? Trong vài ngày qua, Harel đã trăn trở với mối lo ngại rằng ai đó có thể kết nối sự biến mất của Eichmann với sự xuất hiện của chuyến bay El Al đầu tiên tới Argentina. Nếu hai sự kiện có liên quan đến nhau – và điều này chắc chắn có thể tưởng tượng được – lực lượng chính phủ hoặc bọn thân Đức Quốc xã có thể dễ dàng chặn máy bay trước khi nó có cơ hội cất cánh. Một kế hoạch dự phòng là cần thiết.
Trong khi đó ở Tel Aviv, các phi công, hoa tiêu, kỹ sư chuyến bay, nhân viên điều hành vô tuyến, nhân viên bảo trì máy bay và tiếp viên mà El Al đã chọn và Mossad đã thẩm tra đang nhận được các cuộc điện thoại hoặc thông báo trong hộp thư của họ rằng họ đã được chọn lên chuyến bay chở phái đoàn ngoại giao đặc biệt tới Buenos Aires nhân kỷ niệm 150 năm thành lập Argentina. Ngoại trừ Zvi Tohar, vị cơ trưởng, không ai trong số họ biết mục đích thực sự của chuyến bay.
_____
Đối với những thành viên bị chốt tại Tira để canh giữ Eichmann, chờ chiếc Britannia đến sao quá lâu. Chỉ mới có hai mươi bốn giờ đã trôi qua kể từ khi bắt được gã đàn ông đó, mà họ đã cảm thấy bị áp lực bởi nghĩa vụ của mình theo những cách không lường trước được. Họ đã chuẩn bị tinh thần cho những rủi ro khi ẩn náu trong ngôi nhà, có thể phải đối mặt với sự tấn công của cảnh sát hoặc các con trai và cộng sự của Eichmann nếu họ bị phát hiện. Mỗi lần có một chiếc ô tô phanh gấp ngoài đường, họ lại thấy lo lắng. Nhưng không ai trong nhóm lường trước được tác động của việc sống cùng không gian với Adolf Eichmann.
Tù nhân của họ đã được chứng minh là không gây ra mối đe dọa nào. Y vâng lời đến mức phục tùng. Khi họ đưa y lần đầu tiên đến phòng tắm, y phải xin phép trước khi đi đại tiện. Khi xong việc, y hỏi liệu y có thể lấy một ít giấy vệ sinh không. Điều đó khiến Tabor nhớ đến những tù nhân Đức sau chiến tranh, bọn chúng sẽ đánh bóng đầu các cây đinh khi được lệnh làm như vậy mà không một lời kêu ca phản đối.
Eichmann rõ ràng cũng quá sợ hãi để phản kháng. Khi được bảo đứng, y sẽ vâng lời nhưng run rẩy không kiểm soát được. Đầu giờ chiều hôm đó, khi họ đưa y ra ngoài tập thể dục, y đã hỏi liệu họ có đưa y ra ngoài để giết y. Dù họ có đảm bảo rằng không vẫn không làm y thoải mái chút nào.
Giờ thì rõ ràng Eichmann không phải là mối đe dọa đối với cá nhân họ hay là một nguy cơ trốn thoát, họ cảm thấy ghê tởm khi phải ở gần y đến như vậy. Đây là tên đã đẩy nhiều người trong gia đình họ đến chỗ chết.
Họ phải cho y ăn, mặc quần áo cho y, cạo râu cho y, đi cùng y vào phòng tắm và chăm sóc mọi sự khó chịu của y. Sẽ dễ dàng hơn nếu họ chỉ cảm thấy căm ghét y, nhưng không ngờ, y có vẻ và hành xử quá thảm hại và luống cuống để khơi dậy cảm xúc đó. Họ khinh bỉ sự hiện diện của y, đặc biệt khi họ nhớ những người thân đã mất đi vì hành động của y. Nhưng trên hết, họ bị đè nặng bởi những cảm xúc bất ổn khác, đó là sự bất lực bực bội khi dung hòa bản chất đáng thương của tên tù với sự thật rằng y phải chịu trách nhiệm về cái chết của rất nhiều người Do Thái. Cuộc xung đột này đã tạo ra một bầu không khí u ám cho ngôi nhà.
Tối hôm đó, sau bữa tối, họ đang mong đợi sự xuất hiện của Judith Nesiahu, một đặc vụ được Harel triệu tập đến Buenos Aires để đóng vai vợ của Yakov Medad tại ngôi nhà an toàn. Nesiahu là một người Do Thái chính thống đã di cư từ Hà Lan vào năm 1940 trước khi hầu hết gia đình cô bị xóa sổ trong Holocaust. Cô đã phục vụ quân đội trong Chiến tranh giành độc lập và hoạt động bí mật cho Mossad, trong đó có một hoạt động ở Maroc, điều phối việc đưa người Do Thái đến Israel. Khi được yêu cầu, cô ấy sẽ đóng giả làm người ngoại đạo, vi phạm các thực hành tôn giáo nghiêm ngặt của mình bất cứ khi nào ở nơi công cộng. Với cặp kính dày và thân hình chắc nịch, Nesiahu sẽ không bao giờ vào vai hũ mật ngọt để quyến rũ bọn gián điệp, nhưng cô ấy là người điềm tĩnh, nói được nhiều thứ tiếng, táo bạo và hoàn toàn tận tâm phục vụ Israel. Khi một trong những cấp dưới của Harel thông báo với cô năm ngày trước rằng Harel muốn cô đi công tác nước ngoài, cô chỉ trả lời đơn giản: “Được thôi.” Viên trung úy bối rối hỏi liệu cô có muốn biết mục đích của nhiệm vụ hay địa điểm của nó không, và câu trả lời của cô là cô mong anh sẽ nói cho mình biết khi cần thiết.
Nesiahu đã đến nhà với Medad, người đã cảnh báo cô về bầu không khí “bị bao vây”. Vai trò chính của cô là ngăn chặn những người hàng xóm hoặc bất kỳ vị khách nào khác nghi ngờ về hoạt động của họ bằng cách đảm bảo rằng cô được nhìn thấy đang tận hưởng khu vườn và đi dạo nhàn nhã với Medad, nhưng sự hiện diện của cô hứa hẹn sẽ phá vỡ sự đơn điệu của bầu không khí do nam giới thống trị. Nhóm cũng hy vọng rằng cô ấy có thể giúp nấu nướng, vì họ đã cho thấy mình không giỏi làm bất cứ thứ gì phức tạp hơn trứng chiên. Eitan và Malkin đều biết Nesiahu, và họ chào đón cô ấy nồng nhiệt trước khi giới thiệu cô ấy với các đặc vụ khác cũng như với bác sĩ. Cô ấy rất hào hứng khi được tham gia vào hoạt động, chỉ được cho biết trong một cuộc giao ban ngắn với Harel vài giờ trước rằng họ đã bắt giữ Adolf Eichmann. Như dưới tác dụng ngắn ngủi của bùa mê, vẻ nhiệt tình của cô đã làm sáng lên tâm trạng u ám. Nhưng sau khi cô đã nhìn thấy tù nhân đêm đó, nằm bất động ra sao trên nệm trừ thỉnh thoảng nét mặt y bất giác nhăn ngó, cô hối tiếc nỗi nhiệt tình trước đó. “Cứ nghĩ đến việc nấu ăn hoặc giặt giũ cho hắn ta là tôi quặn thắt cả bụng,” cô thừa nhận với những người khác. “Tôi thậm chí rùng mình khi nghĩ đến việc chạm vào bất cứ thứ gì mà hắn đã chạm vào.” Thế là tâm trạng ngột ngạt quay trở lại ngôi nhà.
Vào rạng sáng ngày 13 tháng 5, Peter Malkin, người đang canh giữ, quyết định rằng mình không thể ngồi yên mà chỉ nhìn chằm chằm vào Eichmann đang ngủ. Anh lao xuống hành lang và lấy vài cây bút chì màu phác thảo từ bộ hóa trang của mình và tờ giấy duy nhất anh có thể tìm thấy, Cẩm nang Nam Mỹ, một cuốn sách hướng dẫn du lịch anh đã mua ở Paris.
Cầm cây bút chì màu nâu, Malkin mở cuốn sách ra đến tấm bản đồ Argentina. Với sự mãnh liệt sinh ra từ sự khinh thường và sự nhàn rỗi không được chào đón, anh bắt đầu phác họa hình người đang ngủ trên bản đồ.
Bức chân dung mới xuất hiện là của một gã đàn ông với đôi mắt chết chóc ẩn hiện dưới cặp kính, đôi môi hẹp không có máu và gò má của một xác chết. Malkin chuyển từ bức chân dung vội vã đó sang bức chân dung khác, Eichmann trong bộ đồng phục SS, hình chữ thập ngoặc trên băng tay. Lần này anh vẽ Eichmann khi anh tưởng tượng về Đức Quốc xã trong chiến tranh, dáng vẻ cứng ngắc, đôi mắt đỏ ngầu và nhìn thấu mọi thứ.
Trên một trang khác, Malkin đã vẽ Eichmann cầm súng máy, chĩa vào Ba Lan và Hungary. Anh ấy cũng vẽ chân dung gần như hài hước của Hitler và Mussolini đối đầu nhau ở phía trang đối diện. Eichmann tiếp tục ngủ, Malkin chú ý lắng nghe tiếng bước chân trong hành lang. Anh không muốn các đồng đội khác biết mình đang làm gì. Bây giờ anh ấy vẫn miệt mài vẻ, chuyển sang một bức chân dung bột màu của bố mẹ anh đứng cạnh nhau, chạm tay nhau. Đôi mắt họ nhìn xuống, như thể họ đang nhìn anh ấy. Và cuối cùng anh phác họa chị gái Fruma từ ký ức về thời trẻ của mình: đôi mắt to, sắc sảo với sự quan tâm và yêu thương. Trong giây lát, Malkin đã trốn tránh được nỗi buồn đang bao trùm ngôi nhà. Sau đó anh hết ca trực canh và đi ngủ.
_____
Ngày 13 tháng 5 bắt đầu giống như ngày hôm trước. Họ đánh thức Eichmann dậy, cho y ăn sáng và cạo râu cho y. Ở tầng dưới, họ bật radio, và giữa những bài nhạc tango và các vở kịch nhiều tập, họ dừng lại để chăm chú lắng nghe có bất kỳ tin tức nào đề cập nào đến Klement hoặc Eichmann có thể tiết lộ rằng việc bắt giữ y đã được cảnh sát phát giác.
Không có gì. Họ cũng lùng sục những tờ báo buổi sáng, mà Medad đi ra ngoài mua về. Đã có chi tiết về kế hoạch nổi loạn của bọn theo chủ nghĩa Peron, đã từng bị đập tan, vũ khí và truyền đơn bị tịch thu. Ở đó là một bài viết dài khác về sự kiện lớn sắp tới, cuộc diễu hành kỷ niệm có sự góp mặt của 10.000 binh sĩ, 160 xe tăng, và hơn 100 máy bay bay biểu diễn trên đầu. Ca sĩ nhạc jazz Mỹ Ella Fitzgerald bắt đầu buổi ra mắt của cô ấy ở thành phố đêm đó. Không thấy đề cập đến Eichmann. Điều này không khiến biệt đội an tâm bao nhiêu. Cảnh sát hay lực lượng an ninh có thể không đăng thông báo về việc Eichmann biến mất để tránh không đánh động thuận lợi cho việc điều tra. Không ai trong nhóm Mossad ở Tira tin rằng nguy cơ bị phát hiện hay sự căng thẳng khi sống chung với Eichmann sẽ giảm bớt trong những ngày tới. Mục đích duy nhất của họ là phủi tay khỏi tên tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã bằng cách đưa hắn về Israel.
_____
Trở lại Israel, Yakov Caroz, một người đứng đầu bộ phận Mossad, vừa nhận được bức điện từ Buenos Aires. Ông đi khắp các đường phố của Tel Aviv để thông báo cho các nhà lãnh đạo hàng đầu của đất nước về vụ bắt giữ thành công
Khi dừng chân tại văn phòng thủ tướng, người ta cho biết Ben-Gurion đang đi nghỉ dưỡng ở kibbutz Sde Boker. Trừ khi một cuộc họp là thực sự cần thiết, thư ký của ông nói với Caroz, tốt hơn là nên gặp ông vào Chủ nhật. Caroz đồng ý và vội vã đến văn phòng ngoại trưởng Golda Meir. Bà trì hoãn một cuộc hẹn và đề nghị ông cùng bà ra ban công văn phòng của mình. Ngay khi họ còn lại một mình, vị ngoại trưởng nhỏ người, đầy năng lượng, với mái tóc xám đen được búi gọn lại, hỏi lý do ông đến.
“Adolf Eichmann đã được tìm thấy.”
“Hắn ta ở đâu?”
“Tất cả những gì tôi biết vào thời điểm này là Eichmann đã bị bắt và đã được xác minh”
Meir nín thở, áp lòng bàn tay lên ngực. Bà xúc động đến mức phải dựa vào Caroz để không bị ngã. Một lúc sau, bà nói, “Làm ơn, tôi cầu xin anh, nếu anh nghe thấy gì thêm, hãy đến chia sẻ với tôi.”
Caroz rời Meir để chuyển thông điệp tới tham mưu trưởng Lực lượng Phòng vệ Israel, ông đã gửi lời chúc mừng và cũng muốn biết thêm chi tiết. Nhưng Caroz chỉ nhận được bức điện ngắn ngủn được mã hóa từ Buenos Aires. MÁY ĐÁNH CHỮ VẪN ỔN cung cấp rất ít dữ liệu để suy diễn thêm.
Phải hai ngày nữa Caroz mới thực hiện chuyến hành trình bằng ô tô vài giờ về phía nam Tel Aviv đến Sde Boker, ở sa mạc Negev.
Các vệ sĩ dẫn ông đến một ngôi nhà mát nhỏ, nơi Ben-Gurion chào đón ông trong phòng làm việc nhỏ đầy sách của mình.
“Tôi đến để thông báo với ngài rằng Eichmann đã được tìm thấy và danh tính của y đã được xác minh rõ ràng.”
Ben-Gurion mất một giây để tiêu hóa tin tức rồi hỏi, “Khi nào Isser sẽ quay lại? Tôi cần anh ấy.”
“Tôi có thể nói là trong một tuần nữa. Tôi không thể nói chính xác.”
Sau đó, Ben-Gurion đã viết trong nhật ký của mình, “Sáng nay tôi gặp một người đưa tin từ Isser, người này nói với tôi rằng Eichmann đã được xác định và bị bắt giữ và sẽ được chở đến đây vào tuần tới (nếu họ đưa được y lên máy bay). Isser sẽ quay lại sau. Nếu mọi việc đều trôi chảy, chiến dịch này đúng là một chiến dịch quan trọng và thành công”.
Giống như thủ lĩnh Mossad của mình, Ben-Gurion chỉ cho phép mình một chút phấn khích. Nhiệm vụ vẫn chưa hoàn thành.