
Napoleon Trở Về Từ Elba
(WORLD HISTORY)
Trần Quang Nghĩa dịch
Trăm Ngày đề cập đến triều đại thứ hai của Hoàng đế Pháp Napoléon I, người bất ngờ trở về từ nơi lưu đày để đòi lại ngai vàng nước Pháp. Nó bao gồm sự trở lại Paris đầy thắng lợi của Napoléon vào ngày 20 tháng 3 năm 1815, thất bại đỉnh cao của ông trong Trận Waterloo vào ngày 18 tháng 6 và sự phục hồi của Vua Louis XVIII vào ngày 8 tháng 7, khoảng thời gian 110 ngày.
Sau thất bại ban đầu trong Chiến tranh của Liên minh thứ sáu (1813-1814), Napoléon buộc phải thoái vị ngai vàng và bị đày đến đảo Elba. Ông ở đó trong chín tháng, nhưng tình trạng bất ổn chính trị ở Pháp và sự bất đồng giữa các cường quốc ở châu Âu đã khiến ông phải đấu tranh cho ngai vàng cũ của mình. Ông đổ bộ vào miền nam nước Pháp vào ngày 1 tháng 3 năm 1815 và đến Paris chỉ 20 ngày sau đó, bắt đầu triều đại thứ hai của mình. Đồng minh ngay lập tức tuyên bố ông ta là kẻ ngoài vòng pháp luật và cam kết sẽ truất ngôi ông ta một lần nữa; Napoléon bị đánh bại trong trận Waterloo và thoái vị lần thứ hai bốn ngày sau đó. Nhà Bourbon được khôi phục lại ngai vàng ở Pháp, và Napoléon một lần nữa bị lưu đày, lần này đến đảo St. Helena ở Nam Đại Tây Dương, nơi ông qua đời sáu năm sau đó. Do đó, Trăm ngày đánh dấu giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Napoléon (1803-1815).
THOÁI VỊ
Vào ngày 11 tháng 4 năm 1814, Hoàng đế Pháp Napoléon I đã ký đạo luật thoái vị vô điều kiện tại cung điện Fontainebleau. Đó là một viên thuốc đắng phải nuốt vì chưa đầy hai năm trước đó, ông đã là chủ nhân của lục địa Châu Âu, người cai trị một đế chế rộng lớn trải dài từ Iberia đến Ba Lan. Tuy nhiên, sau thất bại thảm hại trong cuộc xâm lược Nga của Napoléon vào năm 1812, những kẻ thù của ông – bao gồm Áo, Anh, Phổ, Nga và Thụy Điển – đã tập hợp lại chống lại ông trong Chiến tranh của Liên minh thứ sáu. Sau khi giáng cho Napoléon một thất bại nặng nề trong trận Leipzig (16-19 tháng 10 năm 1813), quân đội Liên minh tiến vào Pháp, quyết tâm phế truất hoàng đế Pháp. Napoléon ban đầu đã thể hiện sự kiên cường, giành được một loạt chiến thắng trên đất Pháp trong Chiến dịch Sáu ngày đầy ấn tượng của mình (10-15 tháng 2 năm 1814), nhưng số lượng áp đảo của quân Liên minh, cũng như thái độ thờ ơ của người dân Pháp đã quá mệt mỏi vì chiến tranh, đã đồng nghĩa với việc thất bại của Napoléon chỉ là vấn đề thời gian. Paris rơi vào tay Liên minh vào ngày 30-31 tháng 3 năm 1814, và một chính phủ lâm thời của Pháp được thành lập để đàm phán hòa bình.
Ngay cả khi đó, Napoléon vẫn quyết tâm chiến đấu và tin rằng binh lính của ông sẽ theo ông đến cùng, nhưng các thống chế của ông, quyết tâm ngăn chặn nội chiến và đổ máu nhiều hơn, đã nói với hoàng đế của họ rằng quân đội sẽ không hành quân thêm nữa. “Quân đội sẽ tuân theo tôi!” Napoléon nói với Thống chế Michel Ney, người đã giữ vững lập trường của mình và trả lời rằng “quân đội sẽ tuân theo các chỉ huy của mình” (Chandler, 1001). Bị nước Pháp và các thống chế bỏ rơi, Napoléon không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thoái vị, điều mà ông đồng ý thực hiện vào ngày 6 tháng 4. Vài ngày sau, ông cố gắng tự tử bằng cách nuốt một viên thuốc độc, nhưng hiệu lực của chất độc đã suy yếu theo tuổi tác và nó không có tác dụng. Vào ngày 11 tháng 4, Napoléon ký Hiệp ước Fontainebleau, trong đó ông đồng ý thoái vị ngai vàng Pháp. Đổi lại, ông sẽ được trao chủ quyền đối với đảo Elba ở Địa Trung Hải, ngoài khơi Ý, cũng như khoản trợ cấp 2,5 triệu franc mỗi năm. Ông sẽ được phép giữ danh hiệu ‘hoàng đế’ và có thể giữ một lực lượng cốt lõi gồm 600 Ngự lâm quân để bảo vệ hòn đảo chống lại những tên cướp biển Barbary ở Bắc Phi.

Napoleon thoái vị tại Fontainebleau, 11 tháng 4, 1814
Vào ngày 20 tháng 4, Napoléon rời Fontainebleau sau một cảnh đầy kịch tính, trong đó ông nói lời từ biệt với những người cận vệ già trung thành của mình trong sân cung điện. Ông được đưa đến Elba trên con tàu HMS Undaunted của Anh, đến bến cảng chính Portoferraio của hòn đảo vào ngày 3 tháng 5. Cùng ngày hôm đó, Vua Louis XVIII của Pháp, anh trai của vị vua bị chém trong Cách mạng Pháp, đã đến Paris để xưng vương sau hơn hai thập kỷ sống lưu vong. Vài tháng sau, các cường quốc chiến thắng của Liên minh thứ sáu triệu tập Hội nghị Vienna để xác định lại cán cân quyền lực ở châu Âu và vẽ lại bản đồ thế giới hậu Napoléon. Đối với tất cả những người quan sát đương thời, thiên sử thi vĩ đại về Napoléon dường như đã kết thúc; ít ai có thể đoán được rằng một màn cuối cùng vẫn sẽ được diễn ra.
LƯU ĐÀY ĐẾN ELBA
Napoléon vẫn ẩn náu ở Elba trong chín tháng, trong thời gian đó ông luôn bận rộn. Một ngày sau khi đến đảo, ông kiểm tra hệ thống phòng thủ và mỏ sắt của Portoferraio; trong những tháng tới, ông dành toàn bộ sức lực của mình để xây dựng một bệnh viện, trồng vườn nho, trải nhựa và xây cầu. Ông đã tổ chức lại hệ thống phòng thủ của Elba, phát tiền cho những cư dân nghèo nhất trên đảo và xây dựng một đài phun nước bên đường Poggio, công trình này vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay (Roberts, 723). Đối với những viên chức giám sát Anh, có vẻ như Napoléon đã chấp nhận thực tế mới và trở nên hài lòng với vương quốc mới nhỏ bé của mình. Trên thực tế, Napoléon háo hức đọc bất kỳ tin tức nào từ lục địa đến, tìm cơ hội giành lại ngai vàng nước Pháp. May mắn sẽ có, cơ hội sẽ sớm xuất hiện.
Quyết định quay trở lại Pháp của Napoléon được hình thành bởi hai yếu tố chính. Đầu tiên là tình trạng bất ổn chính trị ở Pháp, nảy sinh sau cuộc Phục hồi triều đại Bourbon. Vua Louis XVIII chắc chắn không phải là bạo chúa; quả thực, ông đã ban hành Hiến chương năm 1814, một hiến pháp tự do giữ lại những thay đổi xã hội của Cách mạng Pháp và bảo tồn bộ luật Napoléon. Tuy nhiên, Louis XVIII trở về với nhiều quý tộc của Chế độ Cũ đã trốn khỏi Pháp trong Cách mạng và ít quan tâm đến thỏa hiệp hơn. Được biết đến với cái tên ‘Ultras’ vì chủ nghĩa cực đoan họ, những quý tộc này tìm cách quay trở lại lãnh địa và nắm lấy quyền lực trước đây của họ. Họ chống lại những người theo chủ nghĩa cộng hòa Pháp cũng như những người theo chủ nghĩa Bonaparte bằng cách tổ chức các buổi lễ tôn vinh những người đã chiến đấu chống lại Cách mạng. Việc Louis XVIII bổ nhiệm nhiều “Ultras” vào các chức vụ cao khiến nhiều người lo ngại rằng các loại thuế phong kiến và thuế nhà thờ sẽ sớm được tái áp dụng. Hơn nữa, Louis XVIII không có được bạn bè nào khi thay thế cờ ba màu của Pháp bằng cờ trắng của triều đại Bourbon, và ông đã khiến quân đội xa lánh khi giải tán hàng nghìn quân và bắt các sĩ quan chỉ được lãnh lương một nửa. Nhiều người đã nhìn lại chế độ Napoléon với lòng hoài niệm.

Châu Âu vào năm 1815 sau Hội nghị Vienna
Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến quyết định trở lại của Napoléon là mối quan hệ ngày càng xấu đi giữa các cường quốc châu Âu. Những quyền lực này đã được thống nhất bởi mong muốn chung là đánh bại Napoléon; tuy nhiên, giờ đây điều này đã hoàn thành, những tranh chấp cũ nhằm nắm vị trí hàng đầu lại quay trở lại. Tại Hội nghị Vienna, các đại biểu tranh cãi về tương lai của Ba Lan và Đức; Nga muốn thành lập một nhà nước bù nhìn Ba Lan, trong khi Phổ cảm thấy được hưởng gần như toàn bộ lãnh thổ thuộc về Vương quốc Sachsen. Những nỗ lực của các đại biểu Áo và Anh nhằm ngăn chặn điều này gần như đã nổ ra chiến tranh. Mặc dù cuối cùng đã đạt được những thỏa hiệp nhưng căng thẳng giữa các cường quốc vẫn chưa hoàn toàn ngừng sôi sục.
Hai diễn biến này khiến Napoléon đầy hy vọng. Với việc nước Pháp vỡ mộng với nhà Bourbon và các đồng minh đang đối đầu nhau, Napoléon đánh cược rằng sự trở lại của ông sẽ được chào đón ở Pháp và các cường quốc châu Âu chẳng ngó ngàng gì. Vào ngày 26 tháng 2 năm 1815, ông rời Elba trên con tàu L’Inconstant cùng với các nhân viên của mình và khoảng 1.000 binh sĩ và lên đường về Pháp. Vào ngày 1 tháng 3, họ đổ bộ lên bờ biển phía nam nước Pháp gần Cannes; Khi họ bắt đầu dỡ hàng, một đám đông lớn tiếp cận họ và ngạc nhiên khi nhìn thấy vị hoàng đế trở lại. Như Napoléon sau này đã nhớ lại trong hồi ký của mình:
Trong số họ có một thị trưởng, ông ấy thấy chúng tôi quá ít nên đã nói với tôi: ‘Chúng tôi mới bắt đầu được hưởng cuộc sống yên tĩnh và hạnh phúc; bây giờ ngài lại định khuấy động tất cả chúng tôi một lần nữa ‘(Robets, 731).
CHUYẾN BAY CỦA ĐẠI BÀNG
Từ Cannes, Napoléon đã đưa ra một tuyên bố trong đó ông hứa rằng “con đại bàng sẽ bay từ tháp chuông này sang tháp chuông khác cho đến khi chạm tới các tòa tháp của Nhà thờ Đức Bà” (Mikaberidze, 604). Điều này bắt đầu sự kiện mà mọi người thường gọi là Chuyến bay của Đại bàng, một trong những hồi chương kịch tính nhất trong lịch sử. Từ Cannes, Napoléon cẩn thận đi qua vùng Provence bảo thủ, tránh thành phố Aix và thay vào đó di chuyển qua dãy Alps, chủ yếu đi bộ. Vào ngày 5 tháng 3, ông bắt đầu đi qua những vùng đất có cảm tình với ông như Dauphine, nơi ông được đám đông dân chúng chào đón tưng bừng. Tuyến đường do Napoléon đi ngày nay được gọi là Tuyến đường Napoléon và đã trở thành một địa điểm du lịch và đường đi xe đạp nổi tiếng.

Gần thị trấn Laffrey, Napoléon gặp trở ngại đầu tiên khi đụng độ một tiểu đoàn của Quân đoàn số 5 được cử đến bắt ông. Theo truyền thuyết của những người tôn sùng Bonaparte, Napoléon đã ra lệnh cho binh lính mình hạ vũ khí trước khi ông bước về phía những binh lính của quân đoàn 5, đang cầm súng chĩa thẳng vào ngực ông. “Hỡi các binh sĩ,” Napoléon kêu lên, “Ta là hoàng đế của các bạn. Các bạn không nhận ra ta sao? Nếu trong số các bạn có ai muốn giết tướng của mình thì có ta đây!” (sđd). Một sĩ quan theo chủ nghĩa bảo hoàng ra lệnh nổ súng, nhưng không một phát súng nào vang lên; thay vào đó, những binh lính lao tới và ôm lấy Napoléon với những tiếng hét “Vive l’empeurer!” [Hoàng đế Vạn Tuế!] Cho dù câu chuyện này có bịa đặt hay không thì sự thật là Napoléon đi tới đâu thì quân Pháp của Vua Louis đào ngũ theo ông tới đó. Vào ngày 10 tháng 3, Thống chế Ney rời Paris cùng với 6.000 người, hứa với Louis XVIII rằng ông sẽ dẫn Napoléon trở về trong “một chiếc lồng sắt”; chưa đầy một tuần sau, Louis XVIII nhận được tin Ney đã gia nhập Napoléon và đã công khai tuyên bố rằng “chính nghĩa của Bourbons đã vĩnh viễn bị mất!” (sđd).
Napoléon tiến rất nhanh chóng. Vào ngày 7 tháng 3, ông vào Grenoble sau khi một đám đông công dân cuồng tín phá bỏ cổng thành và đưa cho ông các mảnh vỡ. Ba ngày sau, ông đến Lyon, viết sắc lệnh của triều đình. Vào ngày 20 tháng 3, cuối cùng ông cũng đến được Paris, nơi ông gần như được đám đông cuồng nhiệt đưa đến Cung điện Tuileries; Louis XVIII đã rời khỏi thành phố chỉ vài giờ trước đó và trốn sang Bỉ. Trong vòng chưa đầy một tháng, Napoléon đã giành lại được đế chế của mình mà không cần nổ súng. Tất cả những gì còn lại là gìn giữ nó.
SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Trong vòng vài giờ sau khi Napoléon trở về, những người phục vụ cũ của ông được giao quyền quyết định đặt lòng trung thành của họ ở đâu. Mười thống chế cũ của ông tuyên bố trung thành với Napoléon, mặc dù chỉ có ba – Ney, Jean-de-Dieu Soult và Emmanuel de Grouchy – sẽ chỉ huy quân đội trong chiến dịch Waterloo. Louis-Nicolas Davout, được cho là thống chế tài năng nhất của Napoléon, đã bị giáng xuống công việc bàn giấy với tư cách là bộ trưởng chiến tranh, một quyết định mà nhiều người có cảm tình với chủ nghĩa Bonaparte sau này đã than thở là ông đã lãng phí tài năng. Napoléon cũng được ba anh trai của ông, Joseph, Lucien và Jerôme góp sức, mặc dù anh trai Louis và con riêng của ông là Eugène de Beauharnais đã tránh xa. Chính phủ được tái lập của ông không thiếu các bộ trưởng tài năng và bao gồm Armand de Caulaincourt làm bộ trưởng ngoại giao, Joseph Fouché làm bộ trưởng cảnh sát và Lazare Carnot làm bộ trưởng nội vụ.
Tuy nhiên, Napoléon hiểu rằng công luận thì sớm nắng chiều mưa, và ông có thể mất ngai vàng dễ dàng như khi giành lại được nó. Nhận thấy chính phủ mới của mình không thể tồn tại như trước đây, ông tự thể hiện mình là một người đã thay đổi, không còn quan tâm đến việc chinh phục hay cai trị chuyên quyền. Để chứng minh điều này, ông đã mời nhà phê bình lâu năm Benjamin Constant soạn thảo một hiến pháp mới, trong đó bao gồm một quốc hội lưỡng viện sẽ chia sẻ quyền lực với hoàng đế, dựa trên mô hình của Anh. Ông cũng chấm dứt kiểm duyệt và bãi bỏ hoàn toàn việc buôn bán nô lệ. Napoléon liên tục phủ nhận rằng mình có bất kỳ tham vọng đế quốc nào, hứa rằng “từ nay trở đi, hạnh phúc và sự đoàn kết của Đế quốc Pháp sẽ là đối tượng trong suy nghĩ của tôi” và rằng “từ nay trở đi sẽ dễ chịu hơn khi không thiết đến sự cạnh tranh nào khác ngoài sự cạnh tranh vì lợi ích của hòa bình” (Mikaberidze, 605; Roberts, 746).
Tất nhiên, nhiều người nghi ngờ về cuộc cải cách của Napoléon; xét cho cùng, đây chính là người đã từng nhận xét rằng “một cơ quan nghị viện là một điều đáng sợ phải đối mặt” (Mikaberidze, 606). Thật vậy, các cố vấn của Napoléon đã phải ra sức can ngăn khi ông muốn ngăn chặn cuộc bầu cử cho một trong những đối thủ của mình vào chức chủ tịch Hạ viện mới vào ngày 3 tháng 6. Nhiều người ở Pháp tiếp tục chống lại sự cai trị của Napoléon; những người nổi tiếng địa phương ở Flanders, Artois, Normandy, Languedoc và Provence từ chối tập hợp quanh chính nghĩa của Napoléon, trong khi các vùng Brittany và Vendée nổ ra cuộc nổi dậy vũ trang.
Trong khi đó, các cường quốc Đồng minh không tin rằng Napoléon đã gác lại tham vọng đế quốc của mình. Sáng ngày 7 tháng 3, ngay khi nhận được tin Napoléon đã trốn thoát khỏi Elba, Ngoại trưởng Áo Klemens von Metternich đã thông báo cho quốc vương của các cường quốc vẫn đang tập trung tại Vienna. Trong vòng vài giờ, các nhà lãnh đạo Đồng minh đã đồng ý bắt đầu huy động lực lượng của họ. Vào ngày 25 tháng 3, quân Đồng minh chính thức gác lại những khác biệt và thành lập Liên minh thứ bảy, tuyên chiến không phải với Pháp mà với chính Napoléon; Đồng minh coi Napoléon là kẻ ngoài vòng pháp luật và cam kết không hạ vũ khí cho đến khi ông ta bị đánh bại vĩnh viễn.
CHIẾN DỊCH WATERLOO
Quân Đồng minh quyết định đe dọa vùng tây bắc nước Pháp bằng cách xâm lược Bỉ; việc này sẽ được thực hiện bởi quân đội Phổ gồm 120.000 người do Nguyên soái Gebhard Leberecht von Blücher chỉ huy, và một đội quân đồng minh Anh gồm 100.000 quân do Arthur Wellesley, Công tước xứ Wellington chỉ huy. Một đội quân Áo gồm 200.000 người sẽ đồng thời chiếm vị trí ở Thượng lưu sông Rhine, được hỗ trợ bởi 150.000 quân Nga ở Trung lưu sông Rhine. Trong khi đó, Napoléon đã có thể tập hợp một đội quân 250.000 người vào tháng 6. Quốc gia duy nhất đứng về phía Pháp là Naples, nơi vua Joachim Murat coi liên minh với Pháp là cách duy nhất để cứu lấy ngai vàng của mình. Tuy nhiên, Murat đã bị quân Áo đánh bại trong Trận Tolentino (2-3 tháng 5 năm 1815) và bị phế truất; sau đó ông ta bị hành quyết vào ngày 13 tháng 10 sau khi cố gắng xúi giục người Neapolitan nổi dậy.
Vào ngày 14 tháng 6, Napoléon mở cuộc tấn công vào Bỉ. Quân miền Bắc của ông chia làm hai cánh; cánh trái do Thống chế Ney chỉ huy, cánh phải do Thống chế Grouchy chỉ huy, và đích thân Napoléon chỉ huy Đội Ngự lâm quân trong khu dự bị. Cuộc tấn công của Napoléon khiến quân Đồng minh bất ngờ; vào ngày 15 tháng 6, Wellington có mặt ở Brussels, tham dự buổi dạ hội của Nữ công tước xứ Richmond. Khi được thông báo về sự tiến công nhanh chóng của kẻ thù, ông thốt lên: “Chúa ơi, Napoléon đã hạ bệ tôi!” (Roberts, 751). Thật vậy, vào thời điểm đó, Napoléon đang tiến về phía quân đội của Blücher tại Ligny, với hy vọng đánh bại từng quân Đồng minh. Vào ngày 16 tháng 6, Napoléon tấn công và đánh bại Blücher trong Trận Ligny, gây thương vong cho khoảng 17.000 quân Phổ và tổn thất 11.000 quân. Cùng ngày hôm đó, Ney giao chiến với quân đội của Wellington trong Trận Quatre Bras; mặc dù Ney đã ngăn cản Wellington hành quân đến viện trợ cho Blücher, nhưng ông ta đã thất bại trong việc đánh bại quân đội của Wellington một cách dứt khoát.

Vào trưa ngày 17 tháng 6, Napoléon cử 33.000 quân của Grouchy truy đuổi quân Phổ trước khi hội quân với Ney tại Quatre Bras. Đến thời điểm này, Wellington đã biết về thất bại của Blücher tại Ligny và đã rút lui để chiếm một vị trí phòng thủ trên sườn núi Mont-Saint-Jean, chỉ cách sở chỉ huy của ông ở Waterloo vài dặm về phía nam. Napoléon truy đuổi, quân của ông hành quân gặp khó khăn dưới cơn mưa xối xả. Ông phớt lờ lời cảnh báo của các sĩ quan rằng đừng đánh giá thấp Wellington; Napoléon coi công tước Anh là “tướng tồi” và lính Anh là “quân tệ”, châm biếm rằng “việc này không có gì nghiêm trọng hơn việc ăn bữa điểm tâm của một người” (Mikaberidze, 610). Napoléon phát động cuộc tấn công ngay sau 11 giờ sáng ngày 18 tháng 6, ra lệnh cho một loạt cuộc tấn công trực diện vào phòng tuyến của Đồng minh. Mặc dù quân của Wellington giữ vững vị trí nhưng tình hình trở nên nguy cấp vào cuối buổi chiều, khi quân Pháp chiếm được La Haye Sainte và gần như chọc thủng trung tâm Đồng minh.
Đúng lúc này, Blücher đến cùng 50.000 người, bỏ lại phía sau một quân đoàn để kiềm chân Grouchy trong Trận Wavre. Trong nước cờ cuối cùng nhằm giành lại quyền kiểm soát trận chiến, Napoléon đã điều động Đội Ngự lâm quân của mình, đưa họ lên sườn núi chống lại phòng tuyến của Đồng minh. Nhưng ngay cả đội ngự lâm quân lừng lẫy cũng không thể chọc thủng phòng tuyến của Wellington, và chẳng bao lâu sau, quân Pháp đã bị đánh tan tác. Khoảng 25.000 đến 31.000 lính Pháp thiệt mạng hoặc bị thương, so với khoảng 26.000 thương vong của quân Đồng minh. Thất bại của Napoléon trong trận Waterloo đã khép lại số phận của Đế quốc Pháp.
LƯU ĐÀY ĐẾN ST.HELENA
Napoléon trở lại Paris vào ngày 21 tháng 6 và thoái vị lần thứ hai vào ngày hôm sau để nhường ngôi cho con trai ông, Napoléon II, bốn tuổi. Vào ngày 25 tháng 6, Napoléon rời Paris và trốn đến Rochefort, nơi ông dự định tìm đường sang Hoa Kỳ. Tuy nhiên, khi đến Rochefort, ông phát hiện ra nó đang bị tàu Hải quân Hoàng gia Anh phong tỏa. Vào ngày 7 tháng 7, lực lượng Liên minh tiến vào Paris và Louis XVIII được phục hồi ngai vàng vào ngày hôm sau. Thống chế Ney bị bắt vào ngày 3 tháng 8 vì vai trò của ông trong việc đưa Napoléon trở về và bị xử bắn trước đội hanh quyết vào tháng 12 năm 1815.

Trong khi đó, Napoléon đầu hàng Thuyền trưởng Frederick Lewis Maitland của tàu HMS Bellerophon vào ngày 15 tháng 7 năm 1815. Yêu cầu tị nạn của ông ở London bị từ chối; Đồng minh ra phán quyết vào ngày 2 tháng 8 rằng Napoléon là tù nhân chiến tranh và phải bị giam ở một nơi mà ông không thể trốn thoát. Để đạt mục đích này, ông bị đày đến St. Helena, một hòn đảo cô đơn hoang vắng ở Nam Đại Tây Dương cách bờ biển gần nhất khoảng 2500 km (hơn 1.500 dặm). Napoléon sẽ dành phần đời còn lại của mình ở St. Helena, bị những kẻ bắt giữ người Anh theo dõi chặt chẽ cho đến khi ông qua đời vào ngày 5 tháng 5 năm 1821.