
Neal Bascomb
Trần Quang Nghĩa dịch
16
VÀO NGÀY 24 THÁNG 4, Yakov Gat đến Sân bay Ezeiza. Mặc một bộ vest được cắt may hoàn hảo, một chiếc cà vạt mỏng và mang theo một chiếc cặp, anh bước lên cầu thang di động đã được lăn sang một bên máy bay và đón nhận ánh nắng chói chang của mặt trời Argentina. Gat không chú ý đến gã phó nhòm đã chụp vài bức ảnh của anh trước khi anh bước đến xuống thềm nhựa.
Anh ấy dễ dàng qua khâu hải quan, việc anh ấy không biết tiếng Tây Ban Nha không phải là vấn đề. Thay vì bắt một chiếc taxi mà tài xế sau này có thể nhớ ra nơi gã đã thả hành khách của mình, anh lên một chiếc xe buýt bên ngoài nhà ga. Anh dự kiến sẽ gặp Ilani trong vài giờ nữa.
Gat ngồi gần cửa ra vào, như thói quen của anh – đề phòng trường hợp có vấn đề. Xe buýt vào trung tâm thành phố đã chật kín người nhưng vẫn chưa thấy bóng dáng tài xế. Một cảnh sát đang đi vòng quanh phía trước xe buýt. Sau mười phút, Gat bắt đầu lo lắng. Sau hai mươi, anh tin chắc rằng có điều gì đó không ổn.
Đột nhiên có hai gã đàn ông lao lên xe buýt, chặn đường trốn thoát của anh. Gat nhận ra một trong số họ là người lái xe nhờ bộ đồng phục của anh ta. Người kia đứng ngay trước mặt Gat và lẩm bẩm một ít tiếng Tây Ban Nha. Người Israel lạnh lùng, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sau đó, gã đàn ông cho anh ta xem một bức ảnh chụp nghiêng của anh khi bước xuống máy bay. Một loạt câu hỏi hoảng loạn lướt qua tâm trí anh. Cảnh sát Argentina có biết anh là ai không? Có phải họ đã được báo trước? Họ có biết hộ chiếu của anh là giả không? Có phải anh sắp bị giam giữ?
Trước khi anh kịp phản ứng, gã đàn ông đã chuyển sang người hành khách tiếp theo và đưa cho anh ta tấm ảnh mới in ra giấy của chính mình. Gat chợt nhận ra rằng anh chàng này là một tay thợ chụp ảnh dạo, hy vọng kiếm tiền từ một số khách du lịch vừa mới bước xuống máy bay. Rõ ràng anh ta có mối quan hệ làm ăn với tài xế xe buýt và cảnh sát để neo giữ xe buýt cho đến khi anh chàng đã tráng và in ảnh ra. Khi gã đàn ông đó quay lại chỗ Gat, anh vui vẻ trả tiền cho bức ảnh và sau đó thả lỏng trở lại trên chỗ ngồi của mình. Nếu anh tháo chạy và bị bắt, anh có thể đã làm tổn hại đến sứ mệnh. Đó là những nguy cơ, thậm chí từ các sự cố gần như vô hại.
Lúc mười một giờ kém năm phút, anh đến một quán cà phê với sàn đá cẩm thạch và trần nhà cao ở trung tâm Buenos Aires. Khi đi qua những cánh cửa xoay, anh nhận thấy Ephraim Ilani đang đợi mình, một cốc cà phê trên tay và một cái tẩu trong miệng. Đến từ hai ngày trước, Ilani đã thuê một căn hộ, dự trữ đồ ăn đóng hộp và một số giường cắm trại. Hai lần một ngày, anh ấy đã đợi ở một góc phố, nhà hàng hoặc quán cà phê đã sắp xếp trước – mỗi lần một điểm hẹn khác nhau để tránh nghi ngờ – mong được gặp các thành viên của biệt đội. Để đề phòng, anh không được thông báo ai sẽ đến hoặc vào ngày nào. Đối với Ilani vốn là người thích giao du, việc dành nhiều thời gian một mình như thế này là một công việc nhàm chán.
“Rất vui được gặp anh! Đến, đây ngồi!” Ilani vui vẻ nói bằng tiếng Anh, đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
“Anh có khỏe không?” Gat vui vẻ hỏi cũng bằng thứ ngôn ngữ đó, cố lên giọng. “Tôi vừa từ sân bay về thẳng đây. Tôi tưởng sẽ không thấy anh vẫn còn ở đây.”
“Chúng ta hãy ngồi một lát nhé.”
Sau đó, họ nói nhỏ bằng tiếng Do Thái rồi rời quán cà phê để đi thăm ngôi nhà an toàn. Ngày hôm sau, Aharoni gặp họ theo cách tương tự tại một nhà hàng. Kể từ khi rời Buenos Aires vào đầu tháng 4, anh đã để tóc dài và bây giờ để ria mép nhằm cố gắng không để bất kỳ ai mà anh ta từng tiếp xúc trước đó nhận ra.
Avraham Shalom được mong đợi tiếp theo.
Shalom, người đã đi du lịch bằng hộ chiếu Đức giả, bước dưới mái hiên bên ngoài khách sạn Lancaster trên đại lộ Avenida Córdoba, cách Plaza San Martín ở trung tâm Buenos Aires một quãng đi bộ. Bước vào tiền sảnh, anh nghĩ có lẽ mình đang ở London, nhìn thấy quầy bar bằng gỗ sồi và những bức chân dung quý tộc trên tường. Shalom đã quen với việc ở trong những nhà nghỉ tồi tàn – một phần chính trong chính sách du lịch tiết kiệm của Harel – nhưng anh đang đóng vai một doanh nhân và khách sạn phù hợp với vai trò này. Anh ấy không định phàn nàn.
Giống như các đồng nghiệp của mình, Shalom đã đi đường vòng tới Buenos Aires. Anh đã bay đến Rome bằng một hộ chiếu, đổi nó lấy một hộ chiếu khác tại đại sứ quán Israel. Sau đó, anh đi tàu hỏa đến Paris, nơi Shalom Dani đã đưa cho anh một hộ chiếu Đức thực có tên Dani đã được thay đổi cẩn thận bằng một vài chữ cái để tạo danh tính mới.
Shalom sau đó đã bay đến Lisbon, giao hộ chiếu của mình cho chính quyền Bồ Đào Nha cho đến khi anh sẵn sàng lên máy bay tới Buenos Aires. Không hiểu sao, anh ta lại quên tên giả của mình khi cảnh sát hỏi để trả lại hộ chiếu. Thông thường, Shalom sử dụng một số loại mẹo ghi nhớ, liên hệ các âm tiết hoặc chữ cái của tên với họ, nhưng lần này đầu óc anh trống rỗng. May mắn thay, anh đã phát hiện ra hộ chiếu Đức có màu xanh lá cây trong chồng hộ chiếu và chỉ vào nó, tự tin nói: “Cái đó của tôi.” Viên cảnh sát đã trao nó cho anh mà không cần thắc mắc.
Sai lầm này nhanh chóng nối tiếp sai lầm khác, khi anh nhìn thấy thủ lĩnh của đội, Yakov Medad, lên cùng chuyến bay, một điều mà chắc chắn là không thể xảy ra. Nếu một trong hai hộ chiếu của họ được xác định là giả, cơ quan chức năng sẽ kiểm tra lại tất cả giấy tờ của hành khách. Một lần nữa, thảm họa đã tránh được, Shalom và Medad đã đặc biệt nỗ lực để không thậm chí liếc nhìn nhau trong suốt chuyến bay dài.
Điềm xấu thứ ba ập đến khi Shalom giao hộ chiếu của mình tại quầy lễ tân Lancaster. Nhân viên tiếp tân, một người đàn ông khoảng ngoài năm mươi, nhìn vào giấy tờ của anh và nói, “Đồng hương. Ông đến từ Hamburg. Tôi cũng đến từ Hamburg.”
Shalom cảm thấy tim mình như rớt ra ngoài. Anh nói giọng và phương ngữ Áo, còn nhân viên phục vụ, người có tuổi tác và quốc tịch phù hợp với khả năng y có thể là một cựu thành viên Đức Quốc xã, sẽ biết rằng anh không nói giọng của một người Đức ở miền bắc.
Với hy vọng làm ông ta thất vọng, Shalom nói rằng anh thực sự đến từ một thị trấn nhỏ bên ngoài thành phố. Điều đáng chú ý là nhân viên lễ tân lại trả lời y cũng là người cùng nơi. Shalom quá đỗi kinh ngạc. May rủi ra sao đây? Anh vội vàng điền đơn vào khách sạn, lấy chìa khóa phòng rồi bước đi, chắc chắn rằng mình đã gây ấn tượng đáng ngờ vực. Anh dự định chuyển khách sạn vào ngày hôm sau để phòng bất trắc.
Anh có rất ít thời gian để lo lắng, vì anh phải rời khách sạn ngay lập tức để lúc 6 giờ tối đến cuộc hẹn ở góc phố Avenida Santa Fe và Avenida Callao, cách khu trung tâm nhộn nhịp khoảng 20 dãy nhà đi bộ về hướng Tây. Anh đến cùng lúc với Aharoni và Gat.
“Anh muốn làm gì, Avrum?” Aharoni hỏi sau vài câu nói vui vẻ.
Shalom là trưởng nhóm tiền phương, được Harel giao nhiệm vụ trả lời một câu hỏi quan trọng: nhiệm vụ có nên tiếp tục không? Người đứng đầu Mossad không cho anh bất kỳ hướng dẫn nào về ý nghĩa của điều này. Họ đã làm việc cùng nhau quá lâu nên điều đó là không cần thiết. Shalom hiểu rằng ông ấy cần theo dõi Eichmann, kiểm tra động tĩnh của y và xem liệu có địa điểm thích hợp để bắt giữ y hay không. Tại thời điểm này, họ chỉ có báo cáo giám sát từ Aharoni, và mặc dù Shalom và Aharoni đã biết nhau nhiều năm nhưng họ chưa bao giờ làm việc cùng nhau trong một hoạt động.
“Chúng ta hãy đến nhà y,” Shalom quyết định. Không có lý do gì để trì hoãn.
“Trời sắp tối,” Aharoni nói.
“Chúng ta sẽ đi thôi.”
Aharoni dẫn họ đến chiếc xe thuê và lái xe suốt một tiếng rưỡi ra khỏi thành phố đến San Fernando vào giờ cao điểm giao thông. Khi họ đến nơi thì mặt trời đã lặn hẳn và một làn sương nhẹ lơ lửng trong không khí mát mẻ của buổi tối. Việc thiếu đèn đường trong khu vực là bằng chứng cho sự cô lập của nó. Khi họ đi qua bên dưới bờ kè đường sắt trên Đường 202, hướng tới ki-ốt và trạm xe buýt, Shalom nhìn thấy những ngọn đèn nhỏ màu đỏ và trắng xen kẽ ở phía trước và bên phải anh. Chẳng bao lâu sau, anh nhận ra ai đó đang đi với chiếc đèn pin hai đầu. Khi đèn pha của ô tô chiếu sáng khuôn mặt của người đàn ông, Shalom ngay lập tức nhận ra Eichmann.
“Đó là y! Đó là y,” Shalom thì thầm khi chiếc xe lướt qua Eichmann.
Aharoni hào hứng đạp phanh và lao sang bên phải, như thể anh ta mong đợi Shalom và Gat sẽ nhảy ra và tóm lấy Eichmann.
“Không làm thế! Lái đi!” Shalom gay gắt nói. “Y sẽ nghĩ có chuyện gì đó không ổn.”
Aharoni nhấc chân khỏi phanh và lái xe thẳng, quá kinh hoảng trước sai lầm của mình nên không thể thốt nên lời. Gat quan sát từ ghế sau, hy vọng rằng Eichmann sẽ không quay lại để xem điều gì đã khiến chiếc xe chạy chậm lại và rẽ phải. Rất may, y đã không làm thế.
Họ lái xe xa hơn một chút dọc theo Đường 202.
“Hãy đuổi theo y và xem có phải y không,” Shalom hướng dẫn Gat. Aharoni dừng lại đủ lâu để Gat nhảy ra ngoài. Gat băng qua đường, giữ khoảng cách một trăm thước giữa cậu và người đàn ông. Đèn trong xe biến mất, trời gần như tối đen. Gat nhìn những ngọn đèn đỏ và trắng di chuyển mạnh về bên trái; đó chắc hẳn là con phố phụ Garibaldi. Anh đi theo và thấy gã đàn ông bước đi xa hơn hai mươi mét trước khi rẽ về phía một ngôi nhà. Nó khớp với những bức ảnh Aharoni đã chụp.
Nửa giờ sau, Aharoni đón Gat ở phía bên kia bờ kè.
“Eichmann,” anh nói đơn giản. Anh ấy rất phấn khởi vì họ đã tìm thấy y vào đêm đầu tiên.
Shalom chắc chắn rằng mình đã thấy đủ để báo cáo lại cho Harel. Hôm đó là thứ ba, và có lẽ Eichmann đang đi làm về sau khi bắt xe buýt. Nếu đúng như vậy thì rất có thể y đã trở về nhà vào thời điểm có thể đoán trước được hằng ngày. Y đi dọc theo con đường vắng đến một ngôi nhà ở một khu dân cư biệt lập, tối tăm. Không thể nào tốt hơn được, Shalom nghĩ, mặc dù chính sách của anh là không bao giờ quá tự tin.
Sáng sớm hôm sau, ngày 27 tháng 4, Shalom gặp Ilani, thành viên duy nhất trong nhóm làm việc trong đại sứ quán. Shalom đưa cho anh một mật mã duy nhất để gửi tới Tel Aviv: CÀ RỐT. Nhiệm vụ nên tiến hành.
Cuối ngày hôm đó, Harel nhận được tin nhắn. Ông gọi cho Eitan, ra lệnh cho những người còn lại trong đội đi đến Buenos Aires. Ông dự kiến sẽ rời đi sau 72 giờ nữa, và ông vẫn cần hoàn thành kế hoạch đưa Eichmann ra khỏi Argentina.
Harel ấn định ngày chuyến bay đặc biệt của El Al rời Tel Aviv: ngày 11 tháng 5. Điều này phù hợp với phái đoàn Bộ Ngoại giao, những người sẽ đến một tuần trước lễ kỷ niệm ở Argentina và nó đáp ứng yêu cầu về lịch trình của El Al. Ngoài ra, và quan trọng hơn, ngày tháng mang lại sự linh hoạt trong hoạt động nhất. Họ cần giới hạn khoảng thời gian giữa khi Eichmann bị bắt và khi máy bay rời đi. Nhóm càng che giấu tên Đức Quốc xã càng lâu thì khả năng bị phát hiện càng lớn, đặc biệt nếu một cuộc tìm kiếm Eichmann được phát động. Nhiều nhất, họ có khung thời gian bảy ngày trước khi máy bay phải quay trở lại Israel. Còn lâu hơn nữa, sự hiện diện của chiếc máy bay sẽ thu hút sự chú ý. Trong trường hợp tốt nhất, họ sẽ bắt được Eichmann, nhốt y vào một ngôi nhà an toàn trong một ngày và sau đó đưa y ra khỏi Argentina vào ngày hôm sau. Để bổ sung thêm câu chuyện ngụy trang về chuyến bay, báo chí đã được thông tin sớm về chuyến thăm của phái đoàn ngoại giao và những vé ghế trống còn lại thậm chí còn được rao bán cho công chúng.
Rủi ro chính của việc tổ chức hoạt động trong những ngày trước lễ kỷ niệm là an ninh ở Buenos Aires và tại sân bay sẽ ở trong tình trạng báo động cao độ. Đặc biệt, biệt đội của ông cần phải đảm bảo tránh những rào cản ngẫu nhiên ở hai thời điểm lộ diện lớn nhất của họ: thứ nhất, khi đưa Eichmann đến ngôi nhà an toàn ngay sau khi y bị bắt và thứ hai, khi vận chuyển y từ ngôi nhà an toàn đến sân bay và vào trong. máy bay. Tuy nhiên, lợi điểm của câu chuyện che đậy chuyến bay vượt xa những rủi ro này.
Bây giờ nhiệm vụ đã bắt đầu một cách nghiêm túc, Harel vội vàng điều phối bộ phận vận tải, biết rằng mình sẽ phải dựa vào tất cả nhân viên-thường dân của El Al – để thực hiện nó. Có rất nhiều công việc thường là những chi tiết hậu cần tầm thường: sắp xếp phi hành đoàn, kế hoạch chuyến bay, đặt chỗ hành khách, nhiên liệu, dịch vụ máy bay, giấy phép hạ cánh và liên lạc bằng điện tín với Argentina. Nhưng những điều này không hề tầm thường trong dịp này, bởi vì El Al chưa bao giờ bay tới Buenos Aires trước đây. Không gì được phép trì hoãn chuyến bay. Sẽ cần một số nhân viên của El Al để giúp khảo sát sân bay và cung cấp vỏ bọc cho việc đưa Eichmann lên máy bay. Nguy hiểm nhất, mọi biện pháp phòng ngừa sẽ phải được thực hiện để chuyến bay trở về không bị dừng, chuyển hướng hoặc trong trường hợp xấu nhất là buộc phải hạ cánh nếu biết rằng Eichmann đã ở trên máy bay. Nếu điều này xảy ra, nó sẽ đòi hỏi những biện pháp đặc biệt từ phía những người được chọn bay và điều hướng máy bay, và toàn bộ phi hành đoàn sẽ gặp rủi ro. Cuối cùng, tất cả những người được chọn tham gia chuyến bay phải được tin cậy là sẽ giữ bí mật tuyệt đối.
Harel cử Yehuda Shimoni đi chỉ đạo các hoạt động của đội ở Buenos Aires. Ngày hôm sau, Harel gặp phi công trưởng, Zvi Tohar, và hai người chịu trách nhiệm lựa chọn và kiểm tra phi hành đoàn, Adi Peleg và Baruch Tirosh. Harel biết rõ nhân viên an ninh El Al Peleg và người đứng đầu phi hành đoàn Tirosh. Họ đã từng làm việc trong ngành an ninh trước khi gia nhập hãng hàng không. Ông không quen biết viên cơ trưởng cao lớn với bộ ria mép cắt tỉa và phong thái chững chạc của một quý ông người Anh. Nhưng Tohar đã được El Al đánh giá cao.
Là một người Do Thái gốc Đức, ông đã trốn sang Anh trong Thế chiến thứ hai và tình nguyện theo học trường phi công của RAF. Sau chiến tranh, ông di cư đến Israel, thực hiện hàng trăm phi vụ trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Israel, nhiều chuyến mang vật tư và đạn dược đến các khu định cư bị bao vây quanh Jerusalem dưới hỏa lực dày đặc của người Ả Rập. Ông gia nhập El Al vào đầu những năm 1950, khi chỉ có một số ít phi công người Israel, phần lớn còn lại là người nước ngoài tình nguyện gia nhập lực lượng không quân Israel trong Chiến tranh giành độc lập. Năm 1953, Tohar trở thành cơ trưởng El Al đầu tiên của Israel, và kể từ đó ông đã thể hiện kỹ năng bay cũng như sự điềm tĩnh của mình với tư cách là cơ trưởng của nhiều chuyến bay thử nghiệm cho các máy bay El Al mới.
“Này các bạn, tình hình là thế này,” Harel bắt đầu với vẻ cực kỳ nghiêm túc. “Chúng tôi có chuyến bay chở phái đoàn Israel tới dự lễ kỷ niệm Argentina. Trên hành trình trở về, chúng tôi sẽ đưa Adolf Eichmann cùng trở lại”.
Ba người đàn ông giữ im lặng khi người đứng đầu Mossad phác thảo những nét khái quát về những gì ông đã hình dung. Ông muốn chỉ những người Israel được chọn vào chuyến bay, phi hành đoàn trên máy bay và mặt đất. Họ phải đáng tin cậy và cực kỳ có năng lực. Mọi chi tiết kỹ thuật đều phải được chăm sóc cẩn thận hơn. Tổ bay cũng cần phải chuẩn bị sẵn sàng để cất cánh nhanh chóng từ Buenos Aires và có thể thực hiện các động tác né tránh.
“Những gì bạn có thể nói về điều này?” Harel hỏi.
Tirosh háo hức khẳng định rằng họ có thể hoàn thành nhiệm vụ này, mặc dù họ sẽ cần hai phi hành đoàn đầy đủ, vì lộ trình các chuyến bay quá dài. Anh cũng đưa ra ý tưởng về cách họ có thể loại bỏ những kẻ truy đuổi bằng cách lập một kế hoạch bay sai cho hành trình trở về. Peleg rất xúc động trước viễn cảnh của sứ mệnh. Không lâu sau khi Đức Quốc xã lên nắm quyền ở Đức, cha anh, một thương gia thành đạt, đã bị đánh đập và ép uống hàng lít dầu thầu dầu. Ngay sau đó, ông qua đời vì một cơn đau tim. Không giống như hai đồng nghiệp của mình, Tohar tỏ ra dè dặt, nói rằng ông “đánh giá cao tầm quan trọng của công tác”. Tuy nhiên, Harel cảm nhận được sự háo hức của người phi công được trở thành một phần của chiến dịch.
Trước khi cuộc họp kết thúc, Harel nhấn mạnh rằng ông muốn hạn chế số điểm dừng trên chuyến bay trở về từ Buenos Aires. Chuyến bay bình thường cần có ba điểm dừng trung gian để tiếp nhiên liệu – ví dụ: Recife, Brazil; Dakar, Sénégal; và Rome, Ý – trước khi đến Israel. Điều này tạo ra quá nhiều cơ hội cho máy bay bị cầm giữ.
“Liệu bạn có thể xoay sở chỉ với một điểm dừng không?” Harel hỏi Tohar.
Vị cơ trưởng hiểu rõ khả năng cũng như những hạn chế của dòng Britannia 300 mới, chiếc máy bay tiên tiến nhất có tầm bay xa nhất trong đội bay El Al. Vào tháng 12 năm 1957, ông đã thực hiện chuyến bay chứng minh của Britannia từ New York đến Tel Aviv, một hành trình dài 5.760 dặm, quãng đường dài nhất từng được di chuyển không ngừng nghỉ bằng một chiếc máy bay thương mại.
“Đó là một chuyến bay rất dài,” Tohar nói. “Để tôi kiểm tra xem.”
Trước khi kết thúc cuộc gặp, Harel nhấn mạnh rằng cả ba không nói một lời nào về mục đích bí mật của chuyến bay. Không ai khác cần biết cho đến khi họ đưa Eichmann lên tàu an toàn và đã dọn sạch không phận Argentina. Đối với tất cả ý định và mục đích, đó là một chuyến bay ngoại giao, không có gì khác.
“Hẹn gặp lại ở Buenos Aires,” Harel nói khi bắt tay từng người.
Hai giờ sau, Tohar gọi điện cho giám đốc Mossad để nói với ông ta rằng chuyến bay chỉ có một điểm dừng ở Dakar có thể thực hiện được ở mức độ rủi ro mà ông sẵn sàng chấp nhận. Nhưng không có gì đảm bảo. Tại một thời điểm nào đó trên Đại Tây Dương, họ sẽ vượt qua điểm không thể quay lại.
_____
Nằm sấp trên mô kè đường sắt, khuôn mặt cách đường ray vài inch, Shalom và Aharoni chĩa ống nhòm của họ vào Đường 202 và nhắm vào ngôi nhà cách đó 75 thước. Đó là đêm giám sát thứ ba của họ và họ chờ đợi Eichmann trở về nhà. Vị trí theo dõi đòi hỏi họ phải nằm dài trên những tảng đá và các mối nối đường sắt, phải đối mặt với những trận mưa như trút nước vào tháng tư khó lường.
Cỏ dại mọc um tùm dọc theo bờ kè tạo ra một số chỗ che chắn. Cứ năm phút lại có một chuyến tàu đi xuống đường ray dẫn đến và đi từ Buenos Aires. Đầu tiên đường ray rung lên, sau đó là ánh sáng đến gần khi đoàn tàu lao qua với một tiếng rít và rầm rập chói tai, bốc ra một đám khói đen như bồ hóng.
Họ không gặp khó khăn gì trong việc tránh đường kịp thời và sự khó chịu là mối lo ngại không đáng kể, nhưng ánh đèn từ các đoàn tàu có nguy cơ họ bị ai đó trong khu vực lân cận phát hiện. Tuy nhiên, địa điểm cao hơn địa hình xung quanh 15 bộ là nơi tốt nhất để giám sát.
Sau khi chuyến tàu 7h30 đi qua, họ càng cảnh giác cẩn thận hơn. Hai đêm trước, lúc 7h40, xe buýt 203 xanh vàng chở Eichmann đã dừng lại ở ki-ốt. Ánh đèn xuất hiện trên đường. Aharoni kiểm tra đồng hồ: 7:38. Anh và Shalom quay nhìn nhau. Họ đã xác định được lịch trình của mục tiêu. Hoạt động của họ phụ thuộc vào việc y có theo sát nó hay không.
Eichmann và một phụ nữ xuống xe buýt rồi rời nhau mỗi người một ngã. Sau khi xe buýt rời đi, Eichmann bật đèn pin, bước chậm rãi, cúi đầu về phía nhà mình. Shalom hơi bị sốc trước tình cảnh sinh tồn đáng thương của Eichmann, sống trong một khu phố tồi tàn không điện nước, ăn mặc như một công nhân nhà máy xoàng xĩnh với bộ quần áo sờn rách. Với quyền lực mà y ta từng nắm giữ, thật khó để Shalom tin rằng đây là cùng một người – mặc dù anh ta đã tự mình nghiên cứu các báo cáo của Aharoni ở Tel Aviv. Như hai đêm trước, Eichmann đi vòng quanh nhà trước khi bước vào. Ban đầu, các đặc vụ Mossad nghĩ rằng y muốn chắc chắn không có ai đang rình rập xung quanh. Sau đó, họ nhận ra rằng Eichmann chỉ đang kiểm tra luống rau của mình.
Shalom và Aharoni quan sát ngôi nhà thêm vài phút nữa rồi bò xuống bờ kè. Gat đón họ trên đường vào thời gian đã hẹn trước, và họ quay trở lại ngôi nhà an toàn mà họ gọi là Maoz (thành trì), để xem lại các hoạt động trong ngày và lên kế hoạch cho ngày hôm sau. Họ đã dành cả buổi sáng để thăm dò lại bến cảng Buenos Aires, đề phòng trường hợp kế hoạch sử dụng máy bay El Al thất bại. Tất cả bọn họ đều thấy rõ rằng họ cần phải dành nhiều thời gian hơn ở bến cảng để tìm ra cách tốt nhất đưa Eichmann ra ngoài bằng thuyền. Điều cấp bách hơn là họ phải tìm kiếm những ngôi nhà an toàn.
Ngoài Maoz, một căn hộ lớn ở tầng hai trong một khu nhà giàu, nơi họ có thể gặp nhau và ẩn náu nếu hoạt động bị bại lộ, họ cần thuê một ngôi nhà an toàn khác để giam giữ Eichmann cho đến khi chuyển y ra khỏi đất nước. Một nơi như vậy có rất nhiều yêu cầu. Đó phải là một ngôi nhà lớn ở một khu vực khá giàu có để cư dân nhìn thấy nhiều ô tô đắt tiền ra vào mà không để ý. Nó phải riêng tư, do đó phải nguyên căn, và tốt nhất là có một khu vườn với hàng rào và một gara gắn liền để họ có thể đưa tù nhân thẳng vào nhà mà không bị ai nhìn thấy. Địa điểm phải ở xa nhưng không quá xa San Fernando hoặc sân bay và có thể tiếp cận bằng nhiều tuyến đường khác nhau. Có thể không cần người chăm sóc cơ ngơi.
Yakov Medad báo cáo rằng mình có manh mối về hai ngôi nhà ở San Fernando, cũng như một số ngôi nhà khác ở nơi khác. Họ quyết định chia thành hai đội và dành cả ngày hôm sau để kiểm tra địa chỉ. Nếu không có cách nào phù hợp, Medad cần thử liên hệ với Ilani ở Buenos Aires trước khi chuyển sang các đại lý bất động sản hoặc danh sách nhà thuê trên báo. Trong trường hợp tốt nhất, họ sẽ thuê nhà của mình từ một người Do Thái địa phương, giải thích rằng họ muốn sử dụng nó cho phái đoàn Israel đến dự lễ kỷ niệm. Nếu hoàn cảnh yêu cầu, họ có thể kêu gọi chủ nhà nhắm mắt làm ngơ. Theo triết lý hoạt động của Harel, họ lên kế hoạch cho mọi thứ dựa trên tình huống xấu nhất.
Những thành viên biệt đội chỉ kết thúc cuộc thảo luận khi đến nửa đêm. Sau đó họ rời Maoz và trở về khách sạn, ngã đổ xuống giường, hoàn toàn hết hơi.
_____
Ở New York, Yosef Klein không thể hiểu tại sao trụ sở El Al lại muốn anh có mặt ở Argentina – và tại sao việc đó phải thực hiện ngay lập tức. Người quản lý nhà ga trẻ tuổi đã có đủ khả năng để điều hành các hoạt động của hãng hàng không Israel ở New York. Họ muốn gì ở anh tại Nam Mỹ, nơi anh chưa có kinh nghiệm? Nhưng đó chính là nội dung bức điện được viết tắt không chi tiết: “Đi tới Buenos Aires. Gặp Yehuda Shimoni. Đến nơi trước ngày 3 tháng 5.” Chắc hẳn đã có sai lầm nào đó. Anh ta đánh điện lại: “Có lẽ có lầm lẫn. Tôi có việc gì với Argentina?”
Anh nhận được tin trả lời rằng không có sai sót gì và được đích thân giám đốc El Al ký tên. Sau một hồi trao đổi qua lại với trụ sở chính, Klein biết được lộ trình mà Shimoni đi tới Argentina và đặt vé cho mình trên cùng chuyến bay của Swissair từ Rio de Janeiro đến Buenos Aires. Bằng cách đó, anh có thể tìm hiểu thêm trước khi đến Argentina. Anh cho rằng rằng họ có thể tính tổ chức một loại chuyến bay thuê bao nào đó. Anh chàng độc thân ba mươi tuổi lên kế hoạch vui chơi trong chuyến đi và dành vài ngày đi nghỉ ở Brasília mới được xây dựng, sắp được khánh thành làm thủ đô của Brazil, nơi chính phủ đã cho xây dựng những công trình kiến trúc hiện đại đáng kinh ngạc. Trước khi Đức Quốc xã xâm chiếm quê hương Ba Lan, Klein từng muốn trở thành một kiến trúc sư.
Khi Klein đang thu dọn hành lý, Luba Volk, thư ký công ty El Al đã nghỉ hưu và chuyển đến Buenos Aires sống cùng chồng và đứa con trai ba tuổi vào năm 1958, cũng nhận được một bức điện từ trụ sở chính El Al: “Theo đây bà được đại diện El Al tại Buenos Aires bổ nhiệm với mục đích thực hiện mọi hoạt động cần thiết với các cơ quan chính phủ, hãng hàng không quốc gia và đại lý du lịch, liên quan đến chuyến bay Britannia chở phái đoàn chính thức của Israel tới dự lễ kỷ niệm 150 năm độc lập của Argentina. Chúng tôi đang cử hai đại diện, Yehuda Shimoni và Yosef Klein, đến hỗ trợ bạn trong mọi việc liên quan đến hoạt động vận hành của chuyến bay.”
Người phụ nữ ba mươi lăm tuổi không hề ngạc nhiên với phần đầu tiên của tin nhắn. Trong hai năm qua, các ông chủ cũ của bà đã cố gắng nhiều lần giành lại bà; họ đánh giá cao tính hiệu quả và sự duyên dáng của bà. Để giữ bà ít nhất một phần trong nhóm El Al, họ đã thuê bà làm việc tự do để điều tra việc mở một tuyến đường đến Buenos Aires nhằm phục vụ cộng đồng Do Thái lớn ở đó. Bà nghĩ thật kỳ lạ khi hai quan chức cấp cao của El Al lại được cử đến làm trợ lý cho bà trong việc điều hành một chuyến bay – bất kể địa vị ngoại giao của chuyến bay đó. Nhưng thông điệp đã rõ ràng. Bà được yêu cầu gặp họ tại sân bay vào ngày 2 tháng 5. Trung thành với hãng hàng không, bà không thắc mắc về yêu cầu.
17
“Đội ngũ ban đầu đã xác định được vị trí của Eichmann và báo cáo những cơ hội tốt cho chiến dịch,” Harel nói, đứng đối diện với David Ben-Gurion trong văn phòng thủ tướng ở Jerusalem. Đó là ngày 28 tháng 4, và người đứng đầu Mossad dự kiến khởi hành đi Buenos Aires vào ngày hôm sau.
“Anh có chắc chắn người đó là Adolf Eichmann không?” Harel trình bày chi tiết lý do, nhưng thực ra ông đến gặp Ben-Gurion để nhận lời từ biệt chúc phúc. Thủ tướng vẫn do dự về việc Harel tham gia lực lượng đặc nhiệm. Các quan chức cấp cao nhất trong cộng đồng tình báo Israel, đặc biệt là những người ở Aman (tình báo quân sự), đã đưa ra những lời phàn nàn nghiêm trọng rằng sứ mệnh đang làm cạn kiệt nguồn tài nguyên quý giá khỏi trách nhiệm chính của họ là bảo vệ Israel khỏi kẻ thù Ả Rập, một lập luận có cơ sở. Harel đã đưa những người đứng đầu Shin Bet và đội ngũ nhân viên hạn chế của Mossad ra khỏi nhiệm vụ thông thường của họ. Trong tháng vừa qua, sự chú ý của ông hầu như chỉ dành riêng cho nhiệm vụ và bây giờ ông chuẩn bị ra nước ngoài trong ba đến bốn tuần. Họ không biết họ có thể bỏ lỡ thông tin tình báo hoặc mối đe dọa nào vì chiến dịch của Eichmann cho đến khi quá muộn.
Hơn nữa, sẽ có những rủi ro khá lớn nếu Harel bị bắt. Việc bắt được bất kỳ điệp viên tình báo nào ở nước ngoài đã là một vấn đề; nhưng người đứng đầu cơ quan an ninh Israel bị bắt sẽ là một thảm họa.
Harel hiểu tất cả những điều này, nhưng ông muốn có mặt ở Buenos Aires để đảm bảo mọi việc diễn ra tốt đẹp. Ông cảm thấy rằng nhiệm vụ này quá quan trọng và quá phức tạp để có thể giao cho bất cứ ai trừ riêng mình gánh vác. Sự thành công hay thất bại của nó sẽ là trách nhiệm của ông. Một lần nữa, ông giải thích lý do tham gia đội với Ben-Gurion, và thủ tướng đồng ý, chỉ hỏi khi nào ông sẽ quay lại.
“Ba đến bốn tuần,” Harel ước tính.
Ben-Gurion đi vòng qua bàn và bắt tay Harel. “Dù sống hay chết, hãy mang Eichmann về đây cùng với anh,” ông ấy nói. Lông mày ông nhíu lại khi nghĩ đến điều này. “Tốt nhất là còn sống. Về mặt đạo đức, điều đó sẽ rất quan trọng đối với các thế hệ trẻ của Israel.”
Không còn gì nữa để nói, và Harel vội vàng rời văn phòng đến thăm con gái của mình, Mira, một sinh viên ở Đại học Do Thái. Sau đó ông trở lại Tel Aviv, hồi hộp về chuyến khởi hành sắp xảy ra nhưng cần phải che giấu cảm xúc của mình trong một bữa ăn tối vô tận, không đúng lúc với giám đốc vụ tình báo của một đồng minh với Israel. Khi vị khách của ông rời đi, Harel đã chuẩn bị qua đêm cho nhân thân mới của mình. Ông đóng túi hành lý của mình với các quần áo giá rẻ phù hợp với một người rảnh rỗi la cà hàng giờ quanh các quán cà phê khắp Buenos Aires. Harel dự định sử dụng những quán cà phê này làm trụ sở hoạt động di động của mình. Trước khi vội vã lên máy bay, ông nói lời tạm biệt với bà xã, Rivka. Đúng như ông đã chỉ thị cho tất cả các đặc vụ của mình cách nói với vợ họ, ông giải thích với Rivka rằng mình sẽ đi xa một tháng để thực hiện một “nhiệm vụ đặc biệt” và sẽ không có khả năng viết thư cho bà. Bà cảm thấy chồng mình căng thẳng bất thường, nhưng bà không hỏi chồng đang lo lắng điều gì. Một trong những nhược điểm trong công việc của ông là bức tường im lặng bao quanh phần lớn cuộc sống hàng ngày của mình. Con gái ông chỉ biết ông là “viên chức chính phủ”.
Có một khía cạnh của nhiệm vụ này mà Harel giấu kín ngay cả với các cộng sự của mình. Ông dự tính, sau khi họ đã có Eichmann trong tay, ông hy vọng sẽ tiến hành một cuộc đột kích để bắt giữ Josef Mengele, nhân vật có những hành động khủng khiếp khiến y chỉ đứng sau Eichmann trong danh sách mục tiêu của biệt đội săn lùng Đức Quốc xã. Theo thông tin tình báo, nỗ lực dẫn độ tên bác sĩ Auschwitz của công tố viên Freiburg đã thất bại, khiến y được tự do, nhưng Mengele được cho là đang sống ở Buenos Aires theo thông tin tình báo Mossad gần đây đã thu thập được. Mọi thông tin về nơi ở của Mengele đều được viết bằng mật mã trong một cuốn sổ mỏng mà Harel không quên nhét vào túi áo ngực trước khi rời khỏi nhà. Một nhiệm vụ đã trở thành hai.
_____
Vào Chủ nhật, ngày 1 tháng 5, với bản đồ Buenos Aires trải trên bảng điều khiển của chiếc Chevrolet cũ, Shalom và Gat đã dành cả ngày để lái xe quanh San Fernando. Cả hai đã hợp tác chặt chẽ với nhau ở châu Âu và rất ít điều cần phải nói khi họ giám sát các hoạt động khu vực.
Họ đã quét qua tất cả các đường cao tốc cũng như từng con phố, con đường đất dẫn vào và ra khỏi khu vực theo mọi hướng. Tìm ra con đường tốt nhất là điều cần thiết cho ngày họ còng tay và bịt miệng Eichmann ở ghế sau chiếc xe bắt giữ của họ. Con đường trực tiếp nhất từ Phố Garibaldi đến thành phố là hiển nhiên, nhưng điều quan trọng là họ phải tìm được con đường có mật độ giao thông thấp nhất, không có công trường xây dựng và ít có cơ hội bị cảnh sát kiểm tra đột xuất nhất – một điều thường xảy ra với các mối đe dọa khủng bố của bọn thân Perón và những ngày lễ kỷ niệm. Nhiều lối đi qua đường xe điện khắp thành phố cũng gây ra một vấn đề. Ở nhiều khu vực, người ta không thể lái xe quá vài dãy nhà mà không phải đợi xe điện đi qua và rào chắn được dỡ bỏ.
Họ cần vạch ra một tuyến đường mới từ Phố Garibaldi đến từng ngôi nhà an toàn mà họ sẽ thuê, cùng với một số tuyến đường phụ phòng trường hợp có sự cố.
Shalom biết phải tin vào bản năng của mình trong việc quyết định nơi nào có thể liều lĩnh một chút. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ không cần phải đánh giá kỹ lưỡng từng rủi ro trước. Làm ít hơn thì còn “tệ hơn phạm tội”, như Shalom thường nói.
Ưu tiên chính khác của họ là tìm một ngôi nhà an toàn thích hợp để giữ Eichmann trước chuyến bay rời Argentina. Việc tìm kiếm ngôi nhà thỏa tiêu chí của họ không có kết quả một cách đáng ngạc nhiên. Những nơi mà Medad đã xem không đáp ứng được yêu cầu của họ, thường là vì những ngôi nhà luôn đi kèm với dịch vụ của người trông coi. Danh sách trên báo và từ các đại lý bất động sản là để bán chứ không phải cho thuê. Họ cần sớm tìm được chỗ thuê để chuẩn bị nhốt tù nhân.
Một vấn đề khác là vấn đề ô tô, như Aharoni đã phát hiện lần đầu trong cuộc điều tra hồi tháng ba. Anh đã giải quyết được vấn đề này vì anh chỉ sử dụng một phương tiện mỗi lần. Vì những khó khăn kinh tế mà Argentina phải đối mặt nên có rất ít xe mới. Đường phố Buenos Aires rải rác những chiếc ô tô hai mươi ba mươi năm tuổi, hoặc bị bỏ rơi hoặc đang chờ được kéo đi. Việc thuê mướn rất tốn kém, khó tìm và hoàn toàn không thể tin cậy được. Hoặc là pin sắp hết, lốp xe đã mòn, bộ tản nhiệt sẵn sàng nổ tung, hoặc xe bị hỏng một cách khó hiểu chỉ sau vài dặm. Ngoài ra, hầu hết xe cho thuê đều bị đập nát, rỉ sét. Xét thấy đội cần nhiều ô tô để trinh sát và săn nhà, điều này thực sự rắc rối. Hơn nữa, mỗi lần Medad thuê một chiếc ô tô mà chủ xe yêu cầu phải xuất trình giấy tờ tùy thân và đặt một lượng lớn tiền mặt (đôi khi là 5.000 USD) để đặt cọc, anh có nguy cơ để lộ sự hiện diện của biệt đội.. Thử thách lớn nhất là họ cần một cặp xe sedan cỡ lớn đáng tin cậy, một loại phương tiện thậm chí còn hiếm hơn ở Argentina, cho hoạt động bắt giữ.
May mắn thay, việc tìm được các ngôi nhà an toàn và đủ số lượng ô tô hóa ra chỉ là vấn đề về tính kiên trì và tiền mặt, cả hai thứ mà họ đều có nguồn cung dồi dào. Mặc dù vậy, Shalom vẫn muốn cảnh báo Harel về sự chậm trễ và cùng ông ta xem xét những gì họ đã phát hiện ra trong quá trình giám sát Eichmann.
Họ đã mất liên lạc từ nhiều ngày nay. Khi Shalom và Gat đã hoàn tất việc trinh sát những con đường xung quanh San Fernando-bản đồ của họ được đánh dấu bằng những tuyến đường thuận lợi nhất vào khu vực – họ lái xe tới Sân bay Ezeiza, nơi thủ lĩnh Mossad sẽ đến vào tối hôm đó.
Trong khi Gat vẫn ngồi trong xe bên ngoài nhà ga một tầng, Shalom đứng giữa đám đông chờ hành khách làm thủ tục hải quan và kiểm tra hộ chiếu. Anh đảm bảo rằng Harel, người trông mệt mỏi sau chuyến hành trình dài, sẽ nhìn thấy anh, nhưng cả hai đều giả bộ không thừa nhận nhau.
Không ai trong nhóm được biết Harel đang ở đâu, vì vậy Shalom theo ông ta lên xe buýt. Harel xuống xe buýt ở trung tâm thành phố, chỉ cách Plaza de Mayo vài dãy nhà. Sau đó ông vào khách sạn Claridge trên phố Tucumán. Shalom bắt kịp ông trước khi ông bước vào phòng và sắp xếp một cuộc gặp sau đó.
Thủ lĩnh Mossad ngồi xuống cùng đội của mình ở Maoz đêm đó. Shalom trình bày chi tiết những gì họ đã học được từ việc giám sát trong bốn ngày qua. Harel chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu. Không cần giải thích. Ông đồng ý rằng thói quen nghiêm ngặt và khu dân cư biệt lập của Eichmann là lý tưởng cho hoạt động này.
Sau đó Medad giải thích những khó khăn của họ trong việc tìm nơi ở an toàn. Harel trả lời: “Chúng ta không thể quá kén chọn về vị trí hoặc nội thất…cũng như không thể chần chừ trước mức giá cao,” Harel trả lời, đồng thời nói điều tương tự về việc họ tìm kiếm những chiếc xe phù hợp.
Trước khi Harel trở về khách sạn, ông kể cho họ nghe về việc chuẩn bị cho chuyến bay El Al. Vì máy bay dự kiến rời Israel vào ngày 11 tháng 5 và rời Buenos Aires vào ngày 14 tháng 5, nên “chúng ta sẽ phải thực hiện việc bắt giữ chậm nhất là vào ngày 10 tháng 5,” ông kết luận.
Họ có chín ngày. Thông qua mối quan hệ của mình với các quan chức tại Swissair, Yosef Klein đã bay vé hạng nhất đến Rio de Janeiro và được nghỉ ngơi đầy đủ khi đến nơi vào ngày 2 tháng 5 cho chuyến bay nối chuyến tới Argentina. Chuyến đi sẽ là một chuyến đi chơi thư giãn thú vị, tập trung vào việc sắp xếp chuyến bay cho phái đoàn ngoại giao. Trong cabin, anh gặp Yehuda Shimoni; họ chào nhau và ngồi xuống cùng nhau. Khi máy bay chuẩn bị cất cánh, họ đã trao đổi ngắn gọn về cuộc sống của nhau. Klein nhận thấy Shimoni, người mà anh quen biết từ khi gia nhập El Al năm 1952, đang căng thẳng một cách bất thường và hỏi anh ta liệu có điều gì không ổn.
“Hãy nhìn xem, đây sẽ không phải là một điều gì đó đơn giản đâu,” Shimoni nói, nghiêng người về phía anh và nói thầm. May mắn thay, có rất ít hành khách khác ở khoang hạng nhất. “Chúng ta có một nhiệm vụ quan trọng. Có khả năng một trong những tên cộm cán Đức Quốc xã đã trốn thoát khỏi châu Âu đang ở Buenos Aires. Cơ quan Mật vụ Israel tin rằng họ đã xác định được vị trí của hắn và đang theo dõi hắn. Rất có khả năng hắn là mục tiêu. Nếu họ bắt được hắn, nhiệm vụ của chúng ta là đưa hắn ra khỏi Argentina mang về Israel. Vì mục đích này, sẽ có một chuyến bay đặc biệt, dưới những vỏ bọc nhất định.”
Yosef Klein khó có thể tin vào những gì mình vừa được nghe. Anh quá sốc để có thể thốt ra bất cứ điều gì khác ngoài “Chúng ta sẽ làm việc đó, nếu có thể.”
Shimoni sau đó giải thích rằng họ đang truy lùng Adolf Eichmann, và anh mô tả ngắn gọn những gì viên sĩ quan Đức Quốc xã đã làm trong chiến tranh. Klein vẫn im lặng, Shimoni trấn an anh rằng nhiệm vụ của anh không liên quan gì đến việc bắt Eichmann. Họ ở đó chỉ để hỗ trợ chuyến bay.
Hai người ngồi im lặng một lúc, ký ức thời quá khứ ùa về trong tâm trí Klein: Đức quốc xã đã xô đuổi gia đình anh vào khu ổ chuột ở Hungary chỉ một vài tuần sau khi bố mẹ anh quyết định không vượt qua biên giới Slovakia. Bước xuống toa tàu chở hàng ở Auschwitz, lính canh tách cha anh và anh khỏi mẹ và em trai và chị. Bố anh nói rằng Yosef mười bảy tuổi, không phải mười bốn, cố gắng giữ anh lại còn sống. Nhìn vào những ống khói cao chót vót qua sân đường sắt. Xê dịch giữa các trại lao động, sống sót chỉ vì nghĩ đến bố. Chia tay bố khi đi lao dịch xây dựng nhà máy sản xuất máy bay ngầm gần biên giới Áo. Bước sang tuổi mười lăm làm tù nhân; dành cả ngày để đổ bê tông, chặt cây và bốc than; đấu tranh để sống sót trong khi những người khác chết trên giường hoặc bị lính canh bắn. Suýt bị giết trong vụ đánh bom của quân Đồng minh vào nhà máy. Năm ngày năm đêm chịu đựng cảnh thân xác con người bị nhồi nhét trong toa xe lửa chở đến trại hành quyết.
Loạng choạng bước ra khỏi toa tàu thì thấy xe tăng Mỹ đuổi bọn lính canh Đức bỏ chạy.
Klein mơ hồ nghĩ rằng mình hẳn có thể đã nhìn thấy Eichmann ở khu ổ chuột Hungary trước khi gia đình anh bị trục xuất, nhưng anh không chắc chắn. Rốt cuộc, mười lăm năm đã trôi qua kể từ chiến tranh, thời gian để anh hàn gắn lại cuộc đời, đầu tiên là tìm cha, sau đó di cư đến Israel, làm nhà khí tượng học trong lực lượng không quân Israel, và sau đó gia nhập El Al. Trong ngần ấy năm, anh đã cố gắng xóa khỏi tâm trí những hình ảnh ám ảnh đó của quá khứ, nhưng anh chưa bao giờ làm được hoàn toàn.
Khi chuyến bay của Swissair tiếp tục hướng tới Buenos Aires, Klein nhận thấy những ký ức này đã được thay thế bằng nỗi nghi ngờ không biết mình liệu có thể hoàn thành nhiệm vụ hay không. Anh không có kinh nghiệm trong bất kỳ hoạt động nào như vậy, và ngay cả khi anh chỉ sắp xếp chuyến bay, anh cũng chưa từng đến Nam Mỹ chứ đừng nói đến Buenos Aires. Anh không nói được tiếng Tây Ban Nha. Anh không biết sân bay, thủ tục ở đó hay bất kỳ con người nào ở đó. Điều gì sẽ xảy ra nếu anh không thể hoàn thành mọi việc đúng thời hạn?
Khi máy bay bắt đầu hạ cánh xuống sân bay Ezeiza, Klein đã bắt đầu cảm thấy lo lắng cùng cảm xúc của mình về quá khứ. Nhưng ngay khi vừa bước xuống thang máy bay, đặt chân lên thềm nhựa, một bóng đèn flash lóe sáng ngay mặt họ khiến anh nhảy bật lên. Cả anh và Shimoni đều nghĩ rằng nhiệm vụ đã bị bại lộ và họ cũng vậy, nhưng họ nhanh chóng nhận ra rằng một phó nhòm chỉ đang cố gắng kiếm tiền từ khách du lịch mới đến. Sự khôi hài của tình huống này mang lại sự nhẹ nhõm đáng mong đợi.
Tại nhà ga đến, họ gặp Luba Volk, chồng bà và một nhân viên từ đại sứ quán Israel, người tự giới thiệu mình là Ephraim Ilani. Volk cảm nhận ngay rằng hai đồng nghiệp El Al của bà đang mất tập trung và lo lắng. Ngay sáng hôm đó, sự nghi ngờ của bà về việc họ đến Argentina đã được thổi bùng lên khi Ilani, người mà bà chỉ biết sơ sơ, đã gọi điện thoại, nói rằng anh muốn theo vợ chồng bà đến sân bay để gặp Shimoni và Klein. Bây giờ Ilani giải thích với Shimoni và Klein rằng anh đã đặt một khách sạn khác với khách sạn mà Volk đã đặt cho anh. Volk và chồng chở Shimoni movà Klein đến khách sạn thứ hai, một lần nữa nhận thấy họ có vẻ bồn chồn như thế nào. Trên đường về nhà, bà nói với chồng: “Có điều gì đó xảy ra với chuyến bay này hơn là chỉ chuyên chở phái đoàn.”
Tối hôm đó, Klein và Shimoni ngồi cùng Isser Harel tại một quán cà phê trong thành phố. Người đứng đầu Mossad nói với giọng rất thực tế. Shimoni sẽ khởi hành trong vài ngày tới, để lại Klein một mình. “Công việc tiếp theo của cậu,” Harel nói, “là sắp xếp mọi việc cho chuyến bay.”
Ông nói rất lâu về việc Klein sẽ chịu trách nhiệm như thế nào về mọi khâu từ khi máy bay đến cho đến lúc nó khởi hành. Klein cần thiết lập mối quan hệ với các bộ liên quan của Argentina, cũng như các công ty dịch vụ và các hãng hàng không khác có thể giúp đỡ El Al, vì nó không có cơ sở hạ tầng trong xứ. Hơn nữa, Harel muốn Klein khảo sát sân bay, cơ sở vật chất cũng như các thủ tục hải quan và hộ chiếu, đồng thời đề xuất cách tốt nhất để đưa tù nhân của họ lên máy bay.
“Chúng ta không đến đây chỉ để làm việc,” Harel nói, cảm thấy Klein cần một chút động viên. “Đây là lần đầu tiên người Do Thái xét xử kẻ sát nhân của họ.”
____
Vào ngày 3 tháng 5, Yakov Gat lại dành thêm một buổi sáng nữa trong quán cà phê để chờ đợi Peter Malkin và Rafi Eitan bước qua cửa. Thế nhưng một lần nữa anh lại thất vọng. Họ đã trễ. Moshe Tabor, người đã hạ cánh ngày hôm trước, đã gặp họ ở Paris, nhưng anh không biết lý do khiến họ đến trễ. Nếu họ bị bắt khi cố gắng vào Argentina bằng hộ chiếu giả thì Ilani, tại đại sứ quán, vẫn chưa nhận được tin.
Nhóm tiến hành công việc mà không có họ, tiếp tục theo dõi Eichmann, theo dõi dịch chuyển của y đến và đi từ nơi làm việc để xem liệu có nơi nào tốt hơn để tóm y khác bên ngoài nhà y hay không. Họ đã chuyên tâm kiếm cho được những ngôi nhà an toàn phù hợp, và sau bốn mươi tám giờ tìm kiếm cật lực, những nỗ lực của họ đã được đền đáp với hai tòa nhà. Cả hai tình cờ đều là sở hữu của các gia đình Do Thái, mặc dù họ không biết tại sao Medad muốn thuê bất động sản của mình.
Tòa nhà đầu tiên nằm ở khu phố yên tĩnh Florencio Varela, một thị trấn cách thủ đô Buenos Aires 18 dặm về phía Tây Nam. Ngôi nhà lớn hai tầng, có mật danh là Tira (cung điện), có một số lợi thế: dễ dàng tiếp cận cả khu vực đánh chiếm và sân bay, một vòng tường cao 8 bộ bao quanh khu nhà, lối vào có cổng, không có người trông coi, khu vườn và hiên phía sau bị che khuất bởi cây cối và bụi cỏ rậm rạp. Tuy nhiên, nó không có nghĩa là hoàn hảo. Khu nhà nằm trên một khu đất dài và hẹp, có hàng xóm ở hai bên. Ngôi nhà không có tầng áp mái hoặc tầng hầm để che giấu tù nhân, và cách bố trí tiện dụng của các phòng, tất cả đều được xây bằng tường dày, khiến việc xây dựng một căn phòng bí mật để bảo vệ khỏi trường hợp cảnh sát đột kích nơi này trở nên phức tạp. Tuy nhiên, nó sẽ đóng vai trò dự phòng tốt cho ngôi nhà an toàn khác mà họ xét thấy là hoàn hảo về mọi mặt trừ một.
Có mật danh là Doron (quà tặng), phát hiện thứ hai của họ giống một biệt thự hơn là một ngôi nhà. Kiến trúc sư đã thiết kế một công trình rộng lớn với nhiều cánh ở nhiều tầng và một mê cung các căn phòng không thể đoán trước được về vị trí, kích thước, cấu trúc và lối vào. Với một chút nỗ lực, họ có thể xây dựng một căn phòng bí mật mà cảnh sát có thể phải mất hàng giờ, thậm chí là hàng ngày mới tìm ra được. Biệt thự cách Phố Garibaldi vài giờ và có một số tuyến đường vào khu vực. Khuôn viên rộng rãi được cắt tỉa cẩn thận, có tường đá cao bao quanh cũng hạn chế sự theo dõi của hàng xóm tò mò. Hạn chế duy nhất là có người làm vườn, nhưng họ cảm thấy rằng mình có thể tránh xa anh ta.
Nhóm bây giờ tập trung hoàn toàn vào việc lập kế hoạch bắt giữ.
Sau ngày làm việc đầu tiên ở Buenos Aires, Shimoni và Klein gặp Harel tại một quán cà phê, khuôn mặt họ lộ rõ sự kích động tột độ. Shimoni giải thích rằng văn phòng lễ tân Argentina chưa sẵn sàng đón phái đoàn Israel cho đến ngày 19/5, muộn hơn một tuần so với họ đã mong đợi trước đó. Không có cách nào để đàm phán với họ mà không thu hút quá nhiều sự chú ý đến chuyến bay.
Sau khi các sĩ quan El Al rời đi, Harel thảo luận về hậu quả với Shalom. Hoặc đội sẽ phải hoãn ngày bắt giữ hoặc phải giam giữ trong mười ngày với nhiều nguy cơ bị phát giác hơn cho đến khi máy bay có thể cất cánh vào ngày 20 tháng 5. Cả hai đều không phải là một lựa chọn tốt.
Việc trì hoãn làm tăng khả năng Eichmann sẽ thay đổi – thói quen của y hoặc tệ hơn nhiều là y sẽ phát hiện ra rằng mình đang bị theo dõi và bỏ chạy. Việc kéo dài thời gian giam giữ y trong ngôi nhà an toàn sẽ mang lại cho những người tìm kiếm y – dù là gia đình y, cảnh sát hay cả hai – có thêm thời gian để tìm thấy y, và cả đội sẽ phải chịu đựng sự chờ đợi ẩn mình ngày này qua ngày khác rất căng thẳng.
Shalom cảm thấy rằng họ nên hoãn hoạt động ít nhất vài ngày. Harel lo sợ rằng ngay cả sự chậm trễ nhỏ này cũng sẽ tạo cơ hội cho Eichmann trốn tránh sự truy bắt của họ. Cần thời gian để suy nghĩ – và hy vọng sẽ thảo luận thêm về tình hình với Rafi Eitan nếu và khi ông ấy đến – Harel đã trì hoãn việc đưa ra quyết định. Có một điều chắc chắn: tin tức này đã làm tăng thêm rủi ro cho tất cả những người liên quan.
Vào tối ngày 4 tháng 5, Eitan và Peter Malkin cuối cùng cũng đến được Buenos Aires. Chỉ có bác sĩ và chuyên viên làm giấy tờ giả vẫn chưa đến để hoàn thiện đội ngũ. Eitan và Malkin đã bị giữ lại Paris vì vấn đề giấy tờ, sau đó Eitan phải nằm liệt giường vì ngộ độc thực phẩm, và họ gặp khó khăn trong việc đặt lại chuyến bay. Shalom đã đón họ tại nơi gặp mặt trên chiếc Ford Clunker đời 1952. Khi cuộc hành quân chỉ còn sáu ngày nữa, họ muốn đi thẳng đến San Fernando.
Khi họ lái xe về phía bắc, một cơn mưa nhẹ rơi xuống và trời lạnh buốt, gió nổi lên. Đến thời điểm này, đã biết rõ các con đường ở Buenos Aires, Shalom đưa họ đến San Fernando bằng con đường ngắn nhất. Trên đường đi, anh ấy cập nhật những người mới đến trong hoạt động. Khi họ đến gần khu vực lân cận, cơn mưa phùn đã chuyển thành mưa như trút nước, nhưng Malkin vẫn nhận ra một số địa danh và con phố mà anh đã nghiên cứu trong báo cáo của Aharoni. Bỗng nhiên, Shalom đột ngột dừng lại. Họ đang ở trên con đường song song với Garibaldi. Hai người lính trẻ xuất hiện ở hai bên xe. Một người cầm một chiếc đèn pin màu đỏ; cả hai đều trang bị vũ khí và mang theo dùi cui. Shalom vẫn bình tĩnh; anh đã vượt qua đủ các rào cản và kiểm tra đột xuất để biết rằng đây là chuyện thường ngày. Bằng thứ tiếng Tây Ban Nha bồi của mình, anh giải thích với một người lính rằng họ là khách du lịch, đang tìm kiếm khách sạn. Người lính không trả lời, đầu tiên tập trung ánh sáng vào Shalom, sau đó là biển số xe. Mưa chảy ra từ vành mũ khi hắn cân nhắc xem liệu họ có phải là mối đe dọa hay không. Sau một thời gian, hắn vẫy tay chào họ trước sự nhẹ nhõm của ba người Israel. Cách đó vài dãy nhà, Shalom tấp xe vào lề đường. “Tốt nhất chúng ta nên để xe ở đây… Tôi ghét việc để những người lính đó nhìn thấy mình một lần nữa.”
Vừa ra khỏi xe, họ đã ướt sũng từ đầu đến chân. Malkin đi bộ qua một cánh đồng đầy bùn, nguyền rủa tại sao mình đã mặc vest và đi giày công sở. Nhưng khi đến trạm canh gác trên bờ kè đường sắt, anh quên mất mọi thứ, ngoại trừ ngôi nhà nơi ống nhòm của anh đang hướng tới. Trạm được đặt ở vị trí hoàn hảo và Malkin có thể nhìn rõ vợ của Eichmann qua cửa sổ phía trước.
Sau đó anh kiểm tra đồng hồ. Theo Shalom, Eichmann sẽ đến trong vòng vài phút tới. Kể từ ngày đầu tiên Malkin đọc hồ sơ về Đức Quốc xã, sự hiện diện của y ngày càng lớn hơn và ác độc hơn. Chỉ riêng tại Vienna, trong nhiệm vụ đầu tiên buộc người Do Thái ra khỏi châu Âu, Eichmann đã bộc lộ bản chất thật của mình. Y thích thú khi sải bước qua Palais Rothschild, nơi những người Do Thái đang đứng dọc hành lang lùi lại xa y trong sợ hãi. Y cũng thích công khai làm nhục các nhà lãnh đạo Do Thái của thành phố bằng cách đánh thẳng vào mặt họ hoặc gọi họ là “bọn hôi hám” trong các cuộc họp. Sau cuộc tàn sát do lính SS mặc trang phục dân sự cầm đầu, trong đó 42 giáo đường Do Thái ở Vienna bị đốt cháy và hơn 2.000 gia đình phải rời bỏ nhà cửa, Eichmann đã không hề ân hận, đến trụ sở của cộng đồng Do Thái để thông báo rằng “tỷ lệ người Do Thái biến mất khỏi Vienna chưa thỏa đáng.” Vào năm 1938, tên đàn ông ba mươi hai tuổi này đã thích thú khi được gọi là “chó săn máu”.
Đọc về các hoạt động của Eichmann chỉ mới bắt đầu quá trình coi y là quỷ dữ đối với Malkin. Nỗi sợ hãi mình sẽ gặp thất bại trong việc tóm lấy Eichmann cũng đóng một vai trò nào đó. Nhưng yếu tố lớn nhất là việc phải đối mặt với sự mất mát của chính gia đình mình trong Holocaust. Trước khi Malkin rời Israel, anh đến thăm mẹ và lần đầu tiên hỏi bà chuyện gì đã xảy ra với chị gái Fruma của anh. Anh được biết rằng cô đã cố gắng rời khỏi Ba Lan cùng gia đình nhưng chồng cô không tin rằng họ cần phải rời đi. Malkin dành gần như cả đêm hôm đó để nhìn chằm chằm vào bức ảnh của chị gái và đọc những bức thư cô gửi cho mẹ trước khi bị bắn tại một trại tập trung bên ngoài Lublin. Trong mỗi thư, Fruma đều hỏi anh có ổn không, trong khi cô và gia đình không còn nhiều thời gian vì cỗ máy giết người mà Eichmann đã giúp chế tạo đang đến với họ.
Giờ đây, đôi tay tê dại vì lạnh và mưa, Malkin giơ ống nhòm lên trước mặt và hàng nghìn suy nghĩ về Eichmann, chị gái anh, và chiến dịch chạy qua não mình. Anh nhìn thấy một chiếc xe buýt đang tiến đến Đường 202. Nó dừng lại ở ki-ốt và một người đàn ông mặc áo khoác dài và đội mũ bước xuống đường. Trong bóng tối, Malkin không thể nhìn thấy khuôn mặt, nhưng có điều gì đó ở bước đi nghiêng người có chủ ý của gã đàn ông này phù hợp với cái nhìn của anh về Eichmann.
“Chính là tên ấy,” Shalom thì thầm.
Malkin nhìn xuống từ bờ kè. Hình ảnh bóng người đơn độc bước qua cơn mưa xối xả cứ đốt cháy tâm trí anh: đây chính là gã đàn ông anh đến để bắt. Malkin đã tính toán sẵn kiểu hạ gục mà anh sẽ sử dụng và nơi anh sẽ di chuyển trên đoạn đường này.
Điều mà cả Malkin và Eitan đều không biết là Zvi Aharoni đã đi cùng với Eichmann đêm đó. Trong nỗ lực theo dõi nơi mục tiêu của họ lên xe buýt 203, Aharoni đã đến nhà ga ở Carupa, cách San Fernando tám trạm dừng, mặc quần yếm giống như nhiều công nhân trong khu vực. Khi bước lên chiếc xe buýt cũ màu xanh và vàng, anh nhìn thấy Eichmann ngồi thành hàng ở giữa lối đi, giữa đám đông công nhân nhà máy và thư ký.
Aharoni cố gắng nhìn đi chỗ khác để không bị bắt gặp đang nhìn chằm chằm và đưa cho tài xế 4 peso tiền vé. Nếu người lái xe hỏi anh một câu bằng tiếng Tây Ban Nha, anh chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý về phía mình.
May mắn thay, y đã không làm thế. Khi Aharoni bước xuống lối đi, anh nhận thấy chiếc ghế trống duy nhất nằm ngay phía sau Eichmann, người không hề biết đến Aharoni khi anh đi ngang qua. Anh ngồi vào ghế, gần như không để ý đến những lò xo thép nhô ra trên những lớp da bọc ghế đã sờn.
Aharoni ở đủ gần để có thể đưa tay ra và vòng tay xiết cổ tên Đức Quốc xã. Khi chiếc xe buýt bắt đầu rung chuyển, anh cảm thấy một cảm xúc dâng trào khiến cơ thể anh yếu đi. Đau khổ tột cùng, anh nóng lòng muốn xuống xe ở Trạm Fernando. Nếu trong đầu anh có bất kỳ hoài nghi nào cho rằng họ chỉ theo đuổi một gã đàn ông xấu xa, thì cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này đã xua tan quan niệm đó. Họ đang tiếp cận chính cái ác.
18
NGÀY SAU KHI ĐẾN, Rafi Eitan chỉ dẫn mọi người gặp nhau ở Maoz. Kể từ khi nhận được tin chiến dịch đang diễn ra, ông đã trở nên quyết tâm một cách lạnh lùng. Ông biết những gì cần phải làm, và không đời nào ông cho phép Eichmann thoát khỏi tay họ ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc phải dùng biện pháp cực đoan là bóp cổ y, như Moshe Tabor đã đề xuất trước đó. Bây giờ Eitan đã thấy nơi Eichmann cư ngụ, họ có thể tiến lên với kế hoạch chính xác làm thế nào để tóm được ý.
Trong phòng khách của căn hộ ở Buenos Aires, các đặc vụ rà soát lại những gì họ biết. Qua sự giám sát của họ, rõ ràng là họ nên bắt giữ Eichmann khi y đang đi bộ về nhà. Việc bắt cóc y trong phòng trú ẩn của một ngôi nhà có quá nhiều biến số, bao gồm cả những hành động có thể xảy ra của vợ và các con trai anh ta cũng như khả năng y có vũ khí. Họ cũng khó có thể tìm được một vị trí tốt hơn một đoạn đường vắng vẻ vào ban đêm.
Tuy vậy vẫn có rất nhiều câu hỏi: Họ sẽ bắt y ở đâu giữa trạm xe buýt và nhà y? Họ sẽ định vị ô tô của mình như thế nào? Liệu Malkin sẽ nằm phục trong con mương bên đường và phục kích y, hay họ nên lao chiếc ô tô vào sát y và túm lấy y lôi vào xe? Ai sẽ lái xe? Họ sẽ làm gì nếu Eichmann bỏ chạy? Họ đã thảo luận về vô số biến thể có thể xảy ra, tất cả đều đã dành hàng giờ đồng hồ suy nghĩ một mình và thảo luận cùng nhau về cùng một chủ đề. Họ đồng ý rằng họ nên đưa y ngay khi y rẽ vào Phố Garibaldi, tránh xa mọi phương tiện giao thông đi qua. Nhưng câu hỏi về việc đặt những chiếc ô tô ở đâu là một trở ngại. Eitan muốn thực hiện một số hoạt động giám sát ban ngày với Malkin trước khi họ đúc kết kế hoạch.
Về thời gian của chiến dịch, họ đều đã nghe nói rằng chuyến bay El Al sẽ phải đến vào ngày 19 tháng 5 và có lẽ họ nên hoãn việc bắt giữ. Eitan đã nói rõ với mọi người có mặt rằng Harel đã quyết định sẽ không trì hoãn. Người đứng đầu lý luận rằng thà mạo hiểm giữ Eichmann lâu hơn dự định ban đầu còn hơn là để y lọt khỏi bàn tay của họ. Hơn nữa, nếu họ đã lên lịch bắt giữ quá gần thời điểm chuyến bay khởi hành, có thể có sự chậm trễ không lường trước được (Eichmann có thể đi ra khỏi thành phố hoặc bị ốm), và họ sẽ không thể hoãn máy bay mà không rung chuông báo động. Ngày 10 tháng 5 vẫn là ngày bắt giữ và nó không được phép tranh luận, bất chấp sự nghi ngờ của bất cứ ai.
Nhóm đã hoàn thành trách nhiệm cá nhân của mình trong những ngày tới. Sự căng thẳng bắt đầu đè nặng lên đội tiên phong, những người đã dành gần hai tuần làm việc suốt ngày đêm – suốt thời gian đó dưới sự căng thẳng của việc bị phát hiện. Vẫn còn nhiều việc phải làm và Eitan đã thêm một nhiệm vụ nữa vào danh sách. Họ phải tập túm và đưa Eichmann lên xe. Mỗi giây đều sẽ có giá trị.
____
Tại sân bay Ezeiza, Yosef Klein đang tiến triển nhanh chóng trong việc sắp xếp chuyến bay trốn thoát khỏi El Al. Trong vài ngày qua, anh đã gặp các quan chức của hãng hàng không quốc gia Aerolineas Argentinas và TransAer, một hãng hàng không tư nhân địa phương chuyên sử dụng máy bay Britannia. Cả hai đều cung cấp dịch vụ của mình và trình bày những thủ tục sân bay tiêu chuẩn
. Trong các chuyến tham quan nhà ga, sân bay và nhà chứa máy bay, Klein đã chú ý kết bạn với tất cả mọi người từ người xử lý hành lý, nhân viên hải quan và cảnh sát cho đến đội dịch vụ, nhân viên bảo trì và nhân viên của cả hai hãng hàng không. Anh cho biết chuyến bay ngoại giao này có thể là chuyến bay thử nghiệm cho tuyến El Al thường xuyên đến Argentina. Khi điều đó xảy ra, El Al sẽ cần thuê nhân viên địa phương.
Do hầu hết các công nhân sân bay được trả lương rất ít nên tiềm năng kiếm được mức lương cao hơn với El Al khiến mọi người trở nên tử tế hơn. Bây giờ đã quen biết với sân bay Ezeiza, Klein chắc chắn rằng không thể đưa Eichmann lên máy bay qua nhà ga đến, ngay cả khi y được giấu trong cốp xe hoặc một số thiết bị kỳ lạ khác. Có quá nhiều nhân viên hải quan và nhân viên nhập cư, và với tình trạng an ninh được tăng cường trước các cuộc tấn công khủng bố cũng như các lễ kỷ niệm, rất ít người không chú ý đến họ. Anh cần tìm một nơi đỗ khác cho chiếc máy bay El Al để Mossad có thể đưa Eichmann lên máy bay.
Khi Klein đến thăm cơ sở của TransAer vào chiều hôm đó, anh đã tìm thấy địa điểm lý tưởng. Nhà chứa máy bay của hãng hàng không nằm ở rìa sân bay, nơi có ít lính canh hơn. Vì hãng hàng không này sử dụng loại Britannia nên Klein có thể dễ dàng giải thích rằng El Al muốn đậu máy bay của họ ở đó phòng khi phải cần bất kỳ phụ tùng thay thế hoặc bảo trì đặc biệt nào. Khi anh hỏi hãng hàng không tư nhân liệu điều này có khả thi hay không, họ đã đồng ý.
Trong khi đó, Luba Volk, người vẫn chưa được thông báo về mục đích thực sự của chuyến bay, đang ở đại sứ quán Israel cùng với Yehuda Shimoni, hoàn thành các bức thư khác nhau gửi Bộ Hàng không Argentina chính thức yêu cầu cho phép El Al đi vào không phận Argentina và hạ cánh tại sân bay Ezeiza8. Bà ấy không có văn phòng và cần sự giúp đỡ của nhân viên thư ký của đại sứ quán vì bà ấy không hoàn toàn thông thạo tiếng Tây Ban Nha. Ngay khi bà ấy chuẩn bị ký vào các bức thư, bà ấy lo lắng và đặt bút xuống. Bà có linh cảm nếu ký tên mình thì sau này sẽ gặp rắc rối.
“Có lẽ sẽ là một ý kiến hay nếu cậu ký vào bức thư thay tôi,” cô nói và quay sang Shimoni. “Rốt cuộc thì đó là chuyến bay một lần.”
“Không, không. Điều đó không hợp lý. Bạn là đại diện chính thức của El Al ở Argentina,” Shimoni giải thích. “Nếu tôi ký, họ có thể từ chối.”
Volk bớt lo và viết tên mình.
_____
Vào tối ngày 5 tháng 5, đằng sau cánh cửa đóng kín ở Maoz, Shalom Dani đang làm giả hộ chiếu. Tay trái anh cầm một chiếc kính lúp. Với bàn tay phải vững chắc của mình, anh đã tạo ra chữ E giống như được in bằng máy đánh chữ bằng một cây bút đen có đầu nhọn. Trên chiếc bàn trước mặt anh và rải rác khắp căn phòng nhỏ là vật dụng thủ công của anh: vô số bút màu và bút chì, mực, thuốc nhuộm, cọ nhỏ, dao X-Acto, cục sáp, đĩa hâm nóng, con dấu, máy ảnh, phim, chai đựng giấy tráng ảnh và một lượng giấy đủ màu và đủ kích cỡ và chủng loại của một cửa hàng nhỏ.
Chuyên viên làm giả mạo đã đến chỉ vài giờ trước đó, mang theo vài chiếc vali và hộp có dán nhãn DỄ VỠ đựng những vật dụng này. Anh đã chôn giấu những món đồ đáng ngờ hơn, chẳng hạn như con dấu và nguyên liệu làm giấy, trong số những món đồ điển hình tương ứng với nghề nghiệp trên hộ chiếu của anh: họa sĩ. Ngoại hình của Dani – gầy gò, xanh xao, má hóp, đeo kính và u sầu – phù hợp với mô tả. Anh đã đến thẳng ngôi nhà an toàn, nơi mà anh ngờ rằng mình có thể sẽ không ra khỏi cửa, cho dù để đi dạo, cho đến khi chiến dịch kết thúc. Anh cần tạo ra hàng tá hộ chiếu, bằng lái xe, thẻ bảo hiểm, giấy tờ tùy thân và các giấy tờ khác nhau cho biệt đội.
Không ai trong nhóm biết rằng sức khoẻ Dani đang dần yếu đi vì các vấn đề tim mạch, dù chỉ ở tuổi ba mươi hai, anh ấy không định nói cho họ biết. Anh muốn tham gia vào công việc này. Gia đình của Dani đã bị đuổi ra khỏi ngôi làng Hungary của họ để đến một khu ổ chuột khi Đức Quốc xã chiếm đóng đất nước. Cha anh đã bị giết ở Bergen-Belsen, còn Shalom, hai anh em của anh, và mẹ của họ đã bị thuyên chuyển giữa nhiều trại khác nhau cho đến khi anh làm giả ra được những tấm thẻ giải thoát cho họ. Họ đã trốn ở một thị trấn của Áo cho đến khi chiến tranh kết thúc. Shalom sau đó đã biến tài năng nghệ thuật bẩm sinh của mình sang lĩnh vực làm giả giấy tờ nhập cư cho người Do Thái đến định cư ở Palestine. Sau Chiến tranh giành độc lập của Israel, anh đã theo học tại École Nationale Supérieure des Beaux-Arts (Cao đẳng Mỹ thuật Quốc gia) ở Paris và sau đó gia nhập Mossad. Vào giữa những năm 1950, công việc của anh – làm giả hộ chiếu cũ của Pháp và Maroc trong 18 giờ một ngày, bảy ngày một tuần – đã cho phép hàng nghìn người Do Thái Maroc trốn sang Israel.
Dani vẫn đang sống ở Paris, làm việc cho Mossad và nghiên cứu nghệ thuật kính màu khi Harel mời anh đến Argentina. Biệt đội đã dựa vào hộ chiếu và giấy tờ tùy thân làm giả của anh ấy để vào Argentina mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Dani không phải là người dễ dàng chấp nhận lời khen ngợi, và chắc chắn anh sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng các đồng nghiệp đánh giá cao mình hơn bất kỳ ai khác trong nhóm.
Anh và Moshe Tabor làm việc một mình ở Maoz trong khi những thành viên khác đi chơi ở Buenos Aires. Tabor đang làm một bộ biển số xe cho những chiếc xe đi bắt giữ mục tiêu và thiết lập một hệ thống để thay đổi biển số trong vài giây. Anh cũng đang nghiên cứu một thiết bị kỳ lạ có thể biến ghế sau của ô tô thành một loại cửa sập, cho phép họ giấu Eichmann trong khoảng không gian hẹp giữa cốp xe và ghế ngồi.
Thỉnh thoảng, Tabor đến ngấm nhìn Dani, bị mê hoặc bởi kỹ năng của anh ấy. Anh đã chứng kiến Dani trổ tài trước đây, bắt chước hoàn hảo các tài liệu và những con dấu phức tạp, bất kể chữ viết, ngôn ngữ hoặc bảng chữ cái nào. Anh ấy có thể làm việc dưới bất kỳ điều kiện nào, ngay cả khi đang ngồi trong xe đang di chuyển dưới áp lực căng thẳng.
Có lần Medad lấy chìa khóa của ngôi nhà an toàn Doron và Tira, Dani bị bỏ lại một mình ở căn hộ, vì vậy Tabor cố gắng ở lại với anh cho có bạn lâu như có thể. Tabor cũng xây dựng một chỗ nấp trong lò sưởi cho Dani trong trường hợp không mong muốn có khách đến nhà và anh ta cần phải phá hủy giấy tờ.
Đến tận khuya hôm đó, Malkin trở về sau lần giám sát thứ hai ở phố Garibaldi và nhìn thấy Dani đang thu lu trên bàn trong căn phòng thiếu ánh sáng. Malkin thấy anh ta trông giống một nhân vật trong tiểu thuyết của Dickens. “Cậu đến đây khi nào?”
“Vài giờ trước. Cậu đã nhìn thấy y à?” Dani hỏi, thậm chí không muốn nhắc đến cái tên Eichmann.
“Y đang chơi với cậu con trai nhỏ trong nhà,”
Malkin nói, nhớ lại Eichmann trông bình thường như thế nào vào đêm hôm đó khi tung hứng đứa con trai mình lên không trung. “Lúc đó trông y không khác như bất kỳ ai trong chúng ta với bố mình.”
Malkin hối tiếc ngay khi vừa thốt ra những lời này, nhớ lại quá khứ của chuyên gia làm giả. Dani thay đổi chủ đề.
“Cậu có mang theo dụng cụ vẽ tranh không?”
“Chỉ một vài món thôi,” Malkin nói. “Việc đó có vẻ không quan trọng.”
“Tôi biết,” Dani nói, người đã bỏ đi cơ hội trở thành một họa sĩ để làm việc cho Israel. “Tôi biết.”
____
Khi ngày chiến dịch đến gần, biệt đội đã tăng cường nỗ lực trên mọi mặt trận.
Shalom đã tìm kiếm các tuyến đường từ Phố Garibaldi đến những ngôi nhà an toàn. Sự hiện diện của cảnh sát thành phố ngày càng tăng khi lễ kỷ niệm đang đến gần và các quan chức cao cấp từ khắp nơi trên thế giới đã đến. Shalom vạch ra ba tuyến đường riêng biệt đến từng ngôi nhà an toàn, mỗi tuyến đường đều có các tuyến đường dự phòng trên đường đi trong trường hợp có đường bị tắc nghẽn hoặc bị theo dõi. Anh dự định lái xe dọc theo từng tuyến đường một ngày trước khi thực hiện chiến dịch để đảm bảo không có bất kỳ thay đổi nào vào phút cuối trên đường đi.
Anh cũng hỗ trợ Medad và Ilani tìm kiếm những chiếc xe bắt giữ phù hợp có thể dùng làm xe limousine ngoại giao. Cuối cùng, họ đã tìm thấy hai chiếc xe phù hợp với yêu cầu của mình. Đầu tiên là chiếc xe limousine Buick màu đen, mới được xuất xưởng 4 năm tuổi theo tiêu chuẩn của Argentina. Chiếc thứ hai là một chiếc Chevrolet sedan cỡ lớn sản xuất vào khoảng năm 1953 cần sửa chữa, nhưng Tabor có thể đại tu động cơ dễ dàng như lên dây cót một chiếc đồng hồ. Khoản tiền đặt cọc 5.000 đô la đã bảo đảm cho cả hai chiếc xe – mặc dù chủ sở hữu của chiếc Chevrolet nhìn Medad một cách dè chừng khi anh ta đặt cọc bằng những tờ 20 đô la. Ngoài ô tô, Medad còn thuê thêm một số căn hộ làm nơi ở an toàn. Đội ngũ bây giờ đã có nhiều hơn mười nơi ở để sử dụng trong trường hợp họ lỡ chuyến bay El Al và cần ở lại Buenos Aires trong thời gian dài.
Việc giám sát Eichmann tiếp tục không suy giảm, hầu hết do Malkin và Eitan thực hiện; khi họ bận thì Aharoni thay thế. Mỗi chuyến đi đến San Fernando đều có rủi ro. Có một lần, hai công nhân đường sắt đang kiểm tra đường ray tiến về phía họ và họ phải vội vã rời đi trước khi có bất kỳ câu hỏi nào được đặt ra. Một lần khác, Eitan rẽ trái phép vào giao lộ và bị cảnh sát chặn lại. Chiếc xe jeep họ đang lái có bộ phận lùi bị hỏng và họ phải hì hục đẩy xe ra khỏi ngã ba. Điều này có lẽ có lợi cho họ, vì viên cảnh sát khá thông cảm với họ và để cho họ lái xe đi mà không cần kiểm tra giấy tờ hoặc thổi phạt
Cho dù rủi ro, việc giám sát là cần thiết. Điều quan trọng là Eichmann phải duy trì thói quen của mình. Ngày qua ngày, tên cựu Đức Quốc xã xuất hiện vào cùng một thời điểm. Malkin muốn biết từng chuyển động của y từ trạm xe buýt về nhà, thậm chí còn tính toán được số bước chân mà Eichmann đã thực hiện. Anh cũng đang tìm hiểu khu vực xung quanh: khi giao thông trên Đường 202 đông đúc nhất; tần suất các chuyến tàu đi qua; những người sống và làm việc trong khu vực cũng như khi họ đi dạo trên đường phố. Tất cả các điều này có thể tỏ ra quan trọng khi hoạt động diễn ra.
Cũng cần nhiều giờ để chuẩn bị cho việc đưa tù nhân đến Doron. Họ dự trữ thêm giường và thức ăn cho nơi này cũng như tất cả các thiết bị họ mang từ Israel sang. Họ gia cố các thanh chắn trên cửa sổ và thay ổ khóa khắp nhà.
Tabor đã khảo sát ngôi nhà và tìm thấy một chỗ trên gác mái để giấu người bị giam giữ trong trường hợp bị khám xét. Anh di chuyển chút it một số dầm đỡ và hiện đang xây một bức tường đi chuyến trên bản lề. Khi hoàn thành, nó sẽ giống như một phần của ngôi nhà. Trở ngại duy nhất và ngày càng đáng lo ngại đối với công việc của họ là người làm vườn. Ông là người giản dị, hiền lành nhưng hay để ý mọi sinh hoạt trong nhà. Chỉ có điều phải nhờ ông ta đi chạy vặt rất nhiều việc bên ngoài. Bất cứ khi nào tất cả các thành viên trong nhóm cùng tụ họp nhau ở Doron, họ đều luyện tập sử dụng cơ chế đổi biển số của Tabor. Họ sẽ phải thực hiện việc đó trong bóng tối một cách nhanh chóng, vì họ dự kiến sẽ đổi biển số ngay sau khi bắt giữ và có thể là lần thứ hai trước khi đến được ngôi nhà an toàn. Thực hành thủ tục đó chẳng là gì so với việc lặp đi lặp lại, đôi khi đau đớn, các cuộc diễn tập về vụ tóm bắt. Những thứ này diễn ra trong gara ở Doron. Khi đồng hồ bấm giờ được bấm, một trong những đặc vụ sẽ vào vai Eichmann đang đi bộ trên phố. Malkin hoặc Tabor sẽ tóm lấy anh ta, và hai người khác sẽ giúp khiêng y vào xe. Eitan muốn hành động này chỉ mất dưới 12 giây, không cho Eichmann cơ hội la hét cầu cứu. Nhóm luyện tập từ mười đến hai mươi lần một đêm, muốn các động tác trở nên thuần thục như máy.
Trong suốt thời gian đó, họ tự hỏi Eichmann sẽ làm gì khi đối đầu với y. Liệu y có chống cự không? Khả năng chống cự của y đến đâu? Mặc dù thể chất yếu hơn Malkin hay Tabor nhưng y đã từng là thành viên trong SD của Reinhard Heydrich. Đây là những tên nổi tiếng là cứng rắn và lì lợm, được đào tạo để giết chóc và sử dụng mọi phương tiện để thực hiện ý muốn của mình. Các đặc vụ đã đưa ra nhiều kịch bản khác nhau trong trường hợp y chống trả quyết liệt, và rất ít người kết thúc buổi tập mà không nhận một hoặc hai vết bầm tím.
Vào cuối đêm, một người trong nhóm luôn đến Harel để cập nhật thông tin, còn những người khác quay trở lại thành phố, đôi khi cùng nhau ăn tối muộn trước khi trở về khách sạn, thường ngấu nghiến hơn là chậm rãi thưởng thức, vì bữa sáng và bữa trưa thường ngắn và có khi vừa ăn vừa chạy việc. Họ cùng nhau đi dạo trong thành phố hoặc uống nhanh chút gì đó chỉ để thư giãn. Eichmann và ngày quan trọng sắp tới hiếm khi ra khỏi suy nghĩ của họ.
_____
Vào một ngày chủ nhật se lạnh, ngày 8 tháng 5, “Bác sĩ Maurice Kaplan”, bác sĩ gây mê tại một bệnh viện hàng đầu ở Tel Aviv, bắt taxi vào Buenos Aires. Ở độ tuổi ngoài bốn mươi, có chiều cao trung bình và mặc bộ đồ sang trọng, đắt tiền, anh trông có vẻ thoải mái nhất, mặc dù đang đi du lịch với giấy tờ giả trong một nhiệm vụ có thể đưa anh vào nhà tù Argentina nếu mọi việc trở nên tồi tệ. Đây không phải là lần đầu tiên cơ quan mật vụ Israel tới gặp Kaplan, nhưng bởi vì anh là một người sống sót sau thảm họa diệt chủng Holocaust nên nhiệm vụ này rất đặc biệt đối với anh. Bác sĩ biết rõ về Rafi Eitan và thậm chí đã nhiều lần chữa trị vết thương cho ông. Để che đậy, anh đã nói với bệnh viện rằng quân đội đã triệu tập anh để thực hiện nghĩa vụ dự bị hàng năm.
Sau khi gặp Eitan và Shalom tại một địa điểm được chỉ định trong thành phố, anh được đưa đến San Fernando để xem địa điểm bắt giữ. Kaplan sẽ đợi ở một trong những chiếc ô tô trong trường hợp phải cho Eichmann dùng thuốc an thần.
Sau đó, họ lái xe đến Doron, nơi bác sĩ được giới thiệu với những thành viên còn lại trong nhóm. Lúc đó chỉ có Tabor và Malkin ở nhà để chuẩn bị xà lim. Căn phòng lạnh cóng.
“Chúng tôi rất vui vì bác sĩ ở đây,” Malkin run rẩy nói. “Tôi hy vọng anh đã có một số kinh nghiệm trong việc điều trị bệnh viêm phổi kép.”
“Ồ, tôi tưởng đây là một kỳ nghỉ chứ.” Bác sĩ cười toe toét. “Tôi tưởng mình chỉ có một bệnh nhân phải quan tâm.”
Họ thích anh ấy ngay lập tức.
Ở thành phố, Isser Harel thực sự bị ốm. Sự căng thẳng của hoạt động và sự di chuyển liên tục giữa tám đến mười hai quán cà phê mỗi ngày đã khiến ông bị sốt và cảm lạnh nặng. Tuy nhiên, đây không phải lúc để nghỉ ngơi. Ông băng qua đường từ đại sứ quán Israel và bước vào một nhà hàng Trung Quốc, ngồi ở phía sau. Đại sứ Israel sẽ cùng ăn trưa với ông. Hai người chưa gặp nhau kể từ khi thủ lĩnh Mossad đến đây, và vị đại sứ cũng không biết rằng một chiến dịch đang được tiến hành. Đã đến lúc ông ta được thông báo, và Harel lo sợ rằng ông có thể phản kháng, vì đây là một hành vi xâm nhập nghiêm trọng vào lãnh thổ của ông ta
Arye Levavi bước vào nhà hàng một mình và ngồi xuống cạnh Harel. Đây là chỗ ngồi cuối cùng mà vị đại sứ được kỳ vọng sẽ ngồi dùng bữa, và khó có ai ngờ sẽ nhận ra ông ta.
Harel giải thích lý do tại sao anh lại đến Buenos Aires rồi nói: “Chính phủ đã chấp thuận hoạt động này, nhưng tôi nghĩ anh có thể phản đối.”
“Tôi không phản đối,” Levavi phản pháo, hoan nghênh tin tức này. Mặc dù ông nghi ngờ rằng Mossad có thể thực hiện việc bắt giữ mà không ai nhận ra Israel là người phải chịu trách nhiệm, nhưng hoạt động này đã ở giai đoạn tiến triển đến mức không thể đề xuất một con đường khác bắt giữ Eichmann. Ông nói với Harel rằng khi người Argentina biết chuyện này, sẽ có “những khó khăn ngoại giao nghiêm trọng”. Đây là hậu quả mà Harel đã chấp nhận.
Harel đề nghị với đại sứ rằng một số tình nguyện viên nên tập hợp tại đại sứ quán bắt đầu từ ngày 10 tháng 5, đề phòng hoạt động bị bại lộ sớm và cảnh giác có các cuộc tấn công vào đại sứ quán. Ông giải thích rằng các con trai của Eichmann có liên hệ với các nhóm theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bài Do Thái mạnh mẽ. Levavi nói rằng mình sẽ xem xét việc đó.
Ông sẽ nói với nhân viên của mình rằng đây là một biện pháp phòng ngừa cho sự xuất hiện của phái đoàn Israel.
____
Đêm chủ nhật đó tại Doron, Rafi Eitan đã tập hợp biệt đội lại với nhau. Đã đến lúc phải xác định chính xác việc bắt giữ sẽ diễn ra như thế nào.
Một bức vẽ về khu vực Eichmann sống được dán trên tường. Một đường nét đứt màu xanh biểu thị con đường Eichmann đi hàng ngày từ trạm xe buýt trên Đường 202 đến nhà y trên Đường Garibaldi. Tuyến xe buýt 203 qua khu vực được chỉ định bằng màu xanh liên tục và các đường phố xung quanh chìm màu đỏ. Các mốc quan trọng, bao gồm kè đường sắt và ki-ốt, cũng được trình bày chi tiết. Ngôi nhà của Eichmann được đánh dấu bằng chữ X màu đen.

Aharoni, người đã thảo luận mọi chuyện với Harel, vạch ra kế hoạch. Hai chiếc xe sẽ đỗ trên Đường 202 giữa Phố Garibaldi và bờ kè, hướng về phía trạm xe buýt nơi Eichmann xuống xe. Malkin và Tabor sẽ ẩn náu trên Đường Garibaldi, gần nhà và sẽ lao vào mục tiêu. “Ngay sau khi chúng tôi thấy các cậu đã tóm được y,” Aharoni giải thích, gõ nhẹ vào một địa điểm trên bản đồ, “chúng tôi sẽ chạy vòng qua góc phố, đón bạn và cất cánh … Nhanh chóng và đơn giản.”
“Để tôi xem liệu tôi có hiểu ý cậu không,” Malkin nói, hầu như không che giấu sự thất vọng của mình. Anh và Aharoni có tính cách trái ngược nhau, và hoạt động này đang thử thách sự kiên nhẫn vốn đã hạn chế của họ với nhau. “Tabor và tôi phải ở ngoài trời, cho đến khi cậu quyết định đến bằng ô tô? Một câu hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu một cảnh sát tình cờ đi ngang qua – hoặc thậm chí là một người đi bộ bình thường?”
Aharoni bình tĩnh trả lời họ sẽ đề phòng điều đó và sẽ phản ứng với tốc độ có tính toán. Malkin bùng nổ, hét lên rằng mình sẽ không tham gia vào bất cứ việc gì có tính nghiệp dư như vậy. Eitan ngắt lời anh trước khi cơn giận càng bừng lên.
Theo quan điểm của Malkin, một kế hoạch chỉ là một gợi ý về cách mọi việc có thể diễn ra; chỉ vào cuối ngày, mục tiêu mới là yếu tố chi phối cho hành động của họ. Vì động thái của Eichmann nằm ngoài tầm kiểm soát của họ nên bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Nhóm có thể dàn dựng mọi thứ một cách hoàn hảo dựa trên những gì họ biết về thói quen của Eichmann, nhưng nếu y đi làm về muộn hoặc đi cùng người khác, hành động sẽ cần phải đủ linh hoạt để điều chỉnh cho phù hợp. Nếu Malkin và Tabor nấp một mình bên lề đường, sự lựa chọn của họ sẽ quá hạn chế và họ sẽ rất dễ bị tổn thương. Nỗi lo sợ của Malkin rằng hoạt động có thể trở nên tồi tệ đã ăn sâu vào tâm trí anh. Mỗi đêm anh đều trằn trọc về nhiều khả năng và với kinh nghiệm hoạt động hạn chế của Aharoni, Malkin sẽ không chấp nhận kế hoạch của người thẩm vấn Shin Bet chỉ vì anh ta đã bàn qua chuyện đó với Harel.
Malkin đứng dậy và đi tới tấm bản đồ. Anh có một kế hoạch thay thế, một kế hoạch mà anh ấy đã phát triển cùng với Eitan và Shalom. Một chiếc ô tô sẽ đỗ trên Đường 202 ở đúng vị trí mà Aharoni đã gợi ý. Chiếc xe này sẽ bật đèn để làm Eichmann lóa mắt khi y đi về phía họ. Chiếc ô tô thứ hai sẽ đậu trên Phố Garibaldi, quay mặt ra Đường 202, mui xe dựng lên – như thể nó bị hỏng. Khi Eichmann đến gần, Malkin sẽ nói điều gì đó với y bằng tiếng Tây Ban Nha để đánh lạc hướng y trước khi tóm lấy y. Sau đó Tabor và Eitan sẽ hỗ trợ kéo y vào ghế sau của xe. Điều này sẽ hạn chế khả năng lộ diện của họ trước khi Eichmann bị ấn vào xe, và nếu vì bất kỳ lý do gì mà mục tiêu của họ trở nên nghi ngờ, họ có thể bỏ đi.
Mọi người, kể cả Aharoni, đều nhìn thấy những ưu điểm của kế hoạch này, nhưng họ cũng có thể thấy một lỗ hổng lớn. Điều gì sẽ xảy ra nếu Eichmann hoảng sợ khi nhìn thấy một chiếc ô tô lạ mặt nằm cách nhà mình vài mét vào ban đêm? Y có thể chạy băng qua cánh đồng về phía nhà mình hoặc lao về phía trạm xe buýt và ki-ốt. Malkin lập luận rằng việc này khó có thể xảy ra. Việc giải quyết cuộc tranh luận sẽ tùy thuộc vào Harel.
Sau đó, nhóm chuyển cuộc thảo luận sang một vấn đề khác, và lần này mọi người đều đồng ý mà không thắc mắc: họ phải chuyển nơi ở an toàn. Người làm vườn thường xuyên có mặt trong khuôn viên và không thể thuyết phục đi chỗ khác. Ông ta chỉ cần kể những hoạt động kỳ lạ ở nhà cho một người nhầm lẫn, thì toàn bộ hoạt động sẽ bị tổn hại.
Khi ngày bắt giữ đang đến gần, mọi chi tiết của kế hoạch đều được xem xét kỹ lưỡng và xem xét kỹ lưỡng một lần nữa. Bất cứ sai lầm nào cũng có thể khiến các đặc vụ mất đi sự tự do, nhưng tệ hơn trong tâm trí họ, nó có thể cho phép Eichmann lại được nhởn nhơ ngoài vòng trừng phạt.