Những dữ kiện địa chính trị của Việt Nam: Việt Nam sẽ là đồng minh quan trọng nhất của Mỹ tại Á-châu ?

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden nâng cốc chúc mừng với Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thương tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 11 tháng 9 năm 2023. REUTERS/Evelyn Hockstein

Tác giả : Pierre Grosser*

Người dịch: Phan Tấn Khôi **  

            Đối diện với sự gia tăng quyền lực của Trung-quốc, sự xích lại gần nhau giữa Mỹ và Việt Nam có vẻ một cách “máy móc”.  Chặng đường đã qua kể từ khi cuộc triệt thoái bi đát khỏi Saigon của Mỹ năm 1975, và kể từ khi sự bình thường hóa ngoại giao năm 1995 giữa Washington và Hanoi thật là khiến thán phục. Thường nó được coi là chỉ tùy thuộc vào yếu tố duy nhất Tầu.  Tuy nhiên, vào thời điểm mà nhiều tiếng nói tại Mỹ kêu gọi thắt chặt mối quan hệ với Việt Nam, cho đến việc tạo ra một mối liên minh thật sự, điều cần thiết phải nhắc lại là Á-châu, nhất là vùng Đông-Nam, không quan tâm lắm về những trò chơi đó rốt cuộc vô bổ.

            Trong khi tại vùng Đông Á-châu, Thế chiến Thứ hai đã kéo dài lâu nhất  <từ 1937 đến 1945> và bảng tổng kết sự mất mát nhân sự của cuộc chiến tranh lạnh là khủng khiếp nhất  <nhất là những cuộc chiến tranh tại Hàn-quốc và tại Đông-dương> , một “nền hòa bình á-châu” dường như được ưa chuộng kể từ những cuộc chiến từ 1978-1979  <cuộc xâm lăng Cambodge của Việt Nam, cuộc chiến Tầu-Việt nam>.  Nó thường được giải thích qua những mối tương quan liên hệ kinh tế gia tăng, qua cách dìn giữ quyền bá chủ Mỹ, nguồn gốc sự thăng bằng và trật tự, và qua  những tính chất đặc biệt vùng về những nền ngoại giao mềm dẻo và đa dạng,  nhất là nền ngoại giao của khối Asean  <Association of South East Asia Nations,  Association des nations d’Asie du Sud-Est>. Điều này không ngăn được, tại Trung-quốc, sự lớn mạnh về quyền lực của một bài diễn văn “chuyên á-châu”.[1]  Do vậy, sự xâm nhập của phương Tây có thể mang đến chủ nghĩa thực dân và chiến tranh.  Sự trở lại của nền quyền lực Tầu sẽ cho phép tái tạo trật tự thứ bực chú trọng vào quá khứ Tầu,  hiền hòa hơn, và không có sự can thiệp của “phương Tây” vào nội bộ các Quốc gia. Thứ trật tự chính đáng sẽ không dẫn dụ một chính sách thăng bằng  “theo cách phương Tây” của các quốc gia ‘nhỏ bé”, ý nói tới quyền bá chủ Pháp, Đức hay Sô-viết đã đưa đến việc các Quốc gia khác liên minh với nhau.  Từ đó Xi Jinping kêu gọi thiết lập một “nền tảng mới của nền an ninh vùng”.  Sự tranh đua Mỹ/Trung-cộng nhằm vào bản chất thứ trật tự tại Á-châu và sức mạnh bá quyền sẽ bảo đảm nền trật tự đó.

            Trật tự vùng kể từ 1945, và hơn nữa kể từ cuộc chiến tranh Hàn-quốc năm 1950, là một thứ trật tự bị áp đặt bởi hệ thống  những căn bản và liên minh song phương của   Mỹ. Kinh tế và an ninh liên kết chặt chẽ với nhau, bởi vì Nhật-bản,  bị loại ra khỏi thị trường Trung-cộng, đã lấy được thị trường lớn lao của Mỹ kể từ những năm 1950.   Chiến tranh Việt Nam xẩy ra phần lớn để bảo đảm tính cách đáng tin cậy của những liên minh đó, và để dìn giữ cho Nhật-bản nguyên liệu sản xuất và thị trường tiêu thụ.   Trong những năm 1980, Việt-Nam đã thắng những cuộc chiến chống Pháp kế đó chống Mỹ, kể từ đó dường như cảm thấy thua thiệt : thật vậy, những quốc gia kỹ nghệ Mới xuất hiện <NPI, Nouveaux Pays Industriels>  rất phồn thịnh, tiến tới việc tự dân chủ hóa.   Người Mỹ có thể đánh giá sự “hy sinh” của họ tai Việt Nam đã đưa đến phép lạ đó. bởi vì họ đã dành cho các đồng minh của họ thời gian để tự phát triển về kinh tế, và chứng minh là phương thức phát triển của họ hữu hiệu hơn chủ nghĩa cộng sản.  Nếu họ có điều lo về sự phát triển mạnh mẽ của Nhật-bản và tập trung vào Á-châu  <Nhật-bản xuất cảng sang Á-châu năm 1990 vượt quá số xuất cảng sang Mỹ>,  họ vẫn lợi dụng quỹ tiết kiệm để mang nợ và tiếp tục tiêu thụ.   Mặc dù sự lo lắng của nhiều quốc-gia vùng, người Mỹ vẫn không bỏ rơi vùng Đông-Nam- Á-châu  sau cuộc chiến tranh Việt Nam, ngay cả sau cuộc chiến tranh lạnh  {Grosser, 2012}.

            Người Mỹ luôn luôn lo sợ bị loại khỏi Á-châu và nhìn với con mắt nghi ngờ mọi hình thức hội nhập kinh tế vùng sẽ nhắc lại cái “khối Á-châu” của người Nhật trong những năm 1931-1945, và mọi diễn văn, giống như bài của Xi Jinping, về “Á-châu của người Á-châu”.   Những chiến lược được bàn cãi từ nhiều năm nay tại Mỹ để đối diện với những khí giới và chiến lược “chống xâm nhập” của Trung-cộng, phản ảnh mối lo sợ ít nhất không còn là bá quyền và tệ nhất là bị loại khỏi Á-châu nơi trở thành cần thiết cho sự phồn thịnh và giữ được “lối sống của người Mỹ”. Hơn nữa, nước Mỹ tự coi là cần thiết để đối diện với  những sự rút lui và căng thẳng quốc gia và để hỗ trợ sự phát triển kinh tế. Thí dụ sẽ cần phải đặt cược vào một Việt Nam “ảnh hưởng biển”, có lịch sử lâu đời  <hội nhập vào những hệ thống trao đổi liên quốc gia, và không phải là một cường quốc hâi quân chưa bao giờ hình thành> ; những người hứng khởi nhất gợi ý một Saigon Lớn “sao y Singapour”, để đương đầu với Trung-cộng, địch thủ và kẻ áp bức trong lịch sử Việt Nam {Kaplan, 2014}.

            Cuộc bình thường hóa ngoại giao với Việt Nam khởi đầu có tấm vóc tình cảm, trước khi bàn cãi về những tầm vóc kinh tế sau đó chiến lược của mối quan hệ song phương.  Tầm vóc chiến lược đó gợi hứng cho người Mỹ kêu gọi tiến tới một liên minh với Hanoi. Nhưng điều này không chắc lắm.

Từ cảm tình tới địa chính trị

Sự bình thường hóa bị vấn đề những  POW/MIA [2] làm chậm lại

            Có lẽ đã có những dịp bị bỏ qua cho việc bình thường hóa sớm hơn những quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, sau một cuộc chiến tranh dài và gây nhiều chết chóc, trước hết đối với Việt Nam. Nhưng cái giá chính trị phải trả cho sự bình thường hóa đó quá cao, cũng như việc Mỹ và Trung-cộng trừng phạt Việt Nam đã xâm lăng Căm-bốt năm 1979 và dường như họ là một quân cờ của Moscou.  Trong những năm 1980, người Mỹ đã nghĩ tới điều họ mới chính là những nạn nhân thật sự của cuộc chiến, và nhất là những cựu chiến binh họ cần phải tôn vinh từ đó. Năm 1991, Quốc hội ra lệnh lá cờ đen của những POW/MIA  <Prisoners of War/Missing in Action> phải được treo trên mọi tòa nhà hành chánh. Vấn đệ đó cho phép tố cáo sự phản trắc và sự tàn bạo của cộng sản, và minh chứng cuộc chiến trước đó.

            Sau khi tuyến bố “hội chứng Việtnam” đã hoàn toàn biến mất với chiến thắng cuộc chiến Vùng Vịnh,  George H. Bush thiết lập một chương trình cho việc bình thường hóa. Nhưng ông bị chỉ trích về vấn đề những POW/MIA, điều này đã làm ông bị thất cử vào tháng 11/1992.  Về phần Clinton đưa ra ý kiến là bỏ cấm vận sẽ đạt được nhiều tin tức, dù lúc đó không còn tù binh nữa.  Trái lại, một cuộc buôn bán khá ghê rợn đã bị phát giác về những xác người MIA đôi khi là những xác giả  {Wagner, 2015}.  Mỹ-quốc cảm thấy  có bổn phận phải cho hồi hương những xác người  và họ thương lượng với Hanoi mở rộng những vùng tìm kiếm.  Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam,  Douglas Peterson,  là một cựu tù binh.  Ông nhận chức tại Hanoi năm 1999.  Bill Clinton viếng thăm Việt Nam năm 2000.  Trí nhớ về chiến tranh Việt Nam nguội lạnh dần :  những tổng thống đã tránh nhắc tới đều được bầu  <Bill Clinton, George W. Bush, trong khi một cựu anh hùng dù đã trở thành người đối lập chiến tranh  <John Kerry>,  và một cựu tù binh  <John McCain> đều bị loại.

Sự giao hảo qua thương mại

            Sư bình thường hóa và sự giao hảo đều có tính cách hợp lý của chúng.  Chúng không xen vào trong một viễn tưởng hay một chiến lược đặc biệt đối với Á-châu.  Về phía Việt Nam, họ muốn cho Trung-quốc biết  rõ, để tránh việc Bắc-kinh coi việc đó như một chiến lược trong sự bình thường hóa.  Sự cấm vận kinh tế của Mỹ chấm dứt từ 1994.  Kể từ 2001 Việt Nam thụ hưởng được điều khoản quốc gia được ưu đãi nhất,  và Mỹ dễ dàng cho Việt Nam gia nhập Tổ chức thế giới về Thương mại  <OMC, Organisation Mondiale du Commerce>  năm 2007.  Về phía Mỹ, sự gây sức ép của các hãng lớn có một vai trò quan trọng, trong khi những hội đoàn bảo vệ nhân quyền đã làm chậm lại sự phê chuẩn thỏa hiệp thương mại song phương.  Về phía Việt Nam, sự đàm phán thỏa hiệp đó đã gây ra những căng thẳng nội bộ, phá tung “ổ khóa” bảo thủ và quân sự cứng nghắc trong những năm 1998-1999  {Eliott, 2012}, và mở rộng đường gia nhập OMC.  Dần dần nước Mỹ trở thành một đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam. Hãy còn phải đàm phán về một thỏa hiệp song phương về vấn đề đầu tư.  Hanoi mong muốn nhất thoát ra khỏi loại kỳ thị “non market economy”  <không có thị trường kinh tế >, nhưng Trung-quốc cũng bị nằm trong loại đó,, hậu quả của GATT <General Agreement on Tariffs and Trade,  Thỏa thuận tổng quát về giá cả và thương mại>   và của US Trade Act <Luật thươmh mại của Mỹ>  năm 1974.

Sau năm 2003, một loại chiến lược hợp lý mang âm hưởng chống Tầu

            Cái nhìn của người Mỹ về Việt Nam trở nên có tính cách chiến lược hơn kể từ năm 2003. Cái “vấn đề Trung-quốc”  trở thành nỗi ám ảnh trong mọi cuộc bàn cãi về chiến lược của Mỹ kể từ cuối những năm 1990 , Trễ hơn sau đó Việt Nam nằm trong cảnh quan này.  Thật vậy, những điểm nóng có thể đưa tới một cuộc chiến tranh tại Á-châu, và đưa nước Mỹ tới những lựa chọn bi đát, trước hết xẩy ra tại Đông Bắc Á-châu <Hàn-quốc, những căng thẳng Tầu-Nhật> và tại Đài-loan. Nhưng kể từ đó, vùng Đông Nam Á-châu và nhất là vùng biển Nam-hải được coi là vùng có  nhiều căng thẳng có thể suy thoái dễ dàng.  Không nên coi trọng thái quá sự vô tâm của Chính quyền  Bush về vùng này.  Họ cảm nhận được nỗi lo lắng của Việt Nam đối với Trung-quốc, trong khi nước Mỹ cũng đang chú tâm về những vấn đề Trung-đông.  Vào tháng 11, 2003, đã có cuộc viếng thăm của chiến hạm đầu tiên thuộc Hải-quân Mỹ trong cảng Saigon kể từ năm 1975.  Chủ tịch Phan Văn Khải sang thăm nước Mỹ vào tháng 6, 2005.  Bush viếng thăm Việt Nam năm 2006 để dự cuộc họp của tổ chức APEC  <Asia-Pacific Economic Cooperation, Hợp tác kinh tế vùng Á châu- Thái Bình Dương>. Thật ra Việt Nam là nước duy nhất của vùng Đông -Nam-Á-châu thụ hưởng chương trình PEPFAR  <President Emergency Plan for AIDS Relief> , kế hoạch đầy tham vọng giúp đỡ chống lại hội chứng AIDS sida.,  trong khi hệ thống y-tế Việt Nam tỏ ra khá vửng vàng, và đáp ứng đúng SRAS, <Syndrome Respiratoire Aigu Sévere, Hội chứng hít thở rất nặng>  và dịch cúm gà.

            Chỉ còn việc viết lại một lịch sử chính xác về những quan niệm “nền móng” và “rebalancing” <tái cân bằng>  trong Chính phủ Obama, được biết mối ưu tiên dành cho Á-châu sau những cam kết trong vùng Đại Trung-đông.  Các Bộ Ngân khố và Thương mại nhấn mạnh về sự phụ thuộc lẫn nhau với Trung-quốc.  Hillary Clinton và người phụ tá  Kurt Campbell đã tin tưởng tuyệt đối vào sự quan trọng của Á-châu ; ngay năm 2009, bà Bộ trưởng Ngoại giao tuyên bố nước Mỹ đã “quay trở lại” về Đông Nam Á-châu.  Tòa Nhà Trắng không phải la nơi cuối cùng,  với vị “tổng thống đầu tiên của vùng Thái-Bình-dương” qua lịch sử cá nhân của ông có liên hệ với Hawai và Nam-Dương, và vai trò thiết yếu của Tom Donilon, nhân vật số 2 của Nhóm An ninh Quốc gia, đã  đặt Á-châu lên hàng đầu chương trình nghị sự.  Trong thế giới quân sự, nhiều cơ quan chuẩn bị cho chương trình dài hạn để thi hành tại Á-châu.  Sự “rebalancing” trở thành một bài diễn văn chiến lược trong những năm 2011-2012 và là vấn đề ưu tiên cho nhiệm kỳ thứ hai của Obama, dù cho những nhân vật đó có rời khỏi chính quyền.  Nếu Bắc-Kinh có nhận ra đó là cách ngăn chặn Trung-quốc, một trong những mục tiêu là để cho thấy sau khi đã triệt thoái khỏi Irak và Afganistan, nước Mỹ không từ bỏ những  “trách nhiệm” của họ và không bỏ rơi đồng minh. Ngoài việc bố trí lại giàn tầu chiến Mỹ, những cột trụ của  “rebalancing” là : gia tăng phối hợp với những đồng minh cố hữu  < Hàn-quốc, Nhật-bản, Phi-luật-tân, thêm cả Thái-lan và Tân-Gia-Ba>,  và gia tăng hợp tác với Ấn-độ, Nam-dương, Việt Nam và Miến-điện, những mối quan hệ có tính cách xây dựng với Trung-quốc, và một giao ước với những tổ chức vùng  <Asian, East Asian Summit>  mà Washington muốn củng cố hơn nữa.

            Nhiều giai đoạn quan trọng đã được thực hiện trong những mối liên hệ với Việt Nam.  Nhiều cuộc tiếp xúc giữa những nhóm quân sự thường xuyên hơn.  Đại tướng Dempsey, tham mưu trưởng liên quân, đã tới thăm Việt Nam tháng 8/2014.  Một thỏa hiệp về nguyên tử dân sự được sơ thảo vào mùa xuân 2014.  Những người ủng hộ nhấn mạnh đến kết quả tốt của Việt Nam về vấn đề chống tăng trưởng <phê chuẩn hiệp ước TNP năm 1992 và thủ tục thêm vào sau đó năm 2007>.  Gỡ bỏ một phần lệnh cấm vận về vũ khí, đặt ra từ 1976, được loan báo, nhưng chỉ để củng cố sự bảo vệ ven biển.  Hanoi đòi hỏi mọi loại vũ khí sát thương trong phần cấm vận.  Thượng nghị sỹ McCaine và một số nghị viên đảng Cộng hòa “diều hâu” đẩy mạnh ý tưởng này, để đối đầu với mối “đe dọa Tầu”, vừa muốn kèm theo điều kiện cho việc cung cấp vũ khí với sự tiến triển trong lãnh vực nhân quyền – điều họ bỏ qua cho quốc gia Arabie saoudite và các nước vùng Vịnh. Nhiều nghị sỹ mong muốn có một hiệp ước thật sự với Việt Nam, cuộc thăm viếng của Obama nặm 2015 để kỷ niệm hai mươi năm bình thường hóa ngoại giao, và khai mạc một đại học Fulbright tại Thành phố Hồ -chí -Minh : dĩ nhiên Việt Nam là một thể chế độc tài, nhưng nhẹ hơn Miến-điện, và họ có nhiều lợi ích chiến lược {Kurlantzick, 2014}.

            Những căng thẳng giữa Trung-quóc và Việt Nam sẽ hợp thành một cơ hội tốt đẹp.  Mục tiêu là ngăn chặn biển Đông trở thành vùng Caraibes của Trung-quốc, với một “chủ thuyết Monroe” của Tầu bảo đảm cho họ một “thế giới dành riêng”.  Đằng sau cái Bắc-Kinh gọi là “sự sắp xếp lại chiến lược biển phía Nam Trung-quốc”, số đông nhà phân tích và chiến lược Mỹ nhận thấy cuộc theo đuổi chính sách ngự trị trên không gian hàng hải đó trong thời bình, và sự cố gắng ngăn chặn Mỹ, cường quốc toàn cầu với quyền lợi toàn cầu, thiết lập căn cứ ở mọi nơi họ sẽ có một sứ mạng phải hoàn thành.  Bắc-Kinh nhận thấy trong cái mưu đồ đó một ý chí bá quyền, và Washington, trong những hoạt động của Trung-quốc, là  một “nền ngoại giao đầy đe dọa”,  một cách cư sử  “áp bức tùy nghi” và một “chiến thuật theo món xúc xích’  <canh chừng mỗi Quốc gia trong vùng và kích động sự chia rẽ những quốc gia khác> đối với những Quốc-gia thuộc Đông-Nam-Á châu. Trung-quốc chủ trương dậy nhiều bài học cho những Quốc-gia nhỏ bé đó và chỉ ra cái giá phải trả cho sự thân thiện với Mỹ.  Những cảm tính chống Tầu dường như cứng rắn hơn tại Việt Nam kể từ năm 2005.  Những  căng thẳng tại phía Nam biển Trung-quốc, đối với Việt Nam là “biển Đông”,  ngày càng mãnh liệt hơn : như vậy vào mùa xuân 2014, Trung-quốc toan tính khoan  dầu hỏa gần quần đảo Trường-Sa với nhiều dụng cụ to lớn và nhiều tầu bảo vệ.  Nhiều cuộc nổi dậy gọi là “chống Tầu” đã xẩy ra với gấn hai mươi người chết tại Việt Nam ; chúng không chỉ chuyên chống người Tầu của Cộng Hòa Nhân Dân Trung-quốc nhưng còn chống cả những người của Đài-loan, cho tới người Nam Hàn.  Nhiều  trang mạng điện tử ngày càng nhiều đòi hỏi giảm thiểu sự lệ thuộc vào Trung-quốc, cho tới sự rõ ràng chống Tầu,  Tinh thần quốc gia của người Việt tỏ ra hung hãn chỉ với Trung-quốc.  Thể chế chính quyền, không làm lễ kỷ niệm  trận chiến năm 1979, và mềm mỏng với Bắc-Kinh, thật sự có thể bị coi như là phản quốc.  Vậy tinh thần quốc gia có thể trở thành một vũ khí chống cộng như hồi xưa trong khối cộng sản Âu-châu.  Điều này gây khó khăn cho chính quyền trong việc chơi trò giải pháp quốc gia chống Tầu, đó chính là giải pháp mà những người nắm giữ chính sách Mỹ bao vây Trung-quốc chờ đợi để củng cố những mối liên hệ với Việt Nam chống Trung-quốc.  {Vu, 2014}

Những giới hạn của một sự giao hảo :  kích thước kinh tế và ý thức hệ

Những mối khó khăn của tổ chức  Trans-Pacific Partnership

            Á-châu nhập vào khá muộn màng kỷ nguyên những thỏa-hiệp song phương về sự trao đổi mậu dịch,  nhưng  chúng đã được nhân lên gấp nhiều lần trong những năm 2000.  Trung-quốc và Nhật-bản cạnh tranh nhau để ký kết những thỏa ước như vậy với khối Asean.  Kể từ đó, công việc quan trọng là  tổ chức  Trans-Pacific Partnership  <TPP –  Các nước đối tác có quan hệ chính trị, kinh tế  Liên-Thái Bình Dương>.  Nước Mỹ đã bắt đầu thương thảo với những quốc gia giầu có kinh tế hai bên bờ Thái-Bình-Dương, không còn phải tiếp tục cuộc chạy đua tìm kiếm những thỏa hiệp  song phương  <cái “chén mì sợi” nổi tiếng, có nghĩa là sự rối mù rắc rối của những thỏa hiệp song phương về sự trao đổi-mậu dịch>,  nhưng để tìm những “thỏa thuận về thương mại với những vùng rộng lớn” sẽ làm biến đổi địa lý những thỏa thuận gán ghép, với nước Mỹ ở trung tâm hai siêu trò chơi đó,  Đại-tây-dương  <tổ chức TTIP Các nước đối tác liên đại-tây-dương về thương mại và đầu tư>  và Thái-Bình-Dương <tổ chức TPP>  Đối với những người phụ trách tổ chức TPP tại Washington,  việc bao gồm Việt Nam trong tổ chức sẽ bảo đảm là những cải cách kinh tế sâu xa trong nước sẽ được ghi trong nghị trình đúng thời hạn,  và làm giảm thiểu thuế hải quan rất quan trọng trong các nước thành viên TPP đối với những sản phẩm của Mỹ.

            Bộ Nông-nghiệp Mỹ thừa nhận khu vực nông nghiệp Việt Nam không được hưởng lợi gì. Thí dụ cà-phê và cao-su sẽ không được kích thích, bởi vì Việt Nam đã thừa hưởng nhiều thỏa thuận ưu tiên đối với những mặt hàng xuất khẩu.  Việt Nam chú ý đến những sản phẩm nông nghiệp OGM  <Organisme Génétiquement Modifie, cấu chúc gien di truyền bị thay đổi>  và de facto <thật ra> ngô bắp nhập cảng từ Bresil hay từ Mỹ đã chứa đựng chất này.  Nhưng những nhà đấu tranh chống OGM tại Mỹ và Việt Nam cho đó là một loại “độc chất mầu Da cam mới”,  cũng là chính cơ xưởng Monsanto đã sản xuất “Độc chất Da cam” ngày trước và chất kia ngày nay. Hơn nữa hàng triệu lít thuốc diệt cỏ đã được thả xuống trong chiến tranh,  và tác hại của nó còn nghiêm trọng đối với sức khỏe của dân Việt Nam tại một số vùng.  Những đề xuất tư nhân Mỹ  <nhất là những chương trình của cơ quan tài trợ Ford>  ngày nay còn cố gắng đối diện với di sản đó  {Laderman và Martini, 2013}.

            Tại Mỹ,  những điều quan ngại đối với một thỏa hiệp thương mại với Việt Nam còn rất nhiều.  Nhiều nghiệp đoàn và hội đoàn bảo vệ nhân quyền chỉ ra những yếu điểm của những tiêu chuẩn Việt Nam trong lãnh vực quyền lao động hay quyền lao động của trẻ em. Những loại vải và quần áo mà Việt Nam xuất cảng tùy thuộc rất nhiều vào những  inputs  <đóng góp> củaTầu, vấn đề này đưa ra câu hỏi về “yarn forward the rule of origin” <luật lệ về nguồn gốc từ sợi vải>, muốn là những sản phẩm, để được hưởng một nhập khẩu miễn thuế, chỉ được sử dụng những sản phẩm gốc nguyên thủy từ những xứ đã ký kết thỏa thuận thương mại,  Hai Viện  <Thượng và Hạ viện> , đã được nền kỹ nghệ xe hơi thỉnh cầu, đều muốn tổ chức TPP xem xét vấn đề tỉ suất hối đoái,  và vậy sự ước lượng dưới giá trị các loại tiền tệ đã làm những hàng xuất khẩu Á-châu dễ cạnh tranh hơn.  Họ cũng gợi ra vấn đề những hãng xưởng Quốc doanh và sự kiểm soát an toàn những hải sản xuất khẩu.  Vấn đề cuối cùng này đã đưa đến những cuộc chiến hào hứng về phần những nhà sản xuất  catfish  phía Nam Hoa-Kỳ : đối diện với sự cạnh tranh của Việt Nam,  họ đã vận động để Việt Nam không thể gọi cá của họ là  catfish,  sau đó họ tố cáo Việt Nam làm phá giá. Cuộc chiến này cho thấy đến mức nào đôi khi người Mỹ áp đặt những luật lệ cho người khác nhưng rất sẵn sàng bỏ qua việc này  {Laderman và Martini, 2013}.  Nhưng những nhà sản xuất  “toàn cầu” giầy thể thao như Nike và những nhà nhập cảng quần áo rẻ tiền phải cần đến một thỏa hiệp.

            Tổ chức TPP,  nếu nó được ra đời, sẽ không phải là một hình thức liên minh mới.  Nó sẽ không ngăn cản việc theo đuổi sự hội nhập nền kinh tế vùng tại Á-châu.  Cộng đồng kinh tế của Asean phải có hiệu lực ngay năm 2015.  Việt Nam tham gia dự án  RCEP  <Regional Comprehensive Economic Partnership,  Đối tác kinh tế toàn diện vùng>  với ít tham vọng  hơn.và bao gồm khối Asean,  Úc-đại-lợi,  Trung-quốc,  Án-độ,  Nhật-bản, Tân-tây-lan và Nam-Hàn. Việt Nam thương lượng một thỏa thuận tự do mậu dịch với Cộng-đồng âu-châu, với nhiều khó khăn vì những đòi hỏi về lãnh vực nhân quyền.  Việt Nam vừa mới đạt được hai thỏa thuận trong tháng mười hai 2014 : một với Nam-Hàn và một với Cộng-đồng kinh tế âu-á [3]. Về phần Hoa-kỳ đã có những thỏa thuận tự do mậu dịch với nửa số thành viên tiềm tàng của TPP ; nhưng họ chưa có với Nhật-bản,  và trọng tâm của quá trình thì đúng là sự thương lượng giữa Washington và Tokyo, cũng bao gồm cả Canada và Mẽ-tây-cơ trong tổ chức TPP.

Một sự  “phát triển trong  hòa bình”  của Việt Nam ?

            Kể từ cuối những năm 1980,  các lãnh tụ Việt Nam lo sợ Mỹ-quốc muốn thay đổi thể chế chính trị của họ. Các nhà lãnh đạo đó đã lập lại chủ đề sự “phát triển trong hòa bình” được Trung-quốc sử dụng ở đầu những năm 1990 : vì đã không thành công  trong việc chế ngự các Quốc-gia cộng sản bằng vũ lực người Mỹ sẽ tìm cách dìm họ trong thương trường và trong lý tưởng của họ, Theo nước Mỹ nghĩ diều này đã thành công  ở Đông-Âu . Giống như Hanoi thử “lèn cho chặt” những vấn đề đất đai trong mối liên hệ với Trung-quốc , mặc dù những phản ứng bình dân,  sự “lèn cho chặt” đó có thể xẩy ra đối với những vấn đề nhân quyền liên hệ với Hoa-kỳ,  mặc dù những phản ứng của cán bộ Đảng : những vấn đế đất đai sẽ không làm hại gí mối liên hệ với Trung-quốc,  và những vấn đề nhân quyền không hại gì mối liên hệ với Koa-kỳ.  Trên mạng lưới của tòa đại sứ Hoa-kỳ tại Hanoi, thật vậy ưu tiên dành cho nhũng bản tường trình có xếp hạng Việt Nam trong những lãnh vực tôn trọng nhân quyền ,  tư do tôn giáo,  hay sự đấu tranh chống lại việc buôn bán người.  Người ta biết rằng việc Mỹ hóa những tiêu chuẩn và hành động không thể chỉ được thực thi bằng việc xuất cảng do các tác nhân Mỹ tổ chức, nhưng cũng do sức mạnh việc nhập cảng của Mỹ.  Việt nam sẽ thay đổi rất đơn giản là để đạt được thị trường Mỹ,  cần thiết để bù lại sự thiếu hụt thương mại khổng lồ với Trung-quốc. 

            Về vấn đề nhân quyến,  giới ngoại giao Mỹ có cảm tưởng là thể chế Việt Nam thi hành những điệu bộ vặn vẹo quen thuộc,  với những nhượng bộ làm đẹp và những hứa hẹn chình thức nhưng không đụng vào sự điều hành của chế độ.   Những tổ chức ONG  <Organisation Non Gouvernementale, tổ chức từ thiện tư nhân>  lớn lao chỉ mới đặt chân đến Việt Nam.  Vào tháng ba 2013,  một phái đoàn của Amnesty International USA <tổ chức ân xá quốc tế Mỹ>  được mời tới,  theo một năm sau là những đại diện của ban điều hành tổ chức .Năm 2013, Việt Nam ký Quy- ước Liên Hiệp quốc về sự tra tấn.  Nhưng có một số đông những trường hợp nổi tiếng làm kết tinh những ý kiến tiêu cực tại Thượng-viện Mỹ.  Kết quả là thể chế Việt Nam rất giỏi trong việc thả người hay bắt giam những người chống đối tùy thuộc vào thời gian chiến lược.  Một sự nhân nhượng trong lãnh vực nhân quyền có thể là một điều kiện để được sư nâng đỡ của Mỹ đối với Trung-quốc : Không nghi ngờ gì nó cũng là  một trong những tính tóan của chế độ quân phiệt Miến-điện.  Vấn đề tự do tín ngưỡng trở thành trọng tâm của nền ngoại giao Mỹ vào cuối những năm 1990. Năm 2004, năm bầu cử, tổng thống Bush đặt Việt Nam  <cùng với xứ Arabie saoudite>  trên danh sách những CPC,  Countries of Particular Concern  <những quốc gia phải quan tâm đặc biệt>.  Danh sách CPC được gỡ bỏ vào tháng mười một 2006,  vào thời điểm Bush viếng thăm Việt Nam : nhưng ông công khai tham dự một buổi lễ tôn giáo.  Vào cuối năm 2014,  Ted Osius,  một trong những  sáng lập viên hội những người đồng tính của Bộ Ngoại giao, đã được chính thức chị định vào chức đại-sứ tại Việt Nam.  Ông trải qua chủ yếu sự nghiệp của ông tại Á-châu,  và đã có một vai trò quan trọng  những năm 1995-1997 thời gian tái tạo những liên hệ ngoại giao với Hanoi.  Cùng thời gian đó,  Việt Nam bãi bỏ lệnh cấm những cuộc hôn nhân của người đồng tính,  và trở thành quốc gia tự do nhất Á-châu trong lãnh vực quyền lợi của hội LGBT  <Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender, bao gồm những cặp đôi con gái, cặp đôi con trai, người có hai giới tính, người chuyển giống> ,  đã là cuộc đấu tranh mới của nền ngoại giao Mỹ.  Chắc chắn là quan trọng để thu hút du khách.  Có một hội Viet Pride tại Hanoi từ năm 2012,  nhưng nguồn gốc của  sự đòi hỏi đó có lẽ đến từ Đức-quốc và Thụy-Điển.

Những giới hạn của sự giao hảo chiến lược với Hoa-kỳ

Những giới hạn của tính chất đối tác với Hoa-kỳ

            Việt Nam chỉ là một mảnh của trò chơi  gán ghép vùng : người Mỹ ở đúng vị trí để nhìn rõ không nên quá coi trọng sự việc.  Biển Đông Nam Trung-quốc còn xa mới là hồ sơ Á-châu được Mỹ quan tâm.  Trong những năm Obama,  trước tiên chính Nam-Dương trong vùng Đông Nam Á đã thu hút sự chú ý,  kế đó là Miến-điện,  và nhất là Phi-luật-tân và ngay cả Mã-lai đã chủ tọa hội Asean năm 2015 và trở thành hội viên không thường trực của Hội đồng Bảo an.  Thật sự Việt Nam không thể dựa vào một nhóm gây áp lực tại Washington, trong khi những cạnh tranh của các nước Á-châu đều diễn ra trong thủ đô Hoa-Kỳ  [Calder, 2014].  Có 1,3 triệu người Việt sống tại Hoa-Kỳ,  phần đông đến trước 2000,  và sống đông đảo trong những thành phố lớn của Californie và Texas.  Năm 2014,  Viet Xuan Long trở thành vị tướng đầu tiên của Quân đội Mỹ gốc Việt Nam.  Nhưng sự thành công của người Việt tại Hoa-Kỳ không thể so sánh được với sự thành công của những người Á-châu khác,  Ấn-độ hay Tầu,  hay với tài tổ chức của người Hàn-quốc.  Dù sao những cuộc chuyển tiền của họ cho Việt Nam tượng trưng hơn 11 tỷ đô-la.

             

            Chủ thuyết bài Mỹ đã giảm thiểu trong số lớn các nước Đông-Á-châu.  Hình ảnh tốt đẹp của Hoa-kỳ tại Việt Nam thật ra không hẳn là  một điều đặc biệt.  Cũng vậy, Việt Nam giống như số lớn những quốc gia Á-châu nghĩ là Trung-quốc sẽ nhanh chóng trở thành cường quốc lớn nhất.  Những cuộc nghiên cứu về dư luận quần chúng chứng minh là sự lo ngại đối với Trung-quốc không tạo ra một cách máy móc chủ thuyết thích Mỹ.  Phần lớn các quốc gia Á-châu chấp nhận sự  rebalancing Mỹ đã gợi ra vừa những kỳ vọng, nhưng cũng vừa sự lo ngại Washington hành dộng một cách quá đơn phương, và khiêu khích.  Họ thụ hưởng một trật tự vùng và quốc tế mà Hoa-kỳ dường như là người bảo đảm,  và họ góp sức, vừa tiếp tục hưởng thụ,  xây dựng nó và hợp thức hóa nó.

            Việt Nam chỉ là một “đối tác toàn cầu” đối với Mỹ được ký vào năm 2013, giống như cái đã ký với Úc-đại-lợi.  Ngược lại,  có những “đối tác chiến lược” với nhiều quốc gia âu-châu, Nhật-bản, Ấn-độ, Nam Hàn, Nam-dương và Thái-lan,  và hai “đối tác chiến lược toàn cầu” với Nga và Trung-quốc.  Việt Nam vẫn trung thành với chủ thuyết “ba không”, không chính thức liên minh, không có căn cứ quân sự ngoại quốc, không sử dụng một quốc gia thứ ba chống lại một Quốc gia  Do vậy, chắc là người Mỹ sẽ không trở lại Cam Ranh mà nước Nga đã rời khỏi quá sớm năm 2002, dù là chủ thuyết mới của Mỹ là  “places not bases” giảm thiểu tác động một sự  trở lại  có thể xẩy ra.  Mạc-tư-khoa và Hanoi cũng đã đồng ý với nhau vào tháng mười một 2014 là hải quân Nga sẽ tiếp tục viéng thăm hải cảng mà Hoa-kỳ đã tập trung thái quá mọi sự chú ý trong những năm 1980;  chính sự giúp đỡ của Nga đã hoàn thành sự tu bổ chấn chỉnh hải cảng đó.

            Nếu sự viếng thăm nhiều lần của các nhân vật quân sự cao cấp Mỹ   <như viên tư lệnh hạm đội Mỹ vùng Thái-bình-dương vào tháng mười hai 2014>,  thì viện trợ quân sự Mỹ lại rất giới hạn : dưới một triệu đô-la để huấn luyện lính tuần tra ven biển Việt Nam,  trong khi Nga tượng trưng 80% phần nhập cảng vũ khí từ hai mươi năm nay.  Chính nước Nga cũng phải đóng góp cho việc xây dựng  trung tâm nguyên tử đầu tiên của Việt Nam.  Việt Nam đã là một trong số  những quốc gia chịu nguy hiểm nhất của tin tặc  <nhất là về phần Trung-quốc> , người Mỹ đã hứa sẽ giúp đỡ,  nhưng người ta không thể hiểu nổi một thể chế đã giới hạn sự tự do về mạng lưới Internet lại có thể giao cho người Mỹ việc bảo vệ cơ sở hạ tầng của mình.  Người Mỹ nhắc lại là họ không thúc đẩy Việt Nam gia tăng những mối liên hệ quân sự và họ chỉ chờ nghe xem Việt Nam muốn gì,  nhưng Hanoi lại có cảm tưởng là người Mỹ muốn đi quá nhanh và điều đó có thể khiêu khích Bắc-kinh.

            Sẽ không có liên minh chính thức,  nhất là để chống lại Trung-quốc . Việt Nam không muốn quá lệ thuộc vào một đồng minh , như trường hợp đối với Trung-quốc trong những năm 1950-1960  và Liên-sô trong những năm 1980, dù là sau cùng,  nếu  RDVN <Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam>  đã khá khéo léo thao túng “quan thầy” của họ và đưa vào sự cạnh tranh giữa Mạc-tư-khoa và Bắc-kinh.  Khi xẩy ra sự “trừng phạt” do Trung-quốc khởi xướng năm 1979,  Việt Nam đã không thể dựa vào người đồng minh Liên-sô.  Cũng từng xẩy ra “vấn đề phức tạp Geneve” tương đương với “vấn đề phức tạp Yalta” phải hiểu là các cường quốc thông đồng với nhau uy hiếp những nước nhỏ,  như là RDVN đã chắc chắn trải nghiệm điều đó  trong hội nghị Geneve năm  1954.  Nếu người ta thêm vào “cú sốc Nixon” mà Nhật-bản và Đài-loan đã trải qua,  Hoa-kỳ và Trung-quốc rõ ràng đã giao hảo với nhau trong những năm 1970,  khả năng có sự thông đồng Trung – Mỹ trong vùng mà những “nước nhỏ” phải chịu bị chèn ép.  Các nhà lãnh đạo Việt Nam coi những cuộc tấn công của Tầu năm 1974 vá 1988 vào các đảo đang tranh cãi đều xẩy ra khi các cường quốc  “Mỹ kế đó Liên-sô” bỏ rơi đồng minh Việt Nam của họ để thân thiện với Trung-quốc.  Những bài diễn văn về “sự hợp tác Trung-Mỹ” hay là nhóm G2 gần năm 2010 cho thấy có khả năng này.  Vì vậy, một liên minh rõ ràng hơn với Washington sẽ gây ra hai bệnh lý truyền thống,  sự lo sợ bị đồng minh lôi cuốn quá xa,  và sự lo sợ bị đồng minh bỏ rơi.

…liện hệ với nền ngoại giao Việt Nam đa-phương

            Vậy mục tiêu từ hai mươi năm năm nay là  “thay đổi và đa phương hóa những quan hệ kinh tế”.  Để không bị gạt ra ngoài khu kinh tế thì phải chấp nhận sự lệ thuộc lẫn nhau,  bằng cách lợi dụng tính năng động kinh tế vùng.  Năm 1993, Việt Nam gia nhập các thể chế “tây phương”,  tổ chức FMI < Fonds Monetaire International, quỹ tiền tệ quốc tế>,  Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển Á-châu.  Năm 1995,  Việt Nam trở thành hội viên Asean,  một tổ chức được thành lập phần lớn vì lo sợ  chủ thuyết  bành trướng của Việt Nam.  Kể từ đó, họ có thể sử dụng “nguồn năng lực tập thể” để củng cố “môi trường” vùng,  làm chủ thuyết quốc tế hóa riêng của họ dễ dàng thực hiện,  tiến tới việc tham gia vào sự lãnh đạo vùng [Stubbs, 2014].  Cần phải có một nền ngoại giao mọi hướng,  hay toàn thiết bị,  từ ngữ đúng thời trang do Mạc-tư-khoa tung ra,  với những mối liên hệ khác nhau,  điều đó có nghĩa là cách gọi lạm dụng một thứ “thuần lý Bismarck” ngay tại Việt Nam.  Sự đa dạng những mối liên hệ bên ngoài của  Viêt Nam chỉ phản ảnh những sắp xếp hay những đấu tranh dành quyền lực giữa các phe “thân Mỹ”, “thân Tầu” thuộc đa số trong Đảng,  và đám “người sống bằng trợ cấp” thối nát chỉ tìm cách làm giầu cá nhân với bất cứ đồng chí nào.  Không có  gì là đặc biệt trong loại chiến lược đó tại vùng Đông-Á châu.  Điều này giải thích trong muôn một bởi sự phức tạp của những dữ kiện địa chính  <kinh tế, quân sự, môi trường, v.v.> đòi hỏi những đối tác mềm dẻo và  ad hoc <thích nghi> hơn cả những liên minh liền khối,  và bởi sự ngần ngại phải gia nhập vào những liên minh rõ ràng  và phải hy sinh một nền độc lập tương  đối còn quá mới.  Chủ quyền và nền độc lập dường như được xây dựng không bằng cách tự cách ly hay tìm sự bảo vệ của một đồng minh quyền năng,  nhưng bằng cách gia tăng  những mối lệ thuộc lẫn nhau mềm dẻo,  theo hình ảnh của rặng tre có thể ngả nghiêng bên này bên kia theo chiều gió nhưng vẫn đứng vững trên mặt đất.

            Mục tiêu của Việt Nam có lẽ là đạt tới việc các cường quốc tìm đúng vị trí của mình tại vùng Đông-Nam-Á .  Như vậy, trong vùng biển Nam-Hải, những nhượng quyền khai thác dầu khí dành cho ExxonMobil,  ONGC Ấn-độ,  Gazprom và Rosneft Nga.  Bắc-Kinh đã làm áp lực với Mạc-tư-khoa để chấm dứt mọi thỏa hiệp sản xuất, nhưng không đạt kết quả.  Nhưng không cần phải thu hút các cường quốc bên ngoài, họ thường là thiện nguyện,  Vấn đề cáng ngày càng cấp bách là một vùng “Án độ-Thái Bình Dương”.  Kể từ 2011-2013, từ ngữ đó được dùng trong các  bài diễn văn và tài liệu chính thức tại Án-độ, Nhật-bản, Nam-dương và Úc-đại-lợi.  Tại Hoa-kỳ, từ ngữ được dùng mạnh mẽ hơn lại là “Án độ-Á châu-Thái bình dương”, nhất là trong giới hải quân.  Trong mọi trường hợp , Đông-Nam-Á trở thành de facto <trên thực tế>  trung tâm trọng lực của “tập hợp vùng” đó.

            Mặc dù những  lời cảnh báo chống lại sự “Asiaphoria[4] “  <mang tính Á-châu>,  Cộng đồng Âu châu cũng tìm cách “chuyển hướng” , nhất là Đức-quốc, Vương quốc Anh hay nước Pháp,  vứa là rất thận trọng với những tranh cãi về Biển Đông Nam thuộc Tầu. Án-dộ và Nhật-bản nhìn về Đông-Nam-Á , không phải vì những lý do kinh tế giống như những năm 1980-1990 mà vì những lý do chiến lược. Vào tháng giêng 2015,  Thủ tướng Nhật  Abe tính đến những phi đội tuần hành trên biển Nam-hải Tầu,  điều này có thể dẫn đến việc nhà chức trách Tầu  tuyên bố một  ADIZ <Air Defence Identification Zone>  trên biển Nam-hải thuộc Tầu,  giống như họ đã làm trên biển Đông-hải thuộc Tầu,  đang gây ra một tình trạng hỗn độn trong nghành ngoại giao.  Ngũ-giác-đài có vẻ quan tâm,  Bộ ngoại giao  thì thù nghịch hơn.  Nhật-bản xích lại gần Phi-luật-tân và những mối liên hệ giữa Hanoi và Manille nhanh chóng gia tăng mặc dù những tranh cãi về đất đai,  một số người đã tưởng tượng một trục Nhật-Phi-Việt Nam,  kể từ đó,  Nhật-bản trao nhiều tầu tuần ven biển  cho cả hai nước.  Còn vấn đề “xoay trục Á-châu” của nước Nga kể từ năm 2011.  Họ đang trao sáu tầu ngầm mà đối với Việt Nam là một dấu hiệu về quy chế,  nhưng cái giá phải trả sẽ là tương đương với ngân sách quốc phòng một năm của xứ này.  Việt Nam đã là quốc gia đầu tiên ký một thỏa hiệp tự do mậu dịch với Cộng đồng kinh tế Âu-Á châu.

…và đối với sự ưu thế của những mối liên hệ với Trung-quốc

            Chiến lược đa phương của Việt Nam,  không liên minh với nước thứ ba,  cũng là một phương tiện để trấn an Trung-quốc.  Chỉ một vẻ thật sự tôn kính đối với Trung-quốc,  dấu hiệu của sự kiên trì trong những  mối quan hệ không đối xứng  [Womack, 2009],  nhưng cũng của một sự nối tiếp cổ xưa với một nền văn hóa quen thuộc hơn là nền văn hóa của Mỹ,  và thường đưa tới những mối quan hệ hòa bình và hài hòa .  Dù vậy,  Việt Nam dường như là một quôc gia đã được dành cho Bắc-kinh,  đã không cấn sử dụng cho nước này khuân khổ kế hoạch quyến rũ vùng những năm 2000 : không có Viện Khổng Tử nào được thiết lập.  Việt Nam luôn luôn sẵn sàng bàn cãi tay đôi với Bắc-kinh : trong cơn khủng hoảng 2014, các quan chức lo lắng việc khởi động cái “điện thoại đỏ” với Bắc-kinh và gửi những đại diện cao cấp bàn cãi với người Tầu.  Hanoi tự chứng tỏ là mình luôn đồng ý để tránh nền “ngoại giao qua điện thoại tăng âm”.  Nghệ thuật diễn tập cuộc gặp gỡ giữa chủ tịch Truong Tan Sang và Xi Jinping tại Bắc-kinh,  tại cuộc họp thượng đỉnh  APEC <Asia-Pacific Economic Cooperation, Hợp tác kinh tế vùng Á châu-Thái bình dương>  trong tháng mười một 2014, đã gợi lại tính chất trọng tâm của đế quốc.  Thật khó mà dựa vào sự đoàn kết của khối Asean mà Trung-quốc đã thử chia rẽ. Việt Nam cũng không đi quá xa như Phi-luật-tân trong cuộc tranh cãi đất đai với Bắc-kinh.  Họ không đưa sự việc ra trước ban trọng tài của luật phụ bản VII tại La Haye,  nhưng chỉ rõ quan điểm và sự bác bỏ “con đường chín điểm” do Trung-quốc vẽ ra.  Về phần người Mỹ, họ không muốn bị lôi kéo vào trong chiến lược của Việt Nam như là một nạn nhân.  Việc gặm nhấm đường biển của Tầu sẽ có thể đặt ra những vấn đề tương tự như việc gặm nhấm đất đai của Nga tại Ukraine,  và trở thành một cơn ác mộng chiến lược cho Washington.

            Trung-quốc bị tố cáo là “assertive[5]”  <có tính khẳng định> hơn và cũng có khả năng chơi lá bài quyến rũ và củ cà-rốt <phần thưởng>  sẽ gây khó khăn khi muốn thoát ra khỏi quỹ đạo Tầu: như vậy, vào cuối năm 2014,  từ “giấc mơ Á-châu-Thái bình dương”  do chủ tịch Xi Jinping khởi xướng,  nhưng nhất là “con đường tơ lụa trên biển” <khởi xướng vào mùa thu 2013>  và Ngân hàng á-châu để phát triển những đầu tư vào các cơ sở hạ tầng.  Hoa-kỳ không thể cạnh tranh với hàng chục tỷ mà người Tầu tung ra cho kế hoạch “ nền ngoại giao dựa trên cơ sở hạ tầng”,  thí dụ trong vùng sông Mekong.  Dường như mục tiêu không chỉ  phát triển trong vùng tập hợp “những lá cải” <thỏa hiệp kinh tế, cơ sở hợp tác, thiết lập cơ sở quân sự…>  hay là kiểm soát các vị trí giống như trong cờ vây của Tầu,  mà Bắc-kinh còn cho là có thể cung cấp những “của cải công ích” mà tất cả mọi quốc gia trong vùng có thể lợi dụng.

Kết luận

            Mặc dù những niềm hy vọng của các nhà chủ trương một chính sách cứng rắn tại Mỹ  muốn bao vây Trung-quốc, có rất ít khả năng điều đó tạo thành một mối liên hệ chặt chẽ với Việt Nam.  Hiển nhiên, dân chúng Việt Nam là loại lạc quan nhất vùng Đông-Nam-Á,  với một niềm tin mãnh liệt vào những sự tốt đẹp của việc trao đổi thương mại[6].  Nhưng Việt Nam kể từ nay được so sánh với những cường quốc trung bình trong vùng,  sẽ không kể đến Hoa-kỳ như là siêu đối tác cần thiết để chống lại Bắc-kinh.  Đối với Trung-quốc, Việt Nam sẽ theo đuổi sự kết hợp phức tạp bao gồm sự tôn kính,  sự đoàn kết,  chính sách tái cân bằng,  và những mối liên hệ ngoại giao chằng chịt với vô số quốc gia. [Vuving, 2006].  Việt Nam sẽ còn lệ thuộc vào nền kinh tế của Trung-quốc và sẽ lo lắng về những lấn lướt của họ,  và sẽ không còn dám thử chơi lá bài đoàn kết về thể chế chung như trong những năm 1990.  Họ sẽ để những quốc gia khác ở “hàng đầu”.  Trung-quốc sẽ còn ở tính khẳng định,  khi “con đường chữ U”  <con đường chín điểm tại biển Nam Hải>  đã trở thành một thứ “tôn giáo thế tục”  [Hayton, 2014].  Ngân sách hoa-kỳ năm 2015 và cơ quan Chiến lược về an ninh quốc gia tháng hai 2015 đều chỉ cho thấy chiến dịch  “rebalancing” vẫn tiếp tục mặc dù những cơn khủng hoảng tại Trung-đông và tại Ukraine.  Nền ngoại giao chỉ bàn về hải quân sẽ chỉ cho thấy những kết hợp cuộn lấy nhau ngày càng phức tạp của các chính sách thuộc các cường quốc trong vùng.


*Pierre Grosser,

 Giáo sư và chuyên viên nghiên cứu tại Centre d’histoire de Sciences Po Paris

Ông phụ trách một khía cạnh  “Le Việt Nam sera-t-il le meilleur allie des États-Unis en Asie ?” trong tạp chí HÉRODOTE,  revue de géographie et de géopolitique, No 157,  2e trimestre 2015,  LES ENJEUX GÉOPOLITIQUES DU VIỆT NAM , một tập hợp gồm  nhiều tác giả viết về nhiều khía cạnh khác nhau của “Những dữ kiện địa chính trị của Việt Nam”.

**Phan Tấn Khôi,  người dịch

Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Saigon,  ban Pháp văn,  niên khóa 1960-1963                           

 Cao học Nghiên cứu Giáo dục, Đại học Sư phạm Saigon,  niên khóa 1970-1972


 

 

[1] Đó là một điều suy luận cũng được phát triển tại Mỹ do một chính trị gia chuyên nghiệp gốc Hàn-quốc, David Kang, và được phổ biến rộng rãi do một trong những người nỗi tiếng của trường ngoại giao Anh-quốc, Barry Buzan.

[2] Prisoners of war <Tù nhân chiến tranh> và  Missing in action <Mất tích khi chiến đấu>

[3] Có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng giêng 2015 bao gồm các nước Nga, Belarus và Kazakhstan

[4] Cũng giống như vậy từ  I…Summers và I…Pritchett , “Asiaphoria meets regression to the mean”,  Mossavar-Rahmani Center forBusiness & Government,  Faculty Working Paper Series, 2014-04.

[5] Câu này, được sử dụng trong các phương tiện truyền thông và văn bản chiến lược Mỹ, gợi ra ý chí tự khẳng định, tiến tới chủ nghĩa quân sự tích cực.  Từ “assertif” trở thành thông dụng tại Pháp-quốc trong lãnh vực quản  lý nhân sự,  để cho các cá nhân có nhiều tư tin hơn.

[6] “Faith and skepticism about trade,  foreign investment”,  Pew Research Center,  16 septembre 2014,  w.w.w.pewglobal.org

Bình luận về bài viết này