Sự thật lịch sử “quyền phát triển”

Nguyễn Hữu Đổng

Ngày 04/12/2023

Quyền phát triển chưa được giới nghiên cứu làm rõ về học thuật. Bằng tư duy sự thật lịch sử, tác giả bài viết phân tích làm sáng tỏ thực chất, hạn chế hiểu biết khái niệm này, đề xuất giải pháp nhận thức đúng đắn thuật ngữ quyền, phát, khái niệm xã hội, nhân quyền và phát triển quyền con người.

Quyền phát triển là gì?

Quyền phát triển bao hàm thuật ngữ quyền (right) và khái niệm phát triển (development). Từ, thuật ngữ, khái niệm trong ngôn ngữ học biểu hiện quan hệ các mặt của sự thật hay sự thực sau: thật sự biểu hiện hình thức không phát triển; sự thật biểu hiện nội dung chưa phát triển; còn sự thực là nguyên lý phát triển (and truth is the principle of development). Theo đó, sự thật gắn liền với lịch sử phát triển; không phát triển là sai sự thật. Do vậy, bằng tư duy sự thật lịch sử, người nghiên cứu có thể làm rõ quyền phát triển (researchers can clarify the right to development).

Quyền biểu hiện các mặt chủ yếu sau: bản chất nhóm người chưa có quyền; tính chất cá nhân con người không có quyền; thực chất cá nhân nhóm cộng đồng người có quyền. Nhóm gắn với thiếu cân đối môi sinh, thiếu công bằng về giá trị vật chất; cá nhân gắn với không cân bằng về môi trường, không bình đẳng về giá trị tinh thần; cộng đồng gắn với hài hoà về môi trường sống, công lý về giá trị tâm linh. Điều đó có nghĩa, quyền biểu hiện sự hài hoà về môi trường sống, công bằng bình đẳng công lý về giá trị sống. Tức người cần có môi trường và giá trị sống; con người thiếu môi trường sống là không giá trị (human without a living environment are worthless).

Phát triển biểu hiện các mặt chủ yếu như sau: bản chất lịch sử chưa cân đối về môi sinh, chưa công bằng về giá trị vật chất của nhóm; tính chất lịch sử không cân bằng về môi trường, không bình đẳng về giá trị tinh thần của cá nhân; thực chất lịch sử hài hoà về môi trường sống, công lý về giá trị tâm linh của cộng đồng. Điều đó có nghĩa, lịch sử phát triển là hài hoà môi trường sống, công bằng bình đẳng công lý về giá trị người. Theo đó, chưa phát triển là môi trường sống chưa bảo đảm (undeveloped means the living environment is not guaranteed), và công bằng bình đẳng công lý chưa bảo đảm (and justice and equality are not guaranteed).

Quyền và phát triển có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành quyền phát triển (formation of the right to development) hay phát triển các quyền (or develop rights). Quyền phát triển biểu hiện các mặt chủ yếu sau: quyền được bảo đảm hài hoà về môi sinh, công bằng về quyền lợi vật chất của các nhóm; quyền được bảo đảm hài hoà về môi trường, bình đẳng về giá trị tinh thần của các cá nhân; quyền được bảo đảm hài hoà về môi trường sống, công lý về giá trị của các cộng đồng người. Điều đó có nghĩa, quyền phát triển là quyền được bảo đảm môi trường, công bằng bình đẳng công lý về giá trị sống. Nói cách khác, quyền phát triển chính là quyền con người (the right to development is a human right), là “quyền con người không thể chia cắt” (is “indivisible human rights”); hình thức thể hiện chủ yếu của quyền phát triển là “các quyền dân sự chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa” [1].

So sánh quyền phát triển với các chữ số âm (-), dương (+) và thực (0) trong toán học cho thấy rằng, quyền không phát triển giống số dương, sức sống gắn với nam giới không tự do; quyền chưa phát triển giống số âm, sự sống gắn với nữ giới chưa hạnh phúc; còn quyền phát triển giống số thực, cuộc sống gắn với loài người tự do hạnh phúc. Điều đó có nghĩa, quyền phát triển là “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” hay “quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [2]; không có quyền phát triển loài người không hạnh phúc (without the right to develop humanity is not happy).

Hạn chế hiểu biết quyền phát triển trên thế giới và ở Việt Nam

1) Hạn chế trên thế giới:

Quyền phát triển là khái niệm gắn với cuộc sống con người. Tuy nhiên, hiểu biết khái niệm này của công dân nói chung, giới nghiên cứu nói riêng còn hạn chế; bởi vì, giới nghiên cứu chưa làm rõ quan hệ giữa tính chất, bản chất, thực chất “quyền” và “phát triển”. Chẳng hạn, khi phân tích thuật ngữ quyền, người nghiên cứu chỉ nhìn nhận bản chất nội dung và tính chất hình thức, chứ không nhìn nhận thực chất nguyên lý quyền (but does not ricognize the essence of the principle of rights); hay khi phân tích thuật ngữ phát triển, người nghiên cứu chỉ nhìn nhận tính chất hình thức không phát triển, bản chất nội dung chưa phát triển, chứ không nhìn nhận thực chất nguyên lý phát triển (rather than ricognizing the essence of the principle of development).

Hạn chế hiểu biết quyền phát triển làm cho giới nghiên cứu, lãnh đạo không nhận thức rõ rằng, chế độ không dân chủ quyền không phát triển, chế độ chưa dân chủ quyền chưa phát triển, còn chế độ dân chủ là quyền phát triển; làm cho nhiều người nghiên cứu, lãnh đạo không nhận thức quyền phát triển là quyền con người, hay gắn liền với “chính trị phát triển” (or associated with “development politics”) [3], tức chính trị không phát triển quyền không phát triển (that is, politics does not develop, rights do not develop).

Hạn chế hiểu biết quyền phát triển dẫn đến tư tưởng nhóm thiên hữu (thiên về nhóm – cực hữu) hay tư tưởng cá nhân thiên tả (thiên về cá nhân – cực tả), “dẫn đến sự đối đầu” (tranh đấu quyền lực) [4]; đặc biệt, dẫn đến các căn bệnh “sùng bái”, tôn thờ thuật ngữ “chủ nghĩa” (orship the term “ism”), hay tôn thờ thuật ngữ “hiện đại” (orship the term “modern”), như: sùng bái quyền lực, sùng bái tăng trưởng, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, “hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa” [5], “chủ nghĩa xã hội đặc sắc” [6], chủ nghĩa tư bản hiện đại, v.v.., vi phạm nhân quyền sử dụng bạo lực súng đạn, dẫn đến chiến tranh gây khổ đau cho loài người (leading to war and suffering for humanity).

2) Hạn chế ở Việt Nam:

Hiểu biết quyền phát triển của công dân nói chung, đội ngũ cán bộ (đại biểu dân cử, công chức, viên chức, thẩm phán, kiểm sát viên), giới nghiên cứu nói riêng còn nhiều hạn chế; bởi vì, giới nghiên cứu chưa làm rõ thực chất quyền và phát triển. Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2005), “quyền” chỉ được giới nghiên cứu nhìn nhận mặt hình thức “pháp luật hoặc xã hội cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” chứ không nhìn nhận mặt nguyên lý “giá trị sống” của con người; còn “phát triển” chỉ được giới nghiên cứu nhìn nhận mặt “rộng” không thật về tinh thần, “hẹp” chưa thật về vật chất chứ không nhìn nhận mặt nguyên lý thật tâm linh (rather than seeing the true spiritual principle).

Hạn chế hiểu biết quyền phát triển làm cho giới nghiên cứu, lãnh đạo không nhận thức rõ thực chất “quyền lực” – khái niệm biểu hiện “cuộc sống hạnh phúc chân thật” của con người [7]; không nhận thức rõ thực chất “quyền con người” – “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người” [8]; hay không nhận thức rõ quan hệ giữa xã hội, khái niệm, khoa học, sự thiên lệch và phát triển như sau: “Xã hội chủ nghĩa là tính từ không khoa học (Socialist is an scientific adjective), thiên lệch mặt ngoài không phát triển (facial bias does no develop); chủ nghĩa xã hội là động từ chưa khoa học (socialism is an unscientific verb), thiên lệch mặt trong chưa phát triển (medial bias does not develop); còn tư tưởng xã hội là khái niệm khoa học (social ideology is a scientific concept), không thiên lệch mặt giữa phát triển (no medial side development bias)” [9].

Hạn chế hiểu biết quyền phát triển là nguyên nhân dẫn đến tiêu cực trong xã hội; chẳng hạn, như: “tư duy của một bộ phận cán bộ đảng viên, lãnh đạo các cấp vẫn quá chính trị hóa quyền con người, xem đây là vấn đề nhạy cảm, nói đến Quyền con người lại thiên về hướng là chúng ta phải đấu tranh chống cái gì đó, và nhân quyền như một khái niệm của phương Tây, trong khi lại xem nhẹ việc bảo vệ, ít quan tâm thực chất đến vấn đề nhân quyền, không xem đó như vấn đề thiết thân như đời sống hàng ngày” [10]; “hiểu biết về nhân quyền ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân; Nhân quyền được coi là một vấn đề nhạy cảm, ít khi những vấn đề nhân quyền trong nước được đề cập một cách trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng; Hiện nay, nước ta vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền” [11]; “vẫn còn những hạn chế của công tác bảo đảm quyền con người.” [12]; “rất nhiều vụ việc cưỡng chế vi phạm pháp luật, không bảo đảm quyền của người dân” [13]; thiên lệch “sức mạnh chính trị” (bạo lực chính trị) [14], chứ không hiểu rằng chính trị là “chính quyền nhân dân của quốc gia xây dựng, điều hành thực hiện, thực thi bảo đảm các mục tiêu chính sách phát triển” [15]; tiêu cực từ nhiều “án oan sai” [16], thiếu khách quan bảo đảm quyền con người (lack of objectivity in ensuring human rights); tư duy sai về “công nghiệp hoá”, về “hiện đại hoá” (about “modernization”), hay sai về “hiện đại hoá đất nước” [17], “Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [18] trong khi không nhận thức rõ “hiện đại”, không nhận thức rõ “chủ nghĩa” (not clearly aware of “ism”) – thuật ngữ thiên hữu và thiên tả sai (the term right – leaning and left leaning – wrong).

Giải pháp nhận thức đúng đắn thuật ngữ quyền, phát, khái niệm xã hội, nhân quyền và phát triển quyền con người 

Thứ nhất, nhận thức đúng đắn thuật ngữ “quyền”. Quyền phát triển gắn liền với thuật ngữ quyền; tuy nhiên, quyền chưa được giới nghiên cứu nhận thức đúng. Quyền bao hàm các mặt chủ yếu sau: tính chất quyền của dân không gắn với tự do (the nature of people’s rights is not associated with freedom), bản chất quyền của Nước chưa gắn với độc lập (the nature of the State’s rights is not yet linked to independence), thực chất quyền của Nước là độc lập (in essence, the State’s right is independence) và nhân dân tự do hạnh phúc (and the people are free and happy). Tức là, nhận thức đúng đắn thuật ngữ quyền đòi hỏi giới nghiên cứu hiểu rõ quan hệ sau: bản chất quyền độc lập, tính chất quyền tự do, thực chất quyền hạnh phúc, dạng mô hình: quyền độc lập – quyền hạnh phúc – quyền tự do, hay mô hình: độc lập – hạnh phúc – tự do.

Thứ hai, nhận thức đúng đắn thuật ngữ “phát”. Quyền phát triển gắn liền với thuật ngữ phát; tuy nhiên, phát chưa được giới nghiên cứu nhận thức đúng. Phát bao hàm các mặt chủ yếu sau: tính chất phát gắn với thật sự không phát triển; bản chất phát gắn với sự thật chưa phát triển; thực chất phát gắn với sự thực phát triển (the essence of development is linked to the reality of development). Tức là, nhận thức đúng đắn thuật ngữ phát đòi hỏi giới nghiên cứu hiểu rõ quan hệ sau: bản chất phát chưa phát triển, tính chất phát không phát triển, thực chất phát là phát triển, dạng mô hình: nội dung phát chưa phát triển – nguyên lý phát thì phát triển – hình thức phát không phát triển, hay mô hình: chưa phát triển – phát triển – không phát triển.

Thứ ba, nhận thức đúng đắn khái niệm “xã hội”. Quyền phát triển gắn với phát triển xã hội; tuy nhiên, khái niệm xã hội chưa được giới nghiên cứu nhận thức đúng. Xã hội bao hàm các mặt chủ yếu sau: thuật ngữ xã gắn với nhóm chưa phát triển; thuật ngữ hội gắn với cá nhân không phát triển; khái niệm xã hội gắn với cộng đồng phát triển. Tức là, nhận thức đúng đắn khái niệm xã hội đòi hỏi giới nghiên cứu hiểu rõ quan hệ sau: bản chất nhóm chủ nghĩa xã hội thiếu khoa học (the nature of the socialist group lacks science); tính cá nhân xã hội chủ nghĩa không khoa học (socialist individuality is not scientific); thực chất cộng đồng xã hội khoa học (the essence of the scientific social community), dạng mô hình: chủ nghĩa xã hội chưa khoa học – xã hội cộng đồng là khoa học – xã hội chủ nghĩa không khoa học. Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội là khái niệm chưa khoa học; xã hội chủ nghĩa là khái niệm không khoa học; còn xã hội cộng đồng hay cộng đồng xã hội là khái niệm khoa học (or social community is a scientific concept).

Thứ tư, nhận thức đúng đắn khái niệm “nhân quyền”. Quyền phát triển gắn liền với nhân quyền (The right to development is closely linked to human rights); tuy nhiên, khái niệm nhân quyền chưa được giới nghiên cứu nhận thức đúng. Nhân quyền bao hàm các mặt chủ yếu sau: thuật ngữ nhân gắn với nhóm chưa hạnh phúc; thuật ngữ quyền gắn với cá nhân không hạnh phúc; thực chất nhân quyền gắn với cộng đồng hạnh phúc. Tức là, nhận thức đúng đắn khái niệm nhân quyền đòi hỏi giới nghiên cứu hiểu rõ quan hệ sau: bản chất nhóm người chưa hạnh phúc, tính chất cá nhân con người không hạnh phúc, thực chất cộng đồng người hạnh phúc (essentially a happy community of people), dạng mô hình: bản chất nhóm chưa hạnh phúc – thực chất cộng đồng hạnh phúc – tính chất cá nhân không hạnh phúc; không có quyền phát triển không bảo đảm công lý; tức quyền không phát triển là không có nhân quyền (that is, the right to not develop is to have no human rights).

Thứ năm, nhận thức đúng đắn khái niệm phát triển quyền con người. Quyền phát triển gắn với phát triển quyền con người; tuy nhiên, khái niệm này chưa được giới nghiên cứu nhận thức đúng. Phát triển quyền con người bao hàm các mặt chủ yếu sau: tính chất quyền con người không phát triển (quyền chết); bản chất quyền con người chưa phát triển (quyền sống); thực chất quyền con người phát triển (quyền phát triển). Tức là, nhận thức đúng đắn phát triển quyền con người đòi hỏi giới nghiên cứu hiểu rõ quan hệ sau: bản chất nội dung quyền con người chưa phát triển, tính chất hình thức quyền con người không phát triển, thực chất nguyên lý quyền con người phát triển (essentially the principle of human rights development), dạng mô hình: quyền con người chưa phát triển – quyền con người phát triển – quyền con người không phát triển, hay mô hình: bản chất nội dung quyền sống – thực chất nguyên lý quyền phát triển – tính chất hình thức quyền chết; không nhận thức như vậy không phát triển con người (without such awareness there is no human development).

Kết luận

Quyền phát triển biểu hiện quyền con người trong đời sống xã hội. Hiện nay, khái niệm này chưa được giới nghiên cứu làm rõ về các mặt tính chất hình thức, bản chất nội dung, thực chất nguyên lý. Đây được nhìn nhận là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nhân quyền chưa bảo đảm như thực tế chỉ ra; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển con người. Do đó, để bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phát triển con người toàn diện, giới nghiên cứu, lãnh đạo cần phải đổi mới sáng tạo từ tư duy chưa thật, không thật sang sự thật; nhận thức đúng đắn thuật ngữ quyền, phát, khái niệm xã hội, nhân quyền và phát triển quyền con người.

……………..

Tài liệu trích dẫn:

[1] https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Tuyen-bo-ve-quyen-phat-trien-1986-275833.aspx

[2] https://vietnamnet.vn/toan-van-ban-tuyen-ngon-doc-lap-771240.html

[3] https://vanhoavaphattrien.vn/giai-ma-danh-ngon-ve-chinh-tri-va-phuong-trinh-cua-albert-einstein-a20693.html

[4] https://vanhoavaphattrien.vn/luan-ve-long-do-ky-va-van-hoa-do-ky-a18125.html

[5] https://vass.gov.vn/tap-chi-vien-han-lam/xay-dung-hien-dai-hoa-xa-hoi-chu-nghia-o-trung-quoc-9

[6] http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/4592-nhung-dac-sac-trong-he-thong-ly-luan-chu-nghia-xa-hoi-dac-sac-trung-quoc-thoi-ky-cai-cach-mo-cua.html

[7] https://vanhoavaphattrien.vn/luan-ve-van-hoa-quyen-luc-a18469.html

[8] https://lsvn.vn/ban-them-ve-khai-niem-nha-nuoc-phap-quyen1662130587.html

[9] https://vanhoavaphattrien.vn/triet-hoc-van-hoa-phat-trien-thuc-chat-va-nhan-thuc-a21748.html 

[10] https://vietnamnet.vn/bao-ve-bao-dam-quyen-con-nguoi-co-hoi-va-thach-thuc-493681.html

[11] https://tapchitaichinh.vn/mot-so-van-de-dat-ra-trong-qua-trinh-thuc-hien-quyen-con-nguoi-o-viet-nam.html

[12] https://tuoitrethudo.com.vn/bao-dam-quyen-con-nguoi-trong-thoi-hoi-nhap-149450.html

[13] https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/332860/CVv146S172021014.pdf

[14] https://www.qdnd.vn/ky-niem-60-nam-ngay-mo-duong-ho-chi-minh-tren-bien-23-10-1961-23-10-2021/suc-manh-chinh-tri-tinh-than-tren-nhung-con-tau-khong-so-672288

[15] https://vanhoavaphattrien.vn/van-hoa-kinh-te-chinh-tri-phat-trien-thuc-chat-dinh-nghia-va-nhan-thuc-a21428.html

[16] https://giaoduc.net.vn/5-vu-an-oan-noi-tieng-lam-chan-dong-viet-nam-post148206.gd

[17] https://tapchitaichinh.vn/day-manh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-den-nam-2030.html

[18] https://www.nxbctqg.org.vn/kien-dinh-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam.html.

…………………..

One thought on “Sự thật lịch sử “quyền phát triển”

  1. Tiến Sĩ Mạc Văn Trang đã nói là 2 chị em Thiều Thị Tân-Tạo, sau khi đọc bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền đã tham gia Biệt Động Thành của Sáu Dân Võ Văn Kiệu lúc đó, vào năm 14-16t, cho mục đích chống Mỹ. Hiểu rõ về nhân quyền để chống Mỹ, đó là việc tốt .

    Thích

Bình luận về bài viết này