
Patrick J. Kiger
Đinh Tỵ biên dịch
Đế chế Ottoman từng là cường quốc quân sự và kinh tế đứng đầu thế giới. Điều gì đã xảy ra?
Vào thời đỉnh cao chói lọi trong những năm thập niên 1500, Đế Chế Ottoman là một trong những cường quốc quân sự và kinh tế hàng đầu toàn cầu, vươn vòi bạch buộc không chỉ đại bản doanh của nó tại Tiểu Á mà còn phần nhiều lãnh thổ đông nam Châu Âu, Trung Đông và Bắc Phi. Đế chế này đã nắm quyền kiểm soát lãnh thổ trải dài từ Danube đến Nile, với một đội quân tinh nhuệ, thương mại phát đạt và đạt được các thành tựu ấn tượng trong nhiều lãnh vực từ kiến trúc cho đến thiên văn học.
Nhưng niềm vui chẳng tày gang. Trong suốt giai đoạn đế chế Ottoman tồn tại trong 600 năm, nó sa vào điều mà hầu hết các sử gia từng mô tả, đó là cuộc suy thoái kéo dài, tăng trưởng chậm chạp mặc cho nổ lực hiện đại hóa. Cuối cùng, sau khi liên minh với Đức trong thế chiến thứ 1 và phải hứng chịu đại bại, đế chế bị tan rã qua các hiệp ước và phải xóa sổ năm 1922, khi vị Sultan Ottoman cuối cùng, Mehmed VI bị truất ngôi và buộc phải bôn tẩu khỏi thủ đô Constantinople (Istanbul ngày nay) trên một tàu chiến Anh quốc. Từ tro tàn của đế chế này nổi lên một quốc gia hiện tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Đầu dây ngọn nguồn nào khiến đế chế Ottoman một thời lẫy lừng phải tiêu vong? Đề tài này được các sử gia tranh cãi liên tu bất tận nhưng dưới đây là một số nguyên nhân khả dĩ.
Nền kinh tế thuần nông
Trong khi cuộc cách mạng công mạng càn quét khắp Châu Âu trong các giai đoạn thập niên 1790 và 1800, nền kinh tế Ottoman vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Đế chế thiếu hụt nhà máy và hãng xưởng nên không thể duy trì khoảng cách với Anh, Pháp thậm chí là Nga, theo Michael A. Reynolds, trợ lý giáo sư nghiên cứu ngành Cận Đông tại đại học Princeton. Hệ quả là, tăng trưởng kinh tế đế chế ngày càng kém trong khi đó thặng dư nông nghiệp mà nó tạo ra phải thanh toán cho các khoản vay của các chủ nợ Châu Âu. Mọi việc diễn biến theo chiều hướng xấu vào thời điểm xảy ra cuộc thế chiến thứ 1, Đế chế Ottoman không có một nền công nghiệp hùng mạnh để sản xuất các loại vũ khí hạng nặng, đạn dược, sắt lẫn thép cần thiết để xây dựng các đường rầy xe lửa nhằm trợ lực nổ lực chiến tranh.
Tinh thần liên đới chưa cao
Vào thời đỉnh cao, Đề chế Ottoman bao gồm Bulgaria, Ai Cập, Huy Lạp, Hungry, Jordan, Lebanon, Israel và các lãnh thổ của người Palestine, Macedonia, Romania, Syria, nhiều phần Ả Rập và vùng ven biển Bắc Phi. Thậm chí các cường quốc ngoại bang chẳng làm gì tác động nhằm hủy hoại đế chế, Reynolds không nghĩ nó sẽ giữ hình hài toàn vẹn và phát triển thành một quốc gia dân chủ hiện đại. “Có lẽ trình độ phát triển thiếu đồng bộ đã làm hại nó, bởi vì bên trong đế chế có sự đa dạng rất lớn về các phương diện sắc tộc, ngôn ngữ, kinh kế và địa lý”, ông nhận xét. “Các xã hội đồng nhất dễ dàng mang đến dân chủ hóa hơn các xã hội có khuynh hướng ngược lại”
Các dân tộc đa dạng là một bộ phận của đế chế ngày càng có xu hướng khởi binh dấy loạn và vào thập niên 1870, đế chế buộc phải trao trả độc lập cho Bulgaria và các quốc gia khác đồng thời phải nhượng lại ngày càng nhiều lãnh thổ hơn. Sau khi bị đại bại qua các cuộc chiến Balkan giai đoạn 1912-1913 trước một liên minh bao gồm một số thuộc địa cũ, đề chế phải ngậm ngùi từ bỏ các lãnh thổ Châu Âu còn sót lại.
Tỷ lệ thất học của dân chúng quá cao
Mặc cho các nổ lực cải thiện chương trình giáo dục trong những năm thập niên 1800, Đế chế Ottoman bị tụt hậu khá xa so với các đối thủ Châu Âu về phổ cập giáo dục, chẳng hạn như năm 1914, ước tính chỉ có từ 5% đến 10% dân số biết đọc. “Nguồn nhân lực, cũng như nguồn lực tự nhiên của Đế chế Ottoman, chỉ sánh ngang với các nước kém phát triển”, Reynold lưu ý. Điều đó có nghĩa là đế chế thiếu hụt số lượng sĩ quan quân đội được huấn luyện bài bản, kĩ sư, thư ký, bác sĩ và các chuyên gia lĩnh vực khác.
Các quốc gia khác cố ý bào mòn sinh lực đế chế.
Tham vọng của các cường quốc Châu Âu cũng là yếu tố khiến Đế chế Ottoman bị bức tử nhanh chóng, Eugene Rogan, giám đốc Trung tâm Trung Đông tại đại học St. Antony, Oxford giải thích. Cả Nga và Áo, với mục đích tăng cường ảnh hưởng đã chống lưng cho các cuộc nổi loạn chủ nghĩa dân tộc tại Balkan. Và Anh và Pháp hào hứng xà xẻo các lãnh thổ do Đế chế Ottoman kiểm soát tại Trung Đông và Bắc Phi.
Đối đầu với đại kình địch Nga
Giáp giới với nước Nga của Sa hoàng, với lãnh thổ chồng lấn gồm cả các nước Hồi giáo đã khiến hai nước này trở thành đối thủ không đội trời chung. “Đối với đế chế Ottoman, đế chế Nga là mối đe dọa hung hiểm nhất và nó là mối đe dọa thực thụ thường trực”, Reynolds đánh giá. Khi hai đế chế chọn phe đối địch nhau trong Thế chiến 1, Nga là quốc gia tham chiến đầu tiên bị loại khỏi cuộc chơi có nguyên nhân một phần là bị lực lượng Ottoman ngáng đường Nga nhận tiếp tế từ Châu Âu thông qua Biển Đen. Sa hoàng Nicholas II và vị Ngoại trưởng, Sergei Sazanov, đã bác bỏ ý tưởng thương lượng một hiệp ước hòa bình riêng rẽ với đế chế, yếu tố sống còn cứu vãn nước Nga.
Sai lầm chọn phe trong Thế chiến 1
Quyết định chọn phe với Đức trong Thế chiến 1 có lẽ là yếu tố cốt lõi khiến Đế chế Ottoman bị bức tử. Trước Thế chiến, Đế chế Ottoman đã ký hiệp ước mật với Đức, hóa ra đây là sự lựa chọn đầy tai hại. Trong cuộc xung đột sau đó, đội quân đế chế đã giao tranh trong một chiến dịch tàn khốc, đẩm máu tại bán đảo Gallipoli nhằm bảo vệ thủ đô Constantinople tránh khỏi cuộc xâm lược của quân Đồng minh trong các năm 1915-1916. Rốt cuộc, nửa triệu quân của đế chế đã bỏ mạng trên sa trường , đa số do dịch bệnh, cộng thêm hơn 3,8 triệu thương phế binh. Tháng 10 năm 1918, đế chế ký lệnh hưu chiến với Anh và lệnh lui binh.
Theo nhận định của một số người, nếu định mệnh không xui khiến nó vướng vào Thế chiến 1, đế chế có lẽ vẫn còn tồn vong. Mostafa Minawi, một sử gia tại đại học Cornell, tin rằng Đề chế Ottoman có tiềm năng phát triển thành một liên bang đa sắc tộc, đa ngôn ngữ. Thay vào đó, ông biện giải, Thế chiến 1 là chiếc bẩy giăng đế chế. “Đế chế Ottoman đã chọn phe thất trận”, ông nói. Hệ quả là, khi cuộc chiến tàn, “Sự chia chác lãnh thổ Đế chế Ottoman do kẻ thắng trận định đoạt”.
Về tác giả:
Patrick J. Kiger từng cộng tác với GQ, the Los Angeles Times, National Geographic, PBS NewsHour và Military History Quarterly. Ông là đồng tác giả (với Martin J. Smith) trong tác phẩm Poplorica: A Popular History of the Fads, Mavericks, Inventions, and Lore that Shaped Modern America.