Henry Kissinger: khôi nguyên hòa bình hay tội phạm chiến tranh?

Tác giả: Adam Taylor

Ngày 1 tháng 12 năm 2023

Henry Kissinger vừa qua đời hôm thứ 4 ở tuổi 100. Ông được giải Nobel hòa bình, từng phục vụ qua hai đời nội các Nhà Trắng, cố vấn cho các nguyên thủ thế giới thậm chí ở vào tuổi gần đất xa trời. Ông có một đời sống phức tạp: khi ở đỉnh cao quyền lực địa chính trị, có chân trong chính phủ Nixon trên cương vị cố vấn an ninh quốc gia và sau đó là ngoại trưởng, từng hẹn hò với các nữ minh tinh màn bạc và các nhân vật giải trí khác tại các buổi tiệc linh đình.

Tuy nhiên, nhiều người lại nhớ ông ở điểm khác: một tội phạm chiến tranh. Trong khi nhà cựu ngoại giao Mỹ này chưa bao giờ bị tuyên án, hay thậm chí bị xét xử vì tội ác chiến tranh, các dính dấp của ông về các chính sách dẫn đến cái chết của hàng ngàn dân lành là một phần vết nhơ không thể gột rửa.    

 “Tội trạng của Henry Kissinger”, là tựa một cuốn sách gây rúng động dư luận được nhà văn Christopher Hitchens tung ra năm 2001, lần lượt bóc tách mọi vấn đề, chỉ ra vai trò của ông trong các chính sách gây nhiều xì căng đan tại nhiều nơi trên thế giới, chẳng hạn như Chile và Campuchia, theo tác giả, nhà ngoại giao Mỹ phải ra trình diện tòa án “vì các tội ác chiến tranh, tội ác chống loài người, và chà đạp các thông lệ, tập quán cùng luật pháp quốc tế, bao gồm tội đồng lõa giết người, bắt cóc và tra tấn”.

Nhiều năm sau, Anthony Bourdain, người phụ trách chương trình truyền hình ăn khác đồng thời là đầu bếp trứ danh, bày tỏ sự căm phẫn khi nhiều người vẫn tỏ bày lòng ngưỡng mộ Kissinger trong chuyến thăm của ông này đến Campuchia. “Nếu bạn từng ở Campuchia, bạn sẽ không bao giờ ngăn mình vung nắm đấm đập chết Henry Kissinger”, Bourdain viết trong cuốn sách năm 2001, “Một chuyến du hành bếp núc”, kêu gọi Kissinger phải bị xét xử tại Tòa án hình sự Quốc tế bên cạnh cựu tổng thống Serbia Slobodan Milosevic, tại thời điểm phiên tòa xét xử tội phạm có liên quan đến nạn diệt chủng.

Nhiều năm sau đó, các quan điểm càng được bồi thêm sức mạnh bởi hồ sơ được giải mật, càng củng cố thêm lập luận rằng Kissinger thường can dự các quyết định quân sự và biết rõ, nhưng tảng lờ, số thường dân thiệt mạng do các chính sách ông theo đuổi. Tom Blanton, giám đốc kho Lưu trữ An ninh Quốc gia tại đại học George Washington, đã viết trong tuần này rằng Kissinger đã ghi âm lại nhiều cuộc thảo luận bày tỏ sự hoài nghi của ông – “ông ấy cần kiểm tra ông ấy đã nói dối với ai”.

Dưới đây là những trường hợp điển hình đầy tai tiếng về các quyết định trong chính sách của Kissinger, và bằng chứng liên hệ chúng tới các tội ác chiến tranh khả dĩ.

Ném bom Campuchia

Nói đến Kissinger là nói đến chính sách gắn liền Châu Á của ông, dẫn đến sự kiện mở ra quan hệ với đảng Cộng sản Trung Quốc thời chính quyền Nixon và vắt óc giúp Mỹ thoát khỏi vũng lầy Chiến tranh Việt Nam.

Tuy nhiên di sản của ông gây nhiều tranh cãi, đặc biệt tại Đông Nam Á. Trong khi sẽ giành được giải Nobel Hòa bình năm 1973 qua các cuộc thương thuyết một cuộc đình chiến cho Việt Nam, ông ấy cũng khiến nó kéo dài – sau này chứng tỏ là sai lầm – rằng Hoa Kỳ có thể đạt được nhiều điều khoản thuận lợi hơn vơi Bắc Việt thông qua chủ trương bạo lực hơn. Những năm trước đó, ông đã phá hoại các nỗ lực giảm thang chiến tranh của tổng thống Lyndon B. Johnson bằng cách chuyển thông tin cho Richard M. Nixon, người đến lượt lại chuyển nó cho bên Việt Nam Cộng hòa.

Hành động kinh hoàng nhất tại Châu Á, và có lẽ ai cũng thấy rõ đó là một tội ác chiến tranh, là hành động ném bom rải thảm phần lớn lãnh thổ Campuchia trong suốt giai đoạn Chiến tranh Việt Nam 1969-1973. Trong cuộc chiến này,Campuchia hoàn toàn đứng ngoài lề – ý đồ của Nixon là khi bị rải thảm bom như vậy Campuchia sẽ xua đuổi quân Cộng sản đang trú đóng ở đây – hiện giờ, các sử gia ước tính có khoảng nửa triệu tấn bom Mỹ đã trút xuống Campuchia trong giai đoạn ấy, hậu quả là 150 ngàn thường dân bỏ mạng và để lại ngày nay một lượng lớn bom mìn chưa được rà phá.

Các tài liệu được giải mật cho thấy Kissinger đóng một vai trò quyết định trong việc biến các kế hoạch ném bom mơ hồ của Nixon được hiện thực hóa, bằng cách đề nghị với cố vấn quân sự của Nixon rằng, nên thực hiện một “chiến dịch dội bom quy mô lớn” nhắm đến “bất cứ thứ gì đang chuyển động”.   

Vụ diệt chủng Bangladesh

Năm 1971, khi quân đội Pakistan bắt đầu thảm sát người Hindu Bengal khi ấy được gọi là Tây Hồi nhưng ngày nay là quốc gia Bangladesh độc lập. Cặp bài trùng Nixon-Kissinger khước từ thúc ép chính quyền quân sự Pakistan – vốn được Mỹ viện trợ vũ khí – kìm chế. Hiện nay, ước tính có hàng trăm ngàn người bị giết chết trong đợt diệt chủng khi ấy và 10 triệu người bỏ chạy sang Ấn Độ lánh nạn.

Kissinger bỏ ngoài tai các lời khẩn thiết lên án bạo lực. Thời điểm đó, nội các Nixon bí mật chuẩn y việc chuyển các máy bay ném bom Starfight F-104 sang Pakistan và các bản ghi âm của Nhà Trắng về các cuộc thảo luận của Kissinger cho biết vị ngoại trưởng này đã chế giễu những người Mỹ lên án việc “tắm máu” vì “sát hại lần mòn người Bengel”

Các sử gia như Gary J. Bass đã luận giải rằng, ý đồ của Kissinger ủng hộ chính quyền quân sự Pakistan – do tướng Agha Muhammad Yahya Khan nắm quyền – bởi vì muốn sử dụng con bài Kahn như là cánh cửa sau cho ngoại giao với Trung Quốc. Bangladesh trở thành một quốc gia độc lập sau khi nước láng giếng Ấn Độ nhảy vào can thiệp, lực lượng Pakistan vốn đang áp đảo sớm bị thúc thủ.   

Cuộc đảo chính tại Chile

Vùng đất khác mà Kissinger để lại nhiều ảnh hưởng là Mỹ Latin, tại đây ông đổi phe như chong chóng và trao quyền cho các chính phủ cực hữu bị cáo buộc phạm các tội tầy đình.

Tại Chile, chính phủ Mỹ ra sức gây xáo trộn chính phủ dân chủ được bầu của lãnh đạo cánh tả Salvador Allende. Khi Allende sau đó bị hạ bệ và sát hại trong một cuộc đảo chính quân sự và tướng Augusto Pinochet lên cầm quyền năm 1973, Kissinger đẩy mạnh sự ủng hộ cho Chile bất chấp các thông lệ dân chủ bị rẻ rúng. Khi nghe các thuộc cấp báo cáo về các vụ vi phạm nhân quyền tại đây, ông tảng lờ.

 “Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ chính sách của chúng ta – tuy hành động của họ chẳng hay ho gì, nhưng chính phủ này có lợi cho chúng ta hơn là chính phủ Allende trước đây”, ông nói trong cuộc trao đổi riêng sau đó được giải mật.

Bây giờ người ta tin rằng chính phủ Pinochet đã sát hại ít nhất 3,197 và tra tấn khoảng 29 ngàn người, với hầu hết các vụ giết chóc được diễn ra vào thời điểm Kissinger ủng hộ chính phủ nhiệt tâm nhất – năm 1973. Ông tướng này sau này bị tình nghi có liên quan đến vụ cài bom xe năm 1976 tại Washington, nạn nhân xấu số là cựu ngoại trưởng Chile.  

Pinochet vẫn tại vị cho đến năm 1990. Mặc dù phải đối diện các vô vàn thách thức tư pháp những năm sau này, tình trạng sức khỏe kém giúp ông ta không phải ra vành móng ngựa. Ông qua đời năm 2006 ở tuổi 91.

Kissinger cũng khuyến khích tập đoàn quân sự Argentine lên nắm quyền năm 1974. Thời điểm ấy có khoảng 30 ngàn người bị sát hại hoặc mất tích do quân đội là thủ phạm trong cái còn gọi là “Cuộc chiến Bẩn thỉu”. Các hồ sơ được giải mật sau đó cũng tiết lộ Kissinger không chỉ biết rành rành tội ác của tập đoàn quân sự mà còn năng nổ tiếp sức nó.

 “Nếu điều gì cần làm thì ngài nên làm cho gấp”, lời Kissinger nói với ngoại trưởng Argentine Adm. Cesar Augusto Guzzetti năm 1976, theo tài liệu giải mật.

Tội phạm chiến tranh hay người có tư tưởng thực dụng?

Danh sách tội ác còn dài: Đông Timor và Đảo Cyprus là hai trường hợp ít được biết đến, nơi đây Kissinger đã lấy mũ che tai, hoặc tệ hơn, mưu đồ tiến hành các vụ thảm sát hoặc cưỡng bức di dời. Nhưng cho đến tận cuối đời, Kissinger vẫn là một nhân vật ngoại giao được kính trọng, buổi tiệc sinh nhật của ông được tổ chức tại Câu lạc bộ Kinh tế New York tại Manhattan hồi tháng 5 có sự tham dự đông đủ của mọi tầng lớp trong xã hội.   

Kissinger chưa bao giờ tỏ ra hối cải. Mỗi khi biện minh, ông ta đưa ra một lối biện giải hành động theo thực tiễn và dẫn chứng các thành quả Mỹ có được do chính sách ông mang lại – nào là giành được thế thượng phong trong Cuộc chiến Việt Nam, bảo đảm chủ nghĩa Cộng sản không lan sang Mỹ Latin hay mở ra một kênh ngoại giao trọng yếu với Trung Quốc – tuy các thành tựu này không phải luôn kéo dài. Ông chưa hề thể hiện sự đồng cảm với những những người nước ngoài là nạn nhân chính sách của ông và những người từng bị ông lén dè bỉu.  

Tuy nhiên, nếu Kissinger là người chủ trương thực dụng trong chính sách đối ngoại, điều đó không có nghĩa ông nhất định phạm tội ác chiến tranh. Reed Brody, một luật sư Mỹ, từng tham gia các trường hợp tội ác chiến tranh khác, đã viết trong một bài báo phân tích sâu trên diễn đàn An ninh Công lý hồi đầu năm rằng, đã phác thảo một số trường hợp Kissinger có thể bị cáo buộc tội ác chiến tranh bằng cách so sánh các trường hợp tương tự khác. Vấn đề mấu chốt ở đây là: những tội ác mà Kissinger bị tố đã xảy ra hàng thập kỷ trước khi Tòa án Hình sự Quốc tế tại Hague được thành lập năm 1998, đã báo hiệu kỷ nguyên hiện đại của công lý quốc tế (và đây là nơi mà Bourdain nói Kissinger nên có mặt).  

Brody viết rằng “với tất cả các tiến bộ mà công lý quốc tế mang lại, một cựu ngoại trưởng Mỹ đầy thế lực dường như vẫn vượt ra ngoài phạm vi này”. Cái chết của Kissinger sẽ xóa đi bất kỳ sự chưa được minh định nào, mặc dù nó sẽ cho phép thấu triệt hơn tư tưởng của ông: sự bảo vệ pháp lý về quyền riêng tư của ông đã theo ông xuống tuyền đài, nhiều bí mật có thể được bật mí.


https://www.washingtonpost.com/world/2023/11/30/henry-kissinger-war-criminal/

One thought on “Henry Kissinger: khôi nguyên hòa bình hay tội phạm chiến tranh?

  1. Không cần đi sâu, chẳng cần tìm hiểu kỹ, những gì nhiều người biết về ông ta đều cho là kẻ phản bội đồng minh, cáo già Kissinger, kẻ đi đêm, tên ngoại trưởng hai mặt. Trong cuộc chiến tranh gần đây nhất, đã già, không còn ở cương vị nào ông ta vẫn tuyên bố quốc gia nạn nhân bị xâm chiếm nên nhượng bộ, đổi lãnh thổ lấy hòa bình, điều mà hơn năm mươi năm trước ông ta đã từng làm như thế. Nói chung, đó là kẻ xảo quyệt đóng vai khôi nguyên hòa bình.

    Thích

Bình luận về bài viết này